“Không có hạnh phúc nào bằng sự yên tĩnh của
tâm hồn.”
Lời Phật dạy
KỆ KHAI CHUỖI
Tay lần trăm tám hột châu,
Dứt trừ tội lỗi, buồn rầu tiêu tan,
Xa ĺa khổ ác ba đàng,
Thế gian phiền lụy hóa toàn liên hoa.
Ái hà ngàn thước sóng xao,
Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi!
Muốn cho khỏi kiếp luân hồi,
Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
THAY LỜI TỰA
Tôi đă biết niệm Phật từ khi c̣n bé, v́ gia
đ́nh cha mẹ đă tu pháp môn Tịnh độ trước khi
sinh ra tôi. Nhưng từ trước đến giờ, tôi
chưa được gặp tập sách nào chỉ đến phương
pháp niệm Phật đầy đủ như tập này. Để cho
người tu niệm đỡ thắc mắc khi không biết
ḿnh phải thật hành cách nào cho có kết quả
và phải xoay sở ra sao khi gặp phải chướng
ngại trên bước đường tu niệm, nên tôi xin
kính dịch để giúp phần phương tiện cho những
bạn tu Tịnh độ, tùy hoàn cảnh, căn cơ mà
thực hành hầu dễ thu hoạch kết quả mong
muốn.
Về lợi ích và giới thiệu Pháp môn Tịnh độ, ở
đây tôi xin không đề cập, v́ đă có rất nhiều
bản nói đến rồi. Vậy tôi cũng xin như thuật
giả, là đi ngay vào những phương pháp thực
hành mà thôi.
Để làm dễ và rộng một phần nào sự t́m hiểu
của các bạn đồng tu, sau mỗi pháp, nếu có
chỗ nào chưa rơ ràng lắm, hoặc quá gọn tắt,
tôi xin có lời giải thích (theo sở hiểu của
tôi) và một vài lời bàn giải để làm sáng tỏ
cho phương pháp mà thuật giả đă tŕnh bày.
Nhưng dù thế nào cũng sẽ không tránh khỏi ít
nhiều thiếu xót, kính mong các bực cao minh
và các Liên hữu bốn phương vui ḷng bổ chính
cho, thật tôi muôn phần cảm tạ.
Trong 48 pháp này, tùy phương tiện, hoàn
cảnh, tŕnh độ, có thể tùy nghi, không nhứt
thiết bắt buộc phải thực hành tất cả. Pháp
này khó kết quả, hoặc không hợp, ta hăy đổi
sang pháp khác, điều cốt yếu, làm sao cho
được “Nhất tâm bất loạn" tức “Niệm Phật tam
muội” là mục đích.
Kết quả tốt đẹp sẽ đến với chúng ta, khi
chúng ta biết cách thực hành cho đúng mức.
Kính cầu nguyện ánh bi quang của đức Phật A
Di Đà soi sáng tự tánh Di Đà của chúng ta và
khi măn duyên kiếp khổ lụy Ta Bà, chúng ta
sẽ được thừa nguyện lực của Ngài, đồng được
văng sanh về cảnh giới an lạc.
NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
Chùa Thiền Tôn, mùa Hạ năm Quí Măo (1963)
Liên Tử TỊNH LẠC
Vài ḍng của người đánh máy:
Để cho bạn đọc hiểu rơ thêm về tác giả của
quyển sách này, tôi xin mạo muội kèm thêm
tiểu sử của tác giả được trích trong quyển
“Hương Quê Cực Lạc” của Ḥa Thượng Thích
Thiền Tâm. Xin các bạn hoan hỉ.
DIỆU KHÔNG ĐẠI SƯ
Đại sư họ Trịnh, người ở Giang Đô. Lúc thiếu
thời ngài học Nho, thường đồng với Quán Như
pháp sư, Dương Như Sơn, Hứu Vân Hư, thương
nghị khắc Đại tạng kinh. Kế đó ngài xuất
gia, tự hiệu là Khắc Kinh Tăng. Trong mười
lăm năm, Đại sư đă khắc hơn ba ngàn quyển.
Sau khi ngài tịch ba năm, bộ kinh Đại Bát
Nhă mới hoàn thành. Đại sư giữ giới tinh
nghiêm, quá giờ Ngọ không ăn, thuở sanh b́nh
trứ thuật rất nhiều, sau hợp lại thành pho:
“Lâu các ṭng thơ”. Trong ấy phần nhiều là
những sách xiển dương tông Tịnh độ. Ngài cảm
hóa người rất đông, đa số là kẻ trọng vọng
như ông Tưởng Nguyên Lượng v.v... Nhà Thanh
năm Quang Chữ thứ 6, Đại sư niệm Phật mà
tịch, hưởng 55 tuổi.
-----o0o-----
01. NIỆM PHẬT NÊN GIỮ Ư CĂN:
Đă đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc
tạp thiện, tạp ác [1] đều không nên nhớ, tức
hàng ngày chỉ nên làm mọi việc với ư niệm
vạn bất đắc dĩ, xong rồi th́ xả, đừng để day
dích, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta.
Vả lại, sở dĩ tâm niệm của chúng ta cứ c̣n
dây dưa măi với những tạp thiện, tạp ác là
v́ ư địa chưa thuần; nếu ta niệm Phật đến
lúc tâm địa sáng tỏ, thời ư địa tự nhiên
chuyên ṛng nơi quán sát, không duyên tạp
sự.
Phải biết, niệm Phật có thể chuyển Phàm
thành Thánh, là phương tiện giải thoát thứ
nhứt của thế gian và xuất thế gian vậy.
Lời phụ giải: Sự sống hàng ngày đă chiếm quá
nhiều th́ giờ của chúng ta, bởi vậy nên
những lớp trần ai càng bám riết theo cuộc
sống, làm cho chúng ta không rảnh được sự
tính toán, mà hễ tính nhiều tức loạn trí, lo
âu ắt tổn thần. Thế nên khi xác nhận cuộc
sống này chỉ là tạm bợ, trả vay, quay về với
cuộc sống tâm linh vĩnh viễn, chơn thật, th́
c̣n ǵ nữa mà không buông bỏ tất cả giả
cảnh, để sống với cảnh giới chơn thường.
Phàm, Thánh, mê, ngộ đều ở nơi ư địa của
đương nhơn mà thôi!
02. NIỆM PHẬT NÊN G̀N KHẨU NGHIỆP
Đă dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả
những việc SÁT, ĐẠO, DÂM, VỌNG [2] không nên
buông lời nói càng, nói quấy. Một khi nói
lỡ, nên tự nghĩ rằng: người niệm Phật không
nên nói như thế, rồi cố gắng niệm lớn ít
tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm ḿnh và
gột tẩy ngay những lời bất thiện ấy.
Lời phụ giải: Phàm đă mang danh từ Phật tử
và đă biết niệm Phật, tất cả phải giữ ǵn
khẩu nghiệp. Nếu thoảng một lời vô nghĩa
thốt ra, tự suy nghĩ ăn năn chẳng ít, huống
không có lợi ích ǵ cho ai, mà c̣n gây khổ
hận cho kẻ khác, th́ dầu một tiếng cũng
không nên mở miệng. Phật là tượng trưng cho
sự Thanh tịnh, mà ta lại niệm Phật bằng cái
miệng bất tịnh th́ phỏng được lợi ích ǵ?
Trong kinh Phạm Vơng có chép: “Nhựt nhựt
khởi tam nghiệp tội, khẩu tội vô lượng.”
Miệng là cửa mở muôn điều ác hay thành vạn
sự lành, vậy ta cần phải suy kỹ trong lúc mở
lời. Huống chi việc niệm Phật, chúng ta lại
càng cần phải giữ miệng cho thật sạch, nghĩa
là một lời quấy, một tiếng xấu, nhứt định
phải tiêu diệt trong khi chúng c̣n trong
trứng nước, không để chúng thành h́nh, đừng
nói phát ra cửa miệng. Tu thân, tu tâm mà
không tu miệng là một khuyết điểm lớn!
03. NIỆM PHẬT PHẢI CHỈNH THÂN NGHIỆP:
Đă đem thân này niệm Phật, thời trong mọi
lúc cũng như trong mọi cử chỉ: đi, đứng,
ngồi, nằm, thân cần phải đoan chánh [3] th́
tâm mới được thanh tịnh. Người niệm Phật nên
tự nghiệm điều này, thật không bao giờ dối.
Lời phụ giải: Thân thể có ảnh hưởng mănh
liện đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh
thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự
lực, tha lực, kiên cố chấp tŕ câu danh hiệu
Phật, tất phải dọn ḿnh cho thật đoan chánh,
trước khi niệm. Tâm ta tịnh được là do thân
nghiệp không động, không nhiễm. Vậy nên,
muốn công phu niệm Phật có kiến hiệu, điều
kiện trước tiên là phải giữ ǵn thân nghiệp
cho đoan chánh.
04. NIỆM PHẬT LẦN CHUỔI:
Niệm Phật một tiếng, tay lần một hột. Chỉ
nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, v́ bốn
chữ rất dễ thành khối [1]. Trong bốn chữ A
Di Đà Phật, hoặc lần chuổi tại chữ A, hoặc
lần tại chữ Đà, hoạch định cho có phép tắc,
không được lầm lẫn, đây là pháp mượn chuổi
để nhiếp tâm vậy.
Lời phụ giải: Giữ tâm niệm thành khối, danh
hiệu Phật, mỗi câu xâu xuốt với nhau không
xen hở một tạp niệm nào, ví như xâu chuổi,
hột này dính liền với hột khác, hột hột dính
liền với nhau, đó là ư nghĩa của sự niệm
chuổi. Hơn thế nữa, đó là phương tiện nhắc
nhở kẻ sơ cơ, chưa thuần với chánh niệm, nhớ
lại câu niệm Phật. Kẻ lười nhờ đó mà siêng,
kẻ trễ nhờ đó mà gắng. Khi chánh niệm đă
tinh thuần, Phật niệm không ĺa tự tâm, bây
giờ có chuổi hay không cũng chẳng thành vấn
đề. Thế nên kẻ sơ cơ cần nhờ nó để làm
phương tiện. Chẳng lẽ sắm chuổi để mốc à?
5. NIỆM LỚN TIẾNG
Nếu lúc thần trí hôn trầm [2], hay khi vọng
tưởng đua khởi, hăy nên trấn tỉnh tinh thần,
to tiếng niệm Phật, niệm cho được vài ba
trăm tiếng tự nhiên đổi thành cảnh giới an
tịnh. Bởi v́ nhĩ căn thính lắm, nên ngoại
duyên dễ vào, tiếng làm cho tâm động, tạp
tướng nổi dậy, nên phải to tướng niệm Phật
để giữ ǵn nhĩ căn, hầu mở tỏ tâm linh. Bấy
giờ tâm chỉ nghe tiếng của chính ḿnh, mỗi
tiếng liên tục, đầy đủ, tất cả những ǵ phải
quấy, nên, hư tự nhiên phóng xả.
Lời phụ giải: Lúc ta mệt nhọc, trong người
hay uể oải, hay sanh chứng ngủ gật, hay cả
thân thể lẫn tâm linh như có cái ǵ đè nặng,
bấy giờ nếu ta dùng cách tịnh niệm, th́ chỉ
càng giúp cho sự mệt nhọc, ngủ gật kia đắc
lực. Thế nên ta phải to tiếng niệm Phật,
quán sát tiếng niệm Phật kia từ tự tâm lưu
xuất, rồi theo lỗ tai vào lại tự tâm, ṿng
quanh măi như thế, đến khi nào, tâm ta sáng
suốt, ma ngủ gật kia biến mất, chỉ thuần một
câu niệm Phật rơ rành mới thôi.
6. NIỆM NHỎ
Nếu lúc tinh thần tán thất, hoặc khi nhiều
việc nhọc nhằn hay phải nhiều điều bức bách,
th́ không cần phải niệm to, chỉ nên thấu
liễm thần minh [3] nhỏ tiếng niệm kỹ. Đến
khi hơi thở điều ḥa, tinh thần hứng khởi,
an định tâm hồn mới nên niệm to tiếng.
Lời phụ giải: Phương pháp niệm nhỏ là để đối
trị bệnh tán loạn. Nhiều khi v́ quá bề bộn
công việc, mà thân tâm ta phải quá nhọc
nhằn, hay có những việc làm ta phải cực
ḷng, bực trí. Bấy giờ nên dùng pháp niệm
nhỏ, v́ nếu niệm to sẽ giúp phương tiện cho
ma tán loạn thêm sức mạnh. Niệm nhỏ từng
tiếng từng câu thật kỹ, thật rơ, lần lần tâm
thần ta sẽ được an tịnh, bấy giờ nên niệm
lớn.
07. NIỆM THẦM
Nếu tâm khí [4] không được điều ḥa, hoặc
người hay chỗ có ngại, niệm to, niệm nhỏ đều
thấy không tiện, th́ chỉ nên động môi, dùng
pháp niệm thầm (Kim Cang tŕ), không bắt
buộc nhiều ít, nhưng cấn nhứt: mỗi chữ, mỗi
câu phải từ tự tâm lưu xuất.
Lời phụ giải: Pháp này khác với pháp niệm
nhỏ trước, v́ chỉ được động môi mà không cho
phát ra tiếng; nói cho dễ hiểu là chỉ nhép
miệng mà thôi. Vả như có người nằm gần ta,
hay chỗ ta ở khít gần với kẻ khác, niệm
thành tiếng dù lớn dù nhỏ cũng có thể đụng
đến họ, vậy nên chỉ nhép miệng niệm thầm,
không cần hạn số, bao nhiêu cũng được, miễn
sao câu niệm Phật bắt nguồn từ tự tâm, kích
động đầu môi, bật thành một thứ âm thanh
huyền diệu, không thành tiếng mà vang khắp
đại thiên, nhưng vẫn không ngoài đương niệm.
08. MẶC NIỆM
Lại hoặc niệm to, niệm nhỏ đều không hợp,
tay lần chuổi lại hiềm phiền phức, niệm thầm
vẫn thấy c̣n có dấu vết, th́ xưa có phương
tiện chí xảo là không cần động mồm, không
phát ra tiếng, chỉ bắt tâm niệm duyên chuyên
một cảnh, âm thầm dùng lưỡi gơ vào răng
trước (răng cửa) hay tâm tưởng cũng được,
tùy ư, chỉ phải làm sao cho tiếng thật rơ
ràng, nhưng tiếng không phải phát ra từ cửa
miệng mà phải phát ra từ tự tánh. Tánh nghe
lại phải dung thông nội tâm, nội tâm lại
phải in nơi đầu lưỡi, đầu lưỡi kéo lấy niệm
căn, tự tánh nghe nghe tự tánh, ba thứ dung
hội, niệm niệm viên thông, lâu sau sẽ được
thành tựu pháp quán: Duy tâm thức.
Lời phụ giải: Dùng pháp mặc niệm để thành
tựu duy tâm thức quán này hơi khó và cao, đa
phần dành cho những bực có tŕnh độ khá và
cao trên bước đường tu tập. Người thực hành
phải dùng quán tâm, không phải dùng niệm
tưởng. Không động miệng mà tiếng ấy phải rơ
ràng, tiếng ấy là tiếng của tự tâm, dùng lối
đem tánh nghe (văn tánh) nghe lại tiếng nói
của tự tánh (phản văn văn tự tánh) đó là đă
thấm đạt thật tướng của vạn pháp, thâm đạt
nhứt thiết duy tâm vậy.
09. ĐIỀU H̉A HƠI THỞ
Hoặc lúc khí tịnh, tâm b́nh [5], th́ trước
nên tưởng thân ḿnh đang ở trong ṿng hào
quang tṛn, thầm quán trên đầu chót mũi,
tưởng hơi thở ra vào, mỗi một hơi thở thầm
niệm một câu A Di Đà Phật. Phương tiện điều
ḥa hơi thở, không hưởn không gấp, tâm niệm
và hơi thở nương nhau, theo nhau ra, vào;
đi, đứng, ngồi nằm đều nên làm như thế, đừng
để gián đoạn. Thường phải tự “mật tŕ,”
nhiếp tâm đă lâu, cả hơi thở lẫn câu niệm,
cả hai đều không c̣n phân biệt, tức thâm tâm
này cũng đồng với hư không. Tŕ đến thuần
thục, tâm nhăn khai thông, tam muội thoạt
nhiên hiện tiền, chính là “Duy tâm tịnh độ”
đó.
Lời phụ giải: Pháp này cũng giống như Sổ Tức
Quán trong Lục diệu môn. Dùng pháp đếm hơi
thở, để điều ḥa hơi thở ra vào. Mỗi một hơi
thở hoặc ra, hoặc vào đều thầm niệm một câu
A Di Đà Phật đều đều, không nên quá gấp cũng
không được quá hưởn, v́ sẽ làm chướng ngại
cho sự chuyên nhứt. Phật niệm không dứt, tâm
được thanh tịnh, trí được chuyên ṛng không
tạp, ḥa hợp với sự bao la vô ngại của Thái
hư, tất cả đều duy tự tâm, mà hễ tự tâm
thanh tịnh th́ quốc độ sẽ hoàn toàn thanh
tịnh đối với ta vậy.
10. TÙY PHẬN
Hoặc lúc hôn trầm nhiều, thời nên kinh hành
niệm Phật, hay khi tạp loạn nhiều th́ nên
ngồi ngay thẳng, yên lặng mà niệm. Giả sử đi
hay ngồi đều không hợp, thời hoặc quỳ, hoặc
đứng, cho đến tạm nằm, cũng đều cho phương
tiện rộng răi, có thể niệm Phật được cả. Cốt
yếu: bốn chữ hồng danh [6] đừng để một niệm
lăng quên, đó là yếu thuật hàng phục tâm ma
vậy.
Lời phụ giải: Câu niệm Phật không phải chỉ
dành lúc rảnh rang, hay tắm gội sạch sẽ, đến
trước bàn Phật, mà nhứt thiết thời không
được xao lăng. Bởi tâm niệm chúng sinh hàng
ngày quá tạp loạn, hể hở là tạp tưởng xen
vào ngay, quấy rối tâm niệm. Như bàn tay
quậy vũng nước màn màn, nếu quậy ít hay quên
quậy, màn màn sẽ trở lại ngay. Thế nên đi,
đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều
phải cố giữ câu niệm Phật, không cho xen hở.
Như ông tướng giữ trại, như con mèo ŕnh
chuột, đừng để một niệm gián đoạn. Một câu
niệm Phật không hở, tùy phương tiện, tùy
trường hợp, miễn sao cố giữ tâm niệm chuyên
câu niệm Phật là được.
11. CHỖ NÀO CŨNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC
Không luận chỗ sạch hay chăng, hoặc chỗ vắng
vẻ hay chỗ chộn rộn, chỗ vừa dạ hoặc nơi
thất ư, chỉ “Hồi quang phản chiếu” [7] và
suy nghĩ: những cảnh thế này ta đă gặp hơn
trăm ngàn muôn ức lần, từ nhiều kiếp đến
giờ; chỉ có việc “niệm Phật văng sanh” là ta
chưa có thể thực hành trọn vẹn được, nên vẫn
c̣n bị trong ṿng lẩn quẩn luân hồi. Giờ đây
ta cũng chẳng quản niệm được cùng chăng, chỉ
thề giữ chặt “tâm niệm Phật’ này, dầu chết
cũng không để dứt “niệm đầu” [8]. Tại sao?
Bởi niệm đầu mà để một phút gián đoạn , thời
tất cả thiện, ác, vô kư [9] bao nhiêu tạp
niệm lại sanh. V́ lẽ đó, nên dù lúc đi đại,
tiểu tiện hay sản phụ lúc lâm bồn, chỉ chăm
chú việc niệm Phật, càng khổ càng niệm, càng
đau càng niệm nhiều hơn, như con thơ gọi mẹ,
không sợ mẹ hiềm giận, nếu sợ mẹ giận mà
không gọi nữa, ắt đứa trẻ sẽ bị sa chân vào
hầm phẩn nhơ nhớp, v́ những sự dại dột do nó
gây nên. Như thế chỉ có chết mất đi mà không
làm sao được gặp mẹ.
Lời phụ giải: Thế thường, có người không
hiểu cho rằng: vào chỗ nhơ như nhà xí v.v...
mà niệm Phật sẽ có tội. Nhưng trong pháp môn
niệm Phật th́ không phải vậy. V́ câu niệm
Phật lúc nào cũng phải ngự trị trong tâm hồn
ta; nếu v́ lúc ăn, khi đi cầu v.v... mà để
dứt, th́ tức nhiên tạp niệm sẽ xen vào, mà
hễ tạp niệm xen vào được, niệm này sanh niệm
khác, nối luôn không dứt, tránh sao khỏi
điều tội lỗi, và tránh sao thoát nẻo sanh tử
luân hồi.
Chúng ta giờ đây, chưa có thể nhứt thiết
thời niệm Phật, nên phiền năo niệm xen vào,
biết bao điều phiền phức, đau khổ, nhọc
nhằn; vậy thời chúng ta hăy cố gắng tập
nhiều, tập măi câu niệm Phật, hễ bận việc
thời thôi. bằng hễ rảnh là ta niệm Phật.
Không có ǵ tự nhiên mà được, phải đ̣i hỏi
nhiều cố gắng, nhiều nổ lực, vậy sau mới
thành công. Bao nhiêu việc đời sẽ làm ta
phiền lụy, muốn tránh bao phiền lụy không
chi hơn luôn giữ câu niệm Phật.
Đức Phật như bà mẹ hiền thương con dại,
không có bà mẹ nào là không thương con. Thế
nên, ta một ḷng tưởng nhớ, tha thiết kêu
cầu Đức Phật sẽ thương mà hiện cứu. Phật
không bao giờ bỏ và cũng không bao giờ có
giận hờn v́ hễ c̣n giận hờn ắt chưa thể
thành Phật, cũng như không có đức Phật, Bồ
tát nào mà thiếu ḷng từ bi cả.
Xin hăy gắng niệm, đừng khinh mà coi thường.
12. NIỆM PHẬT CÓ ĐỊNH THỜI HAY KHÔNG
Trong pháp thứ mười một, không có định thời,
nếu vậy sẽ ít người làm được. Bài này phương
tiện nói có định thời là: sớm, tối hai thời,
hoạch định thường khóa, từ nay đến suốt đời,
không thêm, không bớt, ngoài ra trong suốt
hai mươi bốn tiếng đồng hồ, có thể niệm được
một câu, th́ nên niệm một câu, có thể niệm
được nhiều câu, th́ nên niệm nhiều câu, bất
luận niệm lớn hay nhỏ.
Cổ nhơn có bảo:
Ít nói một câu tạp
Nhiều niệm một câu Phật
Đẹp đẽ biết bao nhiêu!
Lời phụ giải: V́ sợ có nhiều vị, không thể
lúc nào cũng giữ câu niệm Phật được (bởi quá
bận kế mưu sinh) nên phải phương tiện định
thời. Thế là ai cũng có thể tu Tịnh độ pháp
môn được. Nhưng điều cốt yếu: khi đă định
thời, th́ phải cố ǵn, đừng để sai siển, dù
lúc bịnh hoạn hay đau khổ.
Tuy nhiên, hễ khi nào rảnh rỗi là ta phải
nhớ ngay câu niệm Phật.
Đánh đổi chúng sinh niệm bằng Phật niệm, tuy
không được cao siêu nhưng là một phương tiện
hiếm có để chuyển mê thành giác vậy.
13. CÓ ĐỐI TRƯỚC TƯỢNG HAY KHÔNG TRONG KHI
NIỆM PHẬT?
Lúc đối trước tượng Phật, phải cho tượng này
là thật Phật, không cần câu chấp một phương
hướng nào, chẳng luận một thân nào trong ba
thân của Phật [10], chỉ tự nghĩ: Ta chỉ nhứt
tâm, tâm chỉ nhứt Phật, mắt nh́n tượng Phật,
tâm niệm danh Phật, thật hết sức thành kính,
mà hết sức thành kính tất được linh cảm.
Lúc không có tượng Phật, nên ngồi ngay ngắn
xoay mặt về phương Tây, lúc khởi tâm động
niệm, nên niệm tưởng hào quang của đức Phật
A Di Đà trụ trên đỉnh đầu ta, mỗi niệm, mỗi
câu, tự chẳng để rơi vào khoảng không, hắc
nghiệp cũng có thể tiêu diệt. [11]
Lời phụ giải: Người sơ cơ chưa có thể quán
tự tâm tức Phật, thế nên phương tiện đối
trước Phật tượng cho dễ xúc cảnh sanh tâm,
nhưng điều cần thiết là phải hết sức thành
kính v́ hễ có cảm mới có ứng được
Bài này dạy rơ, khỏi phải bàn luận dài ḍng,
hành giả nên coi kỹ và theo như thế, tội
nghiệp sẽ được tiêu trừ, Phật tâm tự hiện.
14. NIỆM PHẬT TRONG LÚC BẬN RỘN
Nếu niệm được một câu, th́ nên niệm một câu,
có thể niệm 10 câu, th́ nên niệm 10 câu; chỉ
làm sao trong 100 điều bận rộn có được trong
khoảnh khắc một chút rảnh rang liền buông bỏ
thân tâm [12] sáng suốt tụng tŕ.
Ngài Bạch Lạc Thiên có bài thi rằng:
Đi niệm A Di Đà
Ngồi niệm A Di Đà
Ví dù bận rộn như tên
A Di Đà Phật niệm lên thường thường.
Người xưa dụng tâm như thế, thật không thể
chê được!
Lời phụ giải: Có người quá bận rộn với mực
sống, có rảnh đâu nhiều mà niệm Phật; tuy
nhiên trong trăm việc bận, chắc cũng có chút
th́ giờ rảnh, hể rảnh th́ niệm Phật, đừng để
trí phải nghĩ tưởng vẩn vơ, khổ sầu vô ích.
Việc đời chuyện đâu bỏ đó, đeo đẳn làm ǵ
thêm mệt, để th́ giờ niệm Phật cho khỏe trí
c̣n hơn không? Có nhiều người để phí bao
nhiêu th́ giờ tán gẩu những chuyện đâu đâu,
chỉ chuốc lấy bao nhiêu điều phiền lụy, do
vài câu bất ư trong lúc vui miệng, cũng đủ
gây cho ḷng những mối lo âu, khổ sở, hay
chác cho thân những đau đớn lụy phiền!
15. LÚC NHÀN RỖI NÊN NIỆM PHẬT
Trong đời có nhiều kẻ quá ư khốn khổ, muốn
chút rảnh cũng không sao có được, nên không
thể tu hành. Nay ta được rảnh rang, lại nghe
biết được pháp niệm Phật này, cần phải gắng
gổ, tương tục thúc liễm thân tâm, chuyên tŕ
Phật niệm; như thế mới không uổng phí tấc
bóng quang âm. Nếu để tâm niệm buông trôi,
không làm được việc ǵ, luống tiêu bao ngày
tháng, cô phụ bốn ân, một mai vô thường
thoạt đến, sẽ lấy ǵ để chống cự đây?
Lời phụ giải: Có người cầu được chút rảnh
rang để niệm Phật c̣n không có, ta nay duyên
đời không bận buộc, vậy đừng nên bê trễ nữa,
hăy cố gắng niệm Phật, đừng để ngày lại,
ngày qua, rồi già, rồi chết, đến khi bây giờ
dù muốn rảnh được một chút, sống thêm một
giờ để niệm Phật cũng không được. Thật tiếc
lắm thay!
16. NGƯỜI SANG GIÀU PHẢI NÊN NIỆM PHẬT
Phước đức của đời này đều từ việc tu hành
kiếp trước. Những ǵ tôn quí vinh huê, quá
nữa là các bực cao tăng chuyển thế. Nhưng
tuy có vinh huê mà không được trường cửu,
nếu lại tạo điều nghiệp chướng ắt khó thoát
khỏi biển trầm luân. Vậy nên các ngài phải
tự suy nghĩ: những ǵ ta có thể mang theo
được khi nhắm mắt? Ấy là công đức niệm Phật.
Cũng như thuyền đi nhờ nước. Thế nên, hoặc
lập thất niệm Phật, hoặc mời chư tăng hướng
dẫn ḿnh niệm Phật, in khắc kinh sách Tịnh
độ, hoặc đặt tượng Phật A Di Đà để chiêm
ngưỡng mà niệm, việc làm tuy ít, nhưng phải
dụng công cho nhiều, lại phải chí quyết văng
sanh, đó là con đường tu hành của tất cả mọi
người, chẳng luận giàu, nghèo, sang, hèn.
Làm vị sứ giả của ngôi Pháp vương [13] c̣n
ǵ tôn quư hơn!
Lời phụ giải: Vạn ban tương bất khứ, duy hữu
nghiệp tùy thân, dù ta có nhờ phước đức đă
gieo trồng đời trước, hưởng được phú quí
vinh huê, song chỉ hưởng tạm mà thôi, khi ba
tấc hơi dứt mọi việc buông xuôi, chỉ nắm hai
bàn tay trắng. Vậy th́ ta có nên bám víu
những cái giả ảnh ấy chăng? Chúng ta chắc đă
ư thức rơ ràng điều đó. Thế th́ chúng ta
phải kíp lập thành tích niệm Phật ngay và
thật hết ḷng cố gắng như chúng ta đă cố
gắng lo làm giàu vậy. Người vô trí cho giả
là thật, nên chạy theo những cảnh tướng,
danh sắc phù phiếm bề ngoài, có được chút
vui, song chỉ là cái vui tạm bợ trong chốc
lát. Kiếp người chóng tàn, thân người chóng
diệt, chỉ có đạo đức thường c̣n, chân thật,
không có những ồ ạt bên ngoài, không có cái
vui chốc lát. Xem như Ngài Khổng Tử c̣n bảo:
“Ăn cơm nguội, uống nước lạnh, co tay mà gối
đầu cũng có điều vui ở trong vậy!” Cái vui
đó mới là cái vui của người trí.
17. KẺ NGHÈO HÈN CŨNG NÊN NIỆM PHẬT
Than ôi! Có kẻ đă đem thân làm nô lệ, bị
người khác sai sử, vất vả, khổ sở, mà không
cầu mong thoát khỏi, th́ về sau càng khổ
hơn.
Nên biết bốn chữ Hồng danh chẳng luận sang,
hèn, giàu, nghèo, trẻ, già, trai, gái, chỉ
cần mỗi ngày vào lúc sáng sớm chí tâm xây
mặt về phương Tây, niệm 10 câu danh hiệu
Phật, không xen, không dứt, để cầu sanh Cực
Lạc, th́ hiện đời sẽ được hưởng nhiều lợi
ích, khi thác tự được văng sanh. Đức Phật A
Di Đà thiệt là chiếc thuyền cứu mạng cho mọi
người trong biển khổ vậy.
Lời phụ giải: Ở đời, đâu có ai nghèo đến nỗi
không có thân, tâm? Vậy ta nên đem thân, tâm
sẵn có đó niệm Phật. Trong kinh Hiền Ngu
Nhơn Duyên có đoạn: Tôn giả Ca Chiên Diên độ
bà già ở mướn, bán cái nghèo bằng phương
pháp Niệm Phật, bà đă đạt kết quả. Vậy chúng
ta nên bắt chước bà già ấy bán quách cái
nghèo đi cho rảnh, đeo đẳng làm ǵ thêm khổ?
Khổ mà biết là khổ để t́m phương pháp thoát
ly ấy là kẻ trí. Khổ mà vẫn không biết là
khổ, lại c̣n cho cái khổ là vui, th́ thiệt
hết chỗ nói!
18. TỊNH TẾ NIỆM PHẬT
Đă là người có trí huệ th́ đừng để bị mê
hoặc, cần phải hết sức tịnh tế niệm Phật để
cho trí huệ được thêm kiên cố.
Phải biết, người trí niệm Phật th́ thiên hạ
sẽ có rất nhiều người niệm Phật.Người trí
niệm Phật thời những kẻ tu hành theo ngoại
đạo sẽ dễ trở về chánh đạo. Tại sao? V́
tiếng tăm của người trí có thể mở ḷng dạ
họ, v́ có tác dụng trí của người trí cứu rổi
họ.
Lời phụ giải: Việc làm của người trí sẽ mang
đến một ảnh hưởng tốt đẹp và hữu ích cho kẻ
thấp hay thiếu trí, trong trường hợp việc
làm ấy với ư nghiệp lành. Vậy nên người trí
phải tỏ ra xứng đáng sự tin tưởng của mọi
người, đừng nên để những việc ngu hèn, những
thị dục thấp kém gạt gẫm.
Một người có quyền thế tu niệm, sẽ có ảnh
hưởng thật tốt đẹp đến những kẻ chung quanh.
Nhờ sự khôn khéo, sáng suốt, cộng vào đó sự
tin tưởng mănh liệt của người lân cận, mà
người trí khả dĩ làm được những chuyện to
tát có ảnh hưởng đến thế đạo nhơn tâm. Làm
một mà kết quả được nhiều, đó là điều của
nhiều người mong muốn. Ấy thế mà nhiều kẻ có
thể làm được lại không chịu làm, hay làm cho
lấy có th́ thật đáng tiếc rẻ lắm thay!
19. LĂO THẬT NIỆM PHẬT
Đă không cầu danh lợi, cũng không khoe tài
năng, chắc thật tu hành thật là rất khó có
người làm được.
Tổ sư dạy: Về phương diện tham thiền, bởi
t́m một người si độn cũng không có. Nay
người niệm Phật chính lo ḿnh không được si
độn mà thôi. Hai chữ Lăo Thật là một đại lộ
thẳng tắp đưa người sang Tây phương vậy. Tại
sao? V́ hai chữ Lăo Thật là ngoài bốn chữ A
Di Đà Phật không thêm một mảy may vọng tưởng
nào.
Lời phụ giải: Người nhứt tâm niệm Phật,
không duyên ngoại cảnh, ḷng không chao động
trước bất cứ một khuấy rối nào, coi như tất
cả không có ǵ dính líu đến ḿnh, con người
ấy bề ngoài h́nh như kẻ ngây ngô, si độn
lắm, nhưng trái lại thật là sáng suốt, thật
là thanh tịnh đó. Người như thế thật không
phải dễ kiếm! Phương chi, trong pháp môn
niệm Phật có câu: Niệm bất nhứt bất sanh
Tịnh độ. Mà hễ niệm nhứt th́ muôn duyên
buông bỏ, chuyên ṛng câu niệm Phật. Ḷng ta
niệm Phật cùng ḷng Phật tương ưng. Tây
phương không ĺa đương niệm, không cần đoán
xa xét rộng chi cả mà Phật cảnh vẫn hiện
tiền. Hy hữu thay Pháp môn Tịnh độ!
20. ĐƯỢC ĐIỀU VUI MỪNG, NHỚ NIỆM PHẬT
Hoặc nhơn nơi người mà vui, hoặc nhơn nơi
việc mà mừng, mối manh tuy nhỏ nhít, nhưng
đều là những cảnh vui vẻ của kiếp người.
Song phải biết cái vui đó nó hư huyễn không
thật, không thể c̣n lâu, vậy nên nương nơi
giây phút tươi vui đó, xoay tâm niệm Phật,
thời ắt được nhờ ánh hào quang của Phật,
trong thuận cảnh ấy bỏ dứt đi ít nhiều ác
niệm, những điều tốt đẹp liên miên, như ư tu
hành, măi đến lúc mạnh chung sẽ được văng
sanh Cực Lạc, há chẳng vui mừng lắm sao!
Lời phụ giải: Kiếp sống của ta vui ít khổ
nhiều, có vui chăng chỉ là cái vui tạm bợ,
chốc lát qua đi, nhường chỗ cho điều đau khổ
dày ṿ con người. Vậy th́ cái vui có bền bĩ
ǵ mà ta lại tự hào hay níu nắm nó.
Những điều vui vẻ đáng cho ta ưa thích, v́
nó chơn thật, thường c̣n ấy là cái vui thanh
tịnh của tự tâm. Cảnh Cực Lạc của Phật A Di
Đà sẵn sàng đón tiếp những con người tự tâm
được thanh tịnh. Về được đó rồi c̣n ǵ vui
hơn?
21. HỨA NGUYỆN NIỆM PHẬT
Tŕ danh niệm Phật nguyên để cầu văng sanh
nhưng oai phong của chư Phật không thể nghĩ
bàn hễ niệm danh hiệu của các Ngài th́ sở
nguyện đều tùy tâm. V́ lẽ đó, trong kinh
dạy: niệm Phật có 10 điều lợi ích (xin xem
phần sau). Những việc cầu cúng quỉ thần, tạp
tu sự sám, khấn hứa nhiều ác nguyện, tin
xằng những việc bói toán xâm quẻ, không bằng
dùng phương pháp niệm Phật để cầu nguyện.
Có kẻ hỏi: Vả như niệm Phật mà không ứng
nghiệm th́ sao?
Đáp: Ông chưa niệm Phật mà đă lo không ứng
nghiệm, chính cái nhơn không ứng nghiệm đó
đem đến cái kết quả không ứng nghiệm vậy.
Nhơn thế nào th́ quả thế nấy, há không đáng
sợ lắm sao?
Lời phụ giải: Phật là đấng đại từ, đại bi,
đại trí, đại đức, tối tôn vô thượng, là bậc
thầy của trời người sáu đường. Thế th́, khi
cầu nguyện sao lại không cầu nguyện nơi các
Ngài? Thật cũng lấy làm lạ! Có lắm kẻ sợ ma
quỉ yêu tinh hơn sợ Phật, có lẽ cho rằng
Phật hiền, ma quỉ dữ chăng? Hay tại ḷng
ḿnh không chơn chánh, v́ có điều tội lỗi,
vạy tà nên lờn chánh, ngán tà? Người Phật tử
hăy suy nghĩ cẩn thận điều này, kẻo ḿnh là
Phật tử mà vô t́nh làm đệ tử ma!
22. NIỆM PHẬT ĐỂ CẦU CỞI MỞ
Phàm tất cả nghịch cảnh quanh ta, đều do
trái duyên nên có hiện (ta phải cố cam nhận
chịu) không nên lại khởi ác niệm, để phải
dẫn khởi oan trái đến măi về sau không dứt.
Ta phải nên tùy thuận nhận lănh, có thể
tránh được thời tránh, dứt được thời dứt,
chỉ tùy nhân duyên mà đừng quên niệm Phật.
Phật có vô lượng trí huệ, phước đức quang
minh, Ngài sẽ gia hộ cho ta: dù gặp nghịch
duyên, trái cảnh, cũng chuyển thành thuận
cảnh, thuận duyên ngay.
Lời phụ giải: Oan gia nghi giải bất nghi
kết, đừng nên đem oán trả oán, th́ oan trái
mới dứt. Vậy chỉ có pháp niệm Phật là ổn
nhứt.
Ví dù muôn đắng ngh́n cay
Một câu niệm Phật tan ngay cấp kỳ
Niệm Phật dứt bỏ oán thù
Ḷng không hung dữ ngục tù đâu vương...?
Niệm Phật mở rộng ḷng thương
Oán thân b́nh đẳng tai ương có nào?...
23. HỔ THẸN TỰ GẮNG NIỆM PHẬT
Phàm đời này hay kiếp trước, ác quả đă thành
tựu, th́ khổ báo ắt đến, mà một phần khổ ở
đời này tức là một phần ác trong kiếp trước,
không thể đổ thừa cho vận mạng bất tề, mà
chỉ nên tự hổ phận ḿnh chẳng sớm lo tu. Mỗi
một khi tưởng Phật, tưởng như lông trong
thân đều dựng đứng, năm vóc như ră rời, buồn
thương, cảm mến, đau xót, không muốn sống.
Như vậy thời mỗi câu, mỗi chữ từ trong gan,
tủy mà ra mới là chơn cảnh niệm Phật.
Ngày nay kẻ tăng, người tục niệm Phật, hoặc
miệng niệm mà tâm tán, hoặc chỉ nhiếp tâm
lúc niệm, dứt niệm th́ tâm mê. Lại có người
đang lúc niệm Phật xen nói chuyện tạp. Thế
th́ dù niệm suốt đời cũng không linh cảm.
Mọi người thấy vậy, cho rằng: niệm Phật văng
sanh là những lời láo khoét. Lỗi ấy há do
Phật sao?
Lời phụ giải: Ta cùng chư Phật động một thể
tánh thanh tịnh, không hai không khác, thế
mà các Ngài đă giác ngộ, sáng suốt bỏ giả
theo chơn, c̣n chúng ta lại cứ măi nhận hư
làm thật, bội giác hiệp trần, cam chịu quanh
quẩn măi trong ṿng khổ lụy trần ai. Thật
c̣n ǵ hổ thẹn cho bằng! Vậy nên phải vận
dụng tận cùng năng lực, hết chí lo tu, lấy
chết làm kỳ hạn, cầu thoát sanh tử, không
c̣n nghĩ ngợi, đắm lụy trần ai, để phải
nhiều kiếp trôi ch́m trong sông mê, bể khổ.
24. KHẨN THIẾT NIỆM PHẬT
Phàm người ở trong tất cả hoàn cảnh khổ đáng
thương, mà ta không thương, tất trái với
nhơn tính, nhưng ở trong tất hoàn cảnh đáng
thương, ta chỉ thương suông th́ làm sao hợp
được với tánh Phật? Đă thương th́ phải t́m
phương thoát khổ, phải t́m cách cho mọi
người rốt ráo thoát khổ. Phải biết rằng:
Phật sở dĩ được tôn xưng là Đấng Đại Bi, v́
Ngài hay cứu khổ cho chúng sinh. Ta do ḷng
từ bi niệm Phật là cốt cầu ḷng từ bi của
Phật ban cho, cứu vớt khổ năo cho chúng ta,
th́ cái niệm đó phải khẩn thiết đến bực nào?
Lời phụ giải: Niệm Phật để cầu thoát sinh
tử, mà sinh tử là cái ṿng xích vô cùng kiên
cố, v́ nghiệp hoặc phiền năo của chúng ta
quá đỗi sâu dày, lại thêm tội chướng ngày
càng chồng chất lên thêm, nếu niệm lực không
kiên cố, tâm niệm không tha thiết chí thành,
th́ riêng ḿnh nói đến chuyện giải thoát c̣n
là chuyện xa vời, huống là muốn cứu khổ cho
người sao? Vậy ta nên hết ḷng khẩn thiết
niệm Phật để mong được ḷng từ bi chiếu cố
của Phật, như con thơ tha thiết trông được
về với từ mẫu. Họa chăng?
25. CÚNG DƯỜNG NIỆM PHẬT
Phàm gặp giai tiết (tiết đoan ngũ, tiết
trung thu v.v...) hoặc ngày vía Phật, Bồ Tát
th́ nên hương đăng hoa quả tùy phận cúng
dường, nhưng đó chỉ là tài cúng, chưa phải
pháp cúng. Pháp cúng thuộc về tâm, quư hơn
tất cả tài cúng.
Gần đây, v́ tà giáo thạnh hành, bày đặt các
pháp cúng kiến, la liệt quả phẩm, tam sanh,
heo, dê, gà, vịt có ích ǵ cho sự tu hành?
Thậm chí, c̣n bày bố trận đồ, chiêu hồn dẫn
quỉ, tà mị, dị đoan, càng làm cho hao tài
tổn mạng, dối dá bậy bạ, phỉnh gạt người
đời.
Chỉ pháp môn niệm Phật th́ vạn bịnh tiêu trừ
không tốn không hao, lại ít người chịu biết
đến. Kính mong những trang thức giả đừng để
bị lầm.
Lời phụ giải: Giết mạng sống của kẻ khác để
cúng cầu cho mạng ḿnh được sống, thật là
hết sức ích kỷ và vô nhân đạo!
Câu: “Thiên địa vô tư, thần minh ám sát, bất
dĩ tế hưởng nhi giáng phước, bất dĩ thất lễ
nhi giáng họa” sao không suy xét cho kỹ
càng. Thần thánh đâu v́ của cũng như tham
quan ăn hối lộ sao? Trời đất không có ḷng
tư vị ai, hễ làm lành th́ hưởng quả tốt, làm
dữ mắc báo xấu thế thôi. Các bậc thần minh
thầm xét nghiệm những tâm niệm, hành vi
thiện, ác của ḿnh tùy thời răn phạt, nào
phải v́ ta cúng tế mà các Ngài bỏ qua những
điều tội lỗi của ta đâu?
Hơn nữa, tâm ḿnh ngay, thân ḿnh chánh, có
sợ ǵ mà phải bận tâm lo nghĩ?
Khi niệm Phật, Phật hiệu đă ngự trong tâm
ta, ḷng ta xứng hợp với ḷng Phật, cùng
xứng hợp một điển lực thanh tịnh, th́ tà ma
nào dám nhập? Nghe theo tà mị, dị đoan chỉ
càng làm cho hàng thức giả chê cười, mà cũng
lại chuốc lấy họa hại không ít do một số kẻ
lợi dụng ḷng tin tưởng và sợ sệt của ta.
Vậy hăy suy nghiệm cho thật chín chắn.
26. NIỆM PHẬT ĐỂ BÁO ÂN CHA MẸ
Ân của cha mẹ là cái ân to lớn nhứt phải làm
sao báo đáp? Cung phụng tất cả những thức
uống ăn, lập công danh để hiễn đạt phụ mẫu,
chỉ là phép báo đáp của thế gian; mặc dầu
không phải là bất thiện, song xét cho tột
th́ đây chưa phải trọn vẹn (v́ dù sao cũng
vẫn c̣n trong ṿng khổ lụy của kiếp người).
Chỉ có cách là ta niệm Phật và khuyên cha mẹ
niệm Phật, đem công đức ấy hồi hướng Tây
phương, đó là gieo một hột giống kim cương,
về sau ta và cha mẹ cùng tự được giải thoát.
Huống chi một câu niệm Phật lại có thể tiêu
được vô biên tội chướng. Những ai muốn báo
thâm ân cha mẹ, không thể không biết pháp
này.
Lời phụ giải: Cung phụng cha mẹ về mặt vật
chất, nào quạt nồng, ấp lạnh, món ngon vật
lạ, áo ấm cơm no, đó mới chỉ là cái hiếu thế
gian mà thôi. Nếu không lo tu nhơn xuất thế,
tất phải đọa lạc tam đồ, quanh đi quẩn lại
sanh tử không cùng, sao gọi là báo hiếu trọn
vẹn được?
Thế tất phải t́m cách nào cho rốt ráo? Chỉ
có Pháp môn Tịnh độ Niệm Phật, cầu sau khi
xả báo thân này, nương nhờ nguyện lực của
Phật A Di Đà mà được cùng văng sanh Cực Lạc.
Nhờ chiếc thuyền nguyện lực của Phật, bao
nhiêu tội chướng của chúng ta dù nặng như đá
cũng nương đó mà qua sông dễ dàng. Thế th́
công ít mà quả to, ta c̣n chần chờ ǵ nữa?
27. BỐ THÍ BẰNG CÁCH NIỆM PHẬT
Phàm thấy người khổ năo, trước phải giúp cho
họ an thân (cho cơm, cho áo) rồi sau mới an
ủi khuyên họ niệm Phật. Bởi v́ cứu cái khổ
trong nhứt thời, bố thí là gấp, mà cứu cái
khổ nhiều kiếp, phương pháp niệm Phật lại
gấp hơn. Hoặc thấy người hay vật bị nạn, sức
ḿnh không cứu rỗi được phải gấp niệm Phật
cầu an cho hồn thức ấy. Hoặc đêm thanh tụng
niệm cầu nguyện cho mọi loài thoát khỏi tai
ương. Gặp lúc đao binh, tật dịch, năm canh
tŕ niệm Phật danh, cầu cho chúng sanh được
tiêu trừ mọi oan khổ.
Nên quán tưởng: Một câu A Di Đà Phật của ta
đây, trên tột trời Hửu đảnh [14] dưới suốt
đáy phong luân [15] mọi loài chúng sanh một
thời đều được lợi ích. Cách bố thí đó thật
không thể nghĩ bàn vậy.
Lời phụ giải: Trước cho ăn no, mặc ấm để đỡ
khổ phần xác, sau khuyên bảo niệm Phật để
cứu rỗi linh hồn. Gặp nhiều trường hợp mà
sức ta vô khả nại hà, chỉ nên nhứt tâm niệm
Phật, vận dùng tất cả điển lành của ḿnh chí
hướng về kẻ ấy, cầu nguyện cho họ thoát khỏi
khổ lụy của kiếp sống triền miên, giải thoát
an nhàn nơi thiện cảnh. Một câu niệm Phật
diệt oan khiên.
28. TỰ TÂM NIỆM, TỰ TÂM NGHE
Tâm tưởng, rồi mới động đến lưỡi, lưỡi khua
động thành tiếng lại trở vào tự tâm, là
pháp: Tâm niệm tâm nghe vậy.
Mà hễ tâm niệm tâm nghe thời mắt không thể
thấy bậy, mũi không thể ngửi bậy, thân không
thể động bậy, vị chủ nhơn ông (tự tâm) đă bị
bốn chữ A Di Đà Phật bắt cóc mất rồi.
Lời phụ giải: Niệm tức là niệm tự tâm Phật,
tai nghe tiếng niệm là nghe tiếng của tự
tâm, tiếng ấy từ tự tâm mà ra, rồi lại chạy
ngược vào tự tâm, xây ṿng như vậy, thời một
mảy vọng tưởng cũng không c̣n, tất cả vọng
trần, vọng cảnh cũng từ đấy mà diệt.
Niệm Phật niệm tâm, tâm niệm Phật
Tham thiền tham tánh, tánh tham thiền.
29. NIỆM PHẬT TRONG TIẾNG NIỆM
Tiếng niệm Phật đă thuần thục rồi, thời
trong sáu trần chỉ c̣n một thinh trần. Tất
cả sáu căn hoàn toàn gởi nơi nhĩ căn (lổ
tai). Thân cũng không c̣n cảm biết tới lui,
lưỡi cũng không c̣n biết khua động, ư cũng
không c̣n cảm biết phân biệt, mũi cũng không
c̣n cảm biết hít thở, mắt cũng không c̣n cảm
thấy mở nhắm. Hai thứ viên thông của hai
ngài Quán Âm và Thế Chí cũng tức là một,
không chi là chẳng viên và chẳng chi là
không thông cả. V́ căn tức là trần, trần tức
là căn, căn và trần tức là thức. Mười tám
giới [16] đều dung hợp thành một giới. Trước
chưa được thuần, lâu sau sẽ dần dần thâm
nhập.
Phàm trong khi niệm Phật, phải lựa một chỗ
vắng, yên, sạch sẽ, khoảng 4,5 thước vuông,
đi nhiễu một ṿng theo phía tay mặt, rồi sau
từ từ cất tiếng niệm Phật, tiếng cao lên dần
dần, niệm như vậy độ 3 ṿng trở lên sẽ tự
cảm thấy tâm, tiếng to bay ṿng quanh khắp
thái hư, bao bọc cả 10 phương, trùm đầy toàn
pháp giới. Đó là cách an trụ thân tâm, thế
giới vào trong tiếng niệm Phật, và đó là đem
thân, tâm của ḿnh an trụ trong tiếng niệm
Phật mà niệm Phật. Đây là cảnh thù thắng để
tiêu diệt tâm địa phiền năo nhơ trược, hành
giải cần phải gắng tập cho kỳ được.
(Bài này chỉ vẽ rơ ràng, không cần phụ giải)
30. NIỆM PHẬT TRONG ÁNH SÁNG CỦA TỰ TÂM
Phàm tiếng là tiếng của tự tâm, th́ ánh sáng
cũng là ánh sáng của tự tâm. Hễ tiếng của tự
tâm quanh lộn ở chỗ nào th́ ánh sáng của tự
tâm phóng ra ở chỗ ấy; nếu ta an trụ trong
tiếng của tự tâm mà niệm Phật, tức là an trụ
trong ánh sáng của tự tâm mà niệm Phật vậy.
Đây cũng là cảnh thù thắng diệt được ḷng
tham phiền năo nhơ bẩn, hành giả nên gắng
siêng tu tập.
31. NIỆM PHẬT TRONG THỂ CỦA TỰ TÂM
Tiếng nói của tự tâm ṿng quây và ánh sáng
tự tâm chiếu phát, tự nhiên tâm thể phơi
bày. Một chơn tâm này như tấm gương tṛn lớn
(Đại viên cảnh) rỗng thông sáng suốt, không
ǵ ngăn ngại, mười phương, ba đời, ta, Phật,
và chúng sanh, ṿng khổ của đời trược, đài
sen nơi cảnh tịnh đều là bóng trong gương
cả. Cho nên niệm Phật trong tiếng tức trong
ánh sáng, trong ánh sáng tức trong gương
không phải một, khác. Đây cũng là cảnh thù
thắng tột cùng, diệt hẳn được tâm nhơ, cần
phải gia công hết ḷng tu tập.
Lời phụ giải: Tâm thể vốn luôn luôn thanh
tịnh (tịch), nhưng hằng phát khởi diệu dụng
sai thù (chiếu). Khi chúng ta nhận được toàn
thể đại dụng không ngoài tánh thể thường
như, th́ bấy giờ, tâm, Phật và chúng sanh
vốn chỉ là một, rỗng thông, sáng suốt, không
ǵ ngăn ngại. Thật hành pháp niệm Phật mà
đạt được như đây, thật quả là bậc đại căn
tánh vậy! Muôn pháp đều chỉ là bóng h́nh
trong gương, vốn dĩ hư huyễn, tự sanh, tự
diệt, đâu can phạm ǵ đến tánh thể tự cổ
thường như, bất sanh bất diệt của chơn tâm.
Thấu triệt được lư này ắt đă thoát được
ngoài ḍng cương tỏa của không gian và thời
gian rồi vậy.
32. KHÔNG DỨT
Buổi sáng niệm, buổi tối cũng niệm; vô sự
niệm, hữu sự cũng niệm; chỗ sạch niệm, chỗ
nhơ vẫn niệm, không một niệm nào mà không
phải là niệm Phật. Giả sử hàng ngày có sự
thù tiếp bạn bè, đăi đằng khách khứa, có lúc
gián đoạn, nhưng chỉ gián đoạn thinh niệm,
chớ không thể gián đoạn được tâm niệm. Niệm
Phật mà công phu đến thế, th́ dễ thành Tam
muội lắm.
33. KHÔNG TẠP
Không xen tạp niệm tức là Chỉ, Chỉ là nhơn
của Định, dừng được tạp niệm, th́ chánh niệm
(định) tự nhiên phát hiện.
Tạp niệm có 3: Thiện, ác, và vô kư, trừ hết
ba thứ mới là không tạp. Tâm cần vắng lặng,
vắng lặng thời các niệm thiện, ác không
sanh. Tâm cần sáng suốt, sáng suốt thời vô
kư niệm không có.
Ngoài Phật không có niệm nên tường vắng
lặng, trong niệm có Phật nên thường sáng
suốt rơ ràng.
34. KHÔNG DỪNG
không dừng tức là Quán, Quán là nhơn của
Huệ. Câu (niệm Phật) trước đă qua, câu sau
chưa đến, câu hiện tại cũng không dừng. Cứ
thế mà quán sát, rơ ràng nhưng không thể
được (không câu chấp), không thể được nhưng
lại rơ ràng. Đuổi như vậy măi sẽ thấu đạt lẽ
vạn pháp duy tâm, tức Phật tức tâm, tức tâm
tức Phật.
Lời phụ giải: (cho cả ba pháp trên) Niệm
Phật tức niệm tự tâm Phật, cho nên không
ngại ǵ chỗ nhơ sạch. Lại chúng sanh vốn
đồng một thể tánh chơn tâm với Phật, v́ vọng
động bất giác nên để tánh Phật vốn sẵn sáng
suốt phải bị phiền năo vô minh che lấp, làm
cho mê tối đảo điên, càng ngày càng chạy
theo vọng trần vọng cảnh, xa lần thật thể,
nhận giả làm chân; bấy giờ nhất niệm giác
ngộ quay về ánh sáng của tâm, th́ dễ ǵ
trong một ít thời gian mà có thể bôi xóa đi
được những phiền năo đen tối vốn nhuộm đậm
từ lâu. Thế nên, chúng ta cần phải luôn luôn
liên tục theo dơi câu niệm Phật (niệm Phật
tức niệm tự tâm Phật) Phật niệm liên tục măi
măi th́ chúng sanh niệm không c̣n, thế nên
dù có bận rộn ǵ cũng chỉ gián đoạn được
thinh niệm mà thôi, chớ làm sao ràng buộc
được tâm niệm bên trong của chúng ta? Khi mà
tâm chúng ta thuần một Phật niệm th́ tạp
niệm đâu c̣n? Tạp niệm bặt dứt (gió dừng)
tâm không c̣n bị ǵ làm chao động nữa, bấy
giờ tự tâm an nhiên tại định (nước lặng) th́
muôn tượng hiện bày, không thiếu sót một mảy
may, bấy giờ vạn pháp đương nhiên hiển lộ,
tự tâm quán chiếu một cách thần diệu phi
thường (huệ). Hành giả thật hành pháp môn
niệm Phật được như đây quả đă đạt đến viên
măn cứu cánh rồi vậy.
35. TỨC THIỀN TỨC PHẬT
Hoặc khởi từ một câu thoại đầu gọi là tham
thiền, hoặc ngồi mà dứt niệm gọi là tọa
thiền. Tham hay tọa đều là Thiền cả, Thiền
hay Phật đều là tâm cả. Thiền tức là Thiền
của Phật. Phật tức là Phật của Thiền. Pháp
môn niệm Phật đâu có ǵ ngại với pháp tham
thiền, tọa thiền? Vả lại, người tham thiền
có thể dùng bốn chữ A Di Đà Phật làm một câu
thoại đầu, niệm đến, niệm lui, niệm xuôi,
niệm ngược, trở lại, xây qua không rời đương
niệm, mặc dù không nói tham thiền, mà thiền
ở trong đó rồi. Người tọa thiền cần phải đến
giaI đoạn một niệm tương ưng, hoát nhiên như
vinh vào hỗ hư không, mới là Đắc thủ [17].
Niệm Phật đến lúc nhứt tâm bất loạn, không
phải là tương ưng là ǵ?
Niệm đến lúc tâm không, không phải vĩnh viễn
tương ưng sao? Trong lúc niệm Phật, không
hôn trầm, không tán loạn, chỉ, quán, định,
huệ mỗi niệm viên thành; nếu muốn t́m thiền,
thiền ở đâu nữa?
Lời phụ giải: Thiền tức Tịnh v́ Thiền hay
Tịnh đều cầu đạt mục đích nhứt tâm bất loạn,
phương tiện tuy hai, nhưng kết quả vẫn một,
mà Thiền th́ khó thập bội!
Trong Quy ngươn trực chỉ có đoạn thí dụ
người tu các pháp môn khác, như thiền v.v...
mà đi đến mục đích, khác nào như con kiến ḅ
lên núi cao, như con mọt đục từng mắt tre mà
lên, từ gốc cho đến tận ngọn. Pháp môn Tịnh
độ niệm Phật thẳng tắt nhờ tha lực, như
thuyền thuận buồm, xuôi nước, như con mọt
đục ngang cây tre mà ra, c̣n ǵ nhanh chóng
hơn!
36. TỨC GIỚI TỨC PHẬT
Tŕ giới luật của Phật để trị thân, tŕ danh
hiệu của Phật để trị tâm. Tŕ lâu th́ thân
thuần, niệm lâu được tâm không. Tánh của
niệm hay tánh của giới không hai; luôn luôn
tŕ giới th́ tội lỗi không hiện, luôn luôn
niệm Phật, thời lúc lâm chung đánh tan được
quỷ môn quan, vượt khỏi ba cơi. Nếu giữ giới
đă có công phu, liền đem công đức này hồi
hướng Tây phương, chắc được về trung phẩm.
C̣n như chưa có thể giữ trọn cả hai, thời
nên phải siêng niệm Phật, như cứu lửa cháy
đầu.
Lời phụ giải: Tŕ giới cốt làm cho tự tâm
thanh tịnh, v́ không gây tội lỗi, không có
hối hận. Niệm Phật cũng cốt cho thanh tịnh
tự tâm. Vậy nên tŕ giới tức là niệm Phật.
Nhưng niệm Phật là phương tiện thiết yếu hơn
khi người chưa giữ giới được trọn vẹn. Thế
nên ta hăy cấp tốc niệm Phật, để cho tâm
tịnh rồi th́ tự nhiên giới được thanh tịnh.
37. TỨC GIÁO TỨC PHẬT
Một Đại tạng kinh đều từ tâm khởi, tâm nếu
không Phật th́ giáo lư cũng luống mà thôi.
Nhưng có tâm ai mà không Phật? Chỉ v́ tự
ḿnh không niệm vậy. Người có học giáo lư,
ắt có coi kinh Lăng Nghiêm, mà cói coi kinh
Lăng Nghiêm ắt có kẻ chê đức Thế Chí mà
trọng đức Quán Âm, một chút chấp trước đó
cũng đủ kết thành nguồn gốc sanh tử, dù học
hay, thấy xa, hiểu rộng, chẳng qua chỉ giúp
cho cái mầm khổ thêm tuổi mà thôi, không
giúp ích được ǵ trong việc thoát ly sanh
tử. Xin hăy mau bỏ đi, bỏ tất cả, để tâm
niệm Phật cầu văng sanh Tây phương, gần gũi
đức Di Đà. C̣n nếu không buông bỏ được th́
hăy đem công đức học kinh, giảng thuyết này
hồi hướng Tây phương, phát bốn điều thệ
nguyện rộng lớn, cũng được kết quả không
luống. Thoảng hoặc hoằng dương được pháp môn
Tịnh Độ, nói cho người ta hiểu công đức niệm
Phật, thời nháy mắt, động niệm đều là trang
nghiêm Tịnh Độ, thế th́ được văng sanh
thượng phẩm đâu c̣n nghi ǵ?
Lời phụ giải: Trong kinh Lăng Nghiêm, đức
Thế Chí tu niệm Phật tam muội đắc nhập viên
thông, c̣n đức Quán Thế Âm tu nhĩ căn mà
được chứng viên thông, hai vị đồng chứng
viên thông như nhau. Nhưng v́ theo căn tánh
tương hợp của chúng sanh Ta Bà mà khi vâng
lời Phật tuyển trạch viên căn, đức Văn Thù
phải chọn nhĩ căn của đức Quán Âm là đệ
nhứt, nếu không hiểu hoặc chấp giáo, cho là
đức Quán Âm hơn đức Thế Chí, tất sái với
tinh thần giáo điển. Thế là v́ chấp giáo lư
mà có sanh phân biệt hơn kém do cái ngă kiến
sẵn có tự hồi nào đến giờ, làm cho ta mê mờ
dễ sanh dị kiến, dễ tạo điều khổ ngay trong
tự tâm và cái khổ vẫn gắn bó măi măi đến vô
tận. Thật nguy hiểm thay!
Học, hiểu, giảng hay, nói giỏi mà cứ bị g̣
bó trong sự học, hiểu, đầu óc phải bị chi
ly, phiền toái trong văn tự, ngôn ngữ, có
khác ǵ con tằm mắc trong cái kén, rồi cũng
đến chết ở trong đó mà thôi!
Chi bằng đem hết thân mạng để trang nghiêm
Tịnh Độ, hay dùng cách lăo thật niệm Phật để
cầu sanh Cực Lạc c̣n hơn, cứ nói thánh nói
tướng, bàn ra tán vào, luận dọc luận ngang
đều làm rối đạo niệm, không ích ǵ cho việc
thoát ly sanh tử cả!
Thoảng hoặc tận dụng sở học, sở hiểu cùng
tất cả sở năng ra xiển dương pháp môn Tịnh
Độ, hay rộng tán thán công đức niệm Phật,
phương tiện diễn dụ khắp ba căn đồng tu hành
niệm Phật tam muội, thời thật ngày văng sanh
về Cực lạc không xa mấy đâu!
38. KHÔNG TR̀ MÀ TR̀
Khi vừa làm xong một việc ǵ, hay lúc nói
dứt một lời nào, c̣n chưa kịp đá động đến
câu niệm Phật, nhưng bốn chữ Hồng danh của
Phật đă nổi hiện lên ngay. Đây là trạng thái
dễ thành tam muội (chánh định).
39. TR̀ MÀ KHÔNG TR̀
Tŕ danh niệm Phật không mỏi chán, khoan
khoái lại càng khoan khoái hơn.
Trong lúc niệm Phật, tŕ niệm bốn chữ thật
rơ ràng, niệm đầu không lay động, bốn chữ
bỗng nhiên tạm dừng. Cũng không phải có cái
niệm tức bốn chữ, cũng không có cái niệm
ngoài bốn chữ, như thế có thể tạm gọi là
được thắng cảnh, chớ chưa phải thật tâm
không. Nhưng siêng năng niệm Phật, cảnh này
thường hiện, thời dần dần được tâm không.
Nếu nhơn một niệm tâm không liền bị hôn trầm
th́ gọi là không có Huệ.
Phải biết rằng: tâm càng không thời niệm
càng linh, tâm càng không thời niệm càng
tịnh, đem cái ta trong tâm Phật mà niệm Phật
ở trong tâm ta, không và bất không (có) đâu
c̣n xứ sở? Ví như mặt trời, mặt trăng rực rỡ
nơi bửu cung, ṿng quanh núi Tu Di, châu lưu
chiếu thiên hạ.
Ôi! C̣n ǵ bằng Diệu giác được viên minh!
Lời phụ giải: (cho cả hai pháp trên) Niệm
Phật khi đă đến mức vô công dụng th́ tự tại
vô ngại, không cần dụng công, không cần tác
ư, không niệm mà vẫn không ĺa niệm, có niệm
cũng không ĺa thể vô niệm của tự tâm.
Như khi chúng ta mới tập đi xe đạp, th́ cả
đầu, ḿnh, hai tay, hai chân đều như vận
dụng tất cả, thế mà xe vẫn nghiêng ngả, lủi
đây, lủi kia, quanh qua lộn lại, thế mà khi
ta đă thuần thục, tay không cần cầm, thân
không cần uốn, chân đạp tự nhiên, không dụng
công ǵ mà chiếc xe chạy ngay đi thẳng,
không khó khăn như khi ta mới tập.
“Thế thường vô nan sự, đô lai tâm bất
chuyên,” ở trên đời không có ǵ là khó, là
không làm được, chỉ sợ ta không làm và có
làm lại không bền chí, th́ chung qui việc ǵ
cũng chẳng ra việc ǵ cả. Thế mới đáng ân
hận!
40. CÔ THÂN NIỆM PHẬT
Tỳ kheo tu hành không cần bạn lữ. Cảnh niệm
Phật càng cô tịch càng hay! Cao thấp tùy
hợp, hưởn gấp tùy phần, cốt mong cầu được
thành một khối (nhứt tâm). Chính lúc bấy giờ
nên biết: thân côi nhưng tâm không côi, v́
tâm của chư Phật và đức Di Đà chưa từng tạm
rời ta. Móng ḷng là Phật biết, khởi niệm
th́ Phật hay, lo ǵ cô tịch? Nếu Pháp môn
Tịnh độ c̣n điều ǵ chưa thiệt hiểu rơ, nên
t́m kinh sách Tịnh độ mà coi. Như kinh A Di
Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Thiên Thai Trí
Giả Đại Sư Thập Nghi Luận, Thiên Như Ḥa
Thượng Tịnh Độ Hoặc Vấn, Đại Hựu Thiền Sư
Tịnh Độ Chỉ Quy, Long Thơ Tịnh Độ Văn, Tịnh
Độ Thần Chung, Tây Phương Công Cứ, Tây
Phương Xác Chỉ, Di Đà Sớ Sao v.v... Đây chỉ
dẫn một ít điều rơ ràng dễ hiểu, ngoài ra,
c̣n nhiều thứ hay ho hơn, không kể xiết. Nên
t́m học hỏi nơi các bậc cao minh thông hiểu
Tịnh độ.
Lời phụ giải: Người tu hành cần nơi vắng vẻ
để cho tâm niệm được chuyên, nhứt là tu Tịnh
độ. V́ không nhứt tâm tức không thể sanh
Tịnh độ, mà muốn nhứt tâm, đầu tiên phải t́m
chỗ yên lặng để lắng tâm tư. Như mặt nước có
đứng lặng th́ muôn sao mới hiện, mà muốn mặt
nước lặng không ǵ hơn là đừng có gió. Khi
đă nhập vào thể tịch của tự tâm tức đă nhập
vào pháp giới thân của chư Phật, bấy giờ
không chỉ một ngọn đèn huệ của ta độc hiện,
mà ta đă ḥa đồng cùng vô lượng vô biên huệ
đăng của mười phương chư Phật, ai bảo là cô
tịch? Chỉ sợ ta dại dột không hiểu, mà lo
đua chen chốn trần tục lao xao, đến khi bỏ
xác thân này, lại một ḿnh một bóng lui thui
vào chốn địa ngục A Tỳ, đây mới thiệt là cô
tịch.
41. KẾT KỲ NIỆM PHẬT
Kết kỳ là kết thất (7 ngày làm một kỳ), nếu
kết kỳ một ḿnh, th́ nên sắm bốn thứ để ăn:
cơm khô, trái cây, gừng sống, dầu mè; tám
thứ để dùng: lư hương, đèn dầu, bồ đoàn (đồ
để ngồi thiền), ghế dựa, áo bông (đồ ấm),
khăn hay mũ, thùng vệ sinh, giấy vệ sinh
(giấy sút). Ngoài 12 thứ đó, không để một
thứ ǵ cả. Có thể trong suốt một tuần, không
cho ai lai văng, để rảnh rang niệm Phật.
Nếu có 5,6 người đồng phát tâm kết kỳ niệm
Phật, thời cần phải thỉnh một vị hộ thất,
lập qui điều cho nghiêm chỉnh dán ở trước
cửa.
Tất cả mọi cử động, uống ăn, hương hoa đăng
quả, đều do vị hộ thất cung cấp đầy đủ, thời
những người đồng thất cũng có thể suốt trong
bảy ngày chí tâm niệm Phật. Nếu c̣n hạn cuộc
trong t́nh chấp buộc ràng, chưa biết những
điều lợi hại của việc tu hành, th́ đừng nên
sớm khinh suất mà làm việc này.
Lời phụ giải: Sợ không vào thất kết kỳ, th́
bao nhiêu công chuyện ngoài đời, hoặc khách
khứa bạn bè, không sao được yên tịnh mà niệm
Phật. Thế nên cần phải kết kỳ, tức là lập
thế trốn khách, trốn việc vậy. Những thứ cần
dùng phải sắm đủ, để khỏi phải bận tâm,
không nghĩ móng, hoặc nhờ hỏi người ngoài,
hầu yên tâm niệm Phật. Đây chỉ nói đến bảy
ngày, nhưng nếu người nhiều phương tiện,
hoặc rảnh rang, có thể kết hai hoặc ba thất
v.v... không hạn cuộc. Khi đă quyết định,
th́ đừng để ngoại sự chi phối, rồi nửa chừng
dở thất, nếu chưa hết kỳ mà vội mở cửa, th́
thật là chua! Nên biết rằng: người tu, càng
tu nhiều ma càng khảo nhiều, nên không thể
lơ mơ được, bởi thế nên phải hiểu và phải
nhận định kỹ trước khi làm, không thể thua
cuộc mà hỏng việc, lại để cười cho kẻ bàng
quan.
42. TỤ HỘI NIỆM PHẬT
4,5 người hẹn nhau hội họp tu pháp niệm
Phật. Trước hết phải đặt điều ước, trật tự,
sau mới bắt đầu niệm. Lúc đầu niệm th́ một
tiếng mỏ một tiếng niệm, một người xướng bao
nhiêu người niệm theo, đều đều không nên so
le, lộn xộn mà làm loạn động tâm người đồng
niệm.
(Pháp này không kết thất như pháp trên, mà
tùy phương tiện tu tập thế thôi, bao nhiêu
người cũng được, bao nhiêu ngày cũng không
hạn cuộc.)
43. NIỆM PHẬT ĐỂ THÀNH TỰU CHO NGƯỜI
Hoặc ở yên một chỗ niệm Phật mà cầu nguyện
cho người, hoặc đồng với người khác kết kỳ
niệm Phật. Hoặc đem pháp môn niệm Phật chỉ
dạy cho người biết, hoặc cho người mượn sách
Tịnh Độ mà xem, hoặc phá những mối nghi lầm
của người khác trong pháp môn này, hoặc
khuyên người bền chí niệm Phật, những việc
ấy đều tốt và đều có công đức cả.
Nhưng nếu người trong lúc lâm chung mà có
ḿnh đến hộ niệm, khiến cho người bịnh luôn
luôn nhớ câu niệm Phật, vừa nhớ vừa niệm,
làm cho người ấy sau khi tắt hơi rồi được
văng sanh về cơi Tây phương, đó là thành tựu
pháp thân huệ mạng cho người, công đức này
c̣n thù thắng hơn.
(Pháp này không có ǵ là khó hiểu cả.)
44. KHI CÓ TAI NẠN NÊN NIỆM PHẬT
Phàm lúc xảy ra tai nạn, mà nhớ phát tâm
niệm Phật, tất có kỳ ứng (ứng nghiệm lạ
thường). Tuy rằng một nước bị can qua hay
một làng bị dịch lệ, mà niệm Phật để cầu,
th́ một người niệm một người an, trăm người
niệm trăm người an. Không phải Phật có ḷng
riêng, lúc nào cũng trong ánh sáng b́nh
đẳng, vô tâm mà ứng hiện. V́ sao? V́ động
niệm thành tiếng tự ḿnh rơ biết hào quang
sáng của đức Phật A Di Đà trụ trên đỉnh đầu
ta, thời tự nhiên mỗi niệm đầy đủ, mỗi niệm
bền chắc, mỗi niệm dài lâu, thời hào quang
của Phật chiếu đến gia hộ các vị thiện thần
độ tŕ, tự ḿnh có thể ĺa khỏi nạn tai, xin
đừng chuyển niệm.
Lời phụ giải: Có người bảo: niệm Phật làm
sao dứt được nạn này, nạn khác? Đó là tại v́
ḿnh không tha thiết, hay niệm mà ḷng vẫn
nghi ngờ, th́ bao nhiêu đó cũng chứng tỏ
không đem kết quả tốt đến cho ḿnh rồi. Nên
hiểu rằng: Tâm ḿnh lúc bấy giờ chỉ nghĩ có
một chuyện niệm Phật ngoài ra không nghĩ ǵ
khác, một niệm quên thân, một niệm an tâm ấy
càng kéo dài, th́ khổ nào đày ải ta được?
Câu “Linh tại ngă bất linh tại ngă” có ư vị
lắm thay! Một người rồi nhiều người bắt đầu
niệm Phật tức là chuyển ác niệm thành thiện
niệm, thiện niệm ấy càng kéo dài th́ tai nạn
nào mà không khỏi, tội khổ ǵ mà chẳng an?
Ngoài ra trong kinh ghi 10 điều lợi ích của
sự niệm Phật, tôi xin kính ghi chép ra đây
để quư vị tin mà cố gắng:
Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, đức
Phật A Di Đà phóng quang nhiếp thọ.
Thường được 25 vị Đại Bồ Tát như đức Quán
Thế Âm thủ hộ.
Ngày đêm thường được chư thiên cùng đại lực
thần tướng ẩn h́nh ủng hộ.
Tất cả dạ xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc
đều không thể làm hại.
Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên,
gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia
cùng các thứ chết dữ.
Những tội đă làm thảy đều tiêu diệt, những
kẻ chết oan v́ ḿnh đều được giải thoát,
không c̣n kết oán ràng buộc.
Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc
thấy sắc thân thắng diệu của Phật A Di Đà.
Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận,
khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp
lợi ích.
Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính
hoặc lễ bái cũng như kỉnh Phật.
Khi mạng chung tâm không sợ hăi, chánh niệm
hiện ra, được Tây Phương Tam Thánh tiếp dẫn
sanh về Tịnh độ hưởng sự an vui không cùng!”
45. NIỆM PHẬT TRONG LÚC CHIÊM BAO
Nguyện lực bền chắc, công phu tinh nhuần,
ban ngày giữ niệm khăn khăn, ban đêm vẫn giữ
niệm khư khư, thời trong giấc chiêm bao tự
ḿnh có thể niệm Phật, đó là triệu chứng sắp
văng sanh, vậy phải giữ điều ḥa và phải cố
gắng lên măi, đừng lui đừng loạn.
Lời phụ giải: Niệm Phật đến giai đoạn này,
thật đă khá tinh nhuần. Có nhiều người niệm
được ban đêm, ban ngày không, lúc thức niệm
lúc ngủ không. Như vậy tất c̣n gián đoạn, do
công phu chưa thuần. Phải tập thế nào: luôn
luôn giữ niệm niệm Phật, dù khi thức hay lúc
chiêm bao. Muốn tập điều này th́ trước khi
đi ngủ hăy cố niệm Phật cho đến khi nào ngủ
ṃm mới thôi, lại trước khi lên giường phải
đánh thức tâm niệm Phật bằng cách tự dặn ḍ:
muốn thoát ly sanh tử không ǵ hơn ngươi
phải luôn nhớ niệm Phật, dù khi thức hay lúc
ngủ. Mỗi hôm nhớ dặn thế, sẽ quen dần dần,
tự nhiên có kết quả. Quí vị muốn khuya thức
dậy đúng giờ nên tập theo cách này: trước
khi đi ngủ phải dặn thành tiếng: “Đúng 5 giờ
(hay 4 giờ tùy) phải thức dậy,” nói đôi ba
lần như thế, sáng ra sẽ dậy đúng giờ, nhưng
nên nhớ một vài ngày đầu có khi bị xê dịch
ít nhiều, v́ ư niệm chưa thuần, nhưng sau đó
thi sẽ thức đúng dần dần, rồi th́ đúng hẳn,
mười hôm như một. Điều này gọi là tập quen
thành lệ chớ không có ǵ lạ cả.
46. NIỆM PHẬT TRONG LÚC BỊNH
Bịnh là cơ sắp chết, chết là mối quan hệ của
các thánh, phàm, tịnh, uế. Trong lúc bịnh
(bịnh nặng) phải khởi tưởng niệm là sẽ chết
(để không sợ chết). Phải siêng niệm Phật,
quyết định chờ chết, ắt có hào quang của
Phật đến tiếp dẫn, làm toại chí nguyện văng
sanh của ta. Nếu trong lúc bịnh, dừng không
niệm Phật th́ tất cả sự ái luyến sợ sệt,
phiền năo hiện lên rần rần, các thứ tạp niệm
nhứt tề nổi dậy. Thế th́ con đường sanh tử
lấy ǵ cứu vớt? Ngày xưa có một vị Tăng bịnh
nặng, rên thành tiếng “Ôi cha.” bỗng tự biết
người tu lúc nghĩ nhớ đến đạo mà lại rên như
thế là sai, liền khởi niệm A Di Đà Phật.
Nhưng cơn đau không chịu dứt, nên một tiếng
rên “ôi cha” là một tiếng niệm Phật tiếp
theo, ngày đêm không dứt. Khi bịnh lành,
thầy bảo mọi người: “Trong lúc bịnh tôi rên
thành tiếng “ôi cha” và chen một tiếng niệm
A Di Đà Phật, hôm nay bịnh lành, tiếng A Di
Đà Phật hiện c̣n mà tiếng rên “ôi cha” chẳng
biết biến đâu.”
Hy hữu thay! Đây là trường hợp tinh tấn
trong lúc bịnh vậy.
Lời phụ giải: Ở đời, có ai khỏi chết, thế mà
có kẻ sợ chết đến thành đốn hèn, hay tham
sống đến quên chết, thật khổ thay!
Sợ chết rồi cũng không thoát chết, th́ có sợ
cũng bằng thừa. Ngày xưa có nhiều vị làm
những chuyện có thể gọi là đáng buồn cười,
thế mà thật là ư vị: Sắm sẵn một cái ḥm
(quan tài), đêm đêm vào ngủ trong ấy, thật
là một việc mà người đời ai cũng sợ. Một
người thân, rất thân, vừa mới dứt hơi có kẻ
đă không dám léo hánh đến gần, đừng nói dở
mặt để xem. Vào ngủ trong ḥm, cho biết rằng
vị ấy coi cái chết như một giấc ngủ, không
có ǵ đáng sợ, hơn nữa để thấy rằng: Cái
chết nó sẵn sàng đến với ta bất cứ lúc nào,
để mà không sợ chết, chỉ có lo vun quén cho
ḿnh một kiếp sống không bao giờ chết: con
đường giải thoát. Vậy chúng ta hăy cố mà
niệm Phật, đừng sợ chết, v́ cái chết của một
xác thân này chỉ là một sự cởi một cái lốt
tạm của vô lượng thân vô thường biến chuyển
về sau, nếu ta chưa được giải thoát!
47. PHÚT LÂM CHUNG NÊN NIỆM PHẬT
Phút lâm chung nên cố gắng ghi nhớ 4 chữ A
Di Đà Phật đừng để sót quên. Nếu niệm lớn
được thời niệm, c̣n không niệm lớn được th́
niệm nhỏ. Trường hợp lớn nhỏ đều không niệm
được (v́ quá mệt) th́ nên ghi khắc thầm
tưởng 4 chữ trong thâm tâm, đừng cho quên
sót.
Những người hầu hạ chung quanh phải thường
nhắc nhở khuyến khích người bịnh nhớ Phật,
niệm Phật.
Phải biết rằng: trong nhiều đời, nhiều kiếp,
v́ ta bị loạn niệm trong lúc này (gần chết)
mà phải luân hồi măi trong ṿng ba cơi. Tại
sao? V́ sanh tử, luân hồi đều do nhứt niệm
làm chủ. Nếu nhứt niệm chuyên chú niệm Phật,
th́ thân tuy chết nhưng tâm thần không tán
loạn, liền theo nhứt niệm ấy văng sanh Tịnh
độ.
Vậy nên hăy nhứt tâm ghi nhớ bốn chữ A Di Đà
Phật đừng quên!
Lời phụ giải: Người tu Tịnh độ khi gần mạng
chung, nên phải dự tính rằng: Phút lâm chung
là điều quan trọng cuối cùng của đời người
tu hành niệm Phật, nếu giữ ǵn không kỹ, vận
dụng không khéo, th́ chẳng những luống uổng
công phu trong một đời là vẫn mang cái khổ
lụy luân hồi sanh tử, không sao tránh khỏi.
Huống chi thân ta đây do nơi nghiệp thức,
nhờ chút tinh cha, huyết mẹ tạo nên, hễ có
h́nh phải có hoại, có sanh tất có tử, thật
không vĩnh viễn tồn tại.
C̣n cơi ta ở đây, đầy đủ uế trược, ác hiểm,
cũng từ nơi vọng nghiệp nhơ bẩn mà sanh,
không phải là cảnh thanh tịnh, an nhàn đáng
cho ta quyến luyến. Ngày nay ta nhứt tâm
niệm Phật cầu khi bỏ thân này được văng sanh
Tây phương Cực Lạc, chẳng khác nào bỏ áo cũ
dơ, mặc áo mới sạch, th́ c̣n mong ǵ hơn
nữa.
Nếu suy nghĩ, dự tính được như thế, th́ đến
khi sắp chết, trong ḷng không c̣n tham
luyến sắc thân, ngoài không c̣n đắm mến cơi
đời, nhứt tâm chánh niệm trực văng Tây
phương, dù sức muôn trâu cũng không kéo lại
được.
48. PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI NIỆM PHẬT
Than ôi! Trong đời có thiếu ǵ kẻ không biết
niệm Phật, có người cho niệm Phật là dị đoan
nên không chịu niệm, người xuất gia cho niệm
Phật là việc tất nhiên của ḿnh phải làm,
chớ không biết tại sao phải niệm, kẻ cuồng
huệ biết có Phật, nhưng lại không khứng
niệm, kẻ ngu si không biết Phật nên không
niệm. Đây là đem so sánh, c̣n có những ngu
phu, ngu phụ, nghe nói lư nhơn quả cũng biết
niệm Phật, nhưng lại mong cầu được phước báo
đời sau, vẫn không thoát khỏi hột giống luân
hồi.
T́m kẻ thật v́ đường sanh tử mà niệm Phật
trong trăm người họa chăng chỉ có một hai!
Nên biết rằng, người đă niệm Phật, tức xứng
hợp với ḷng từ của Phật, phát thệ nguyện
rộng lớn tế độ chúng sanh. Tất cả tội cấu
oan khiên thảy đều sám hối. Tất cả những
công đức dù nhỏ dù lớn đều đem hồi hướng Tây
phương, như thế mới là CHÁNH NHƠN NIỆM PHẬT.
Lời phụ giải: Làm một việc ǵ đều phải có
mục đích và tất nhiên phải có đạt đến kết
quả của nó. Một việc niệm Phật, siêu xuất
luân hồi, văng sanh Tịnh độ, với mục đích đă
nhắm và với kết quả sẽ đạt thật là cao siêu
và thật tế, thời hành nhơn ắt phải rơ thấu
và tận dụng tri giác của ḿnh, đâu phải
những điều huyễn hoặc, vu vơ hay thiển cận
mà khinh hốt.
Nhận thức đúng đắn điểm này thời việc làm ắt
không đến đỗi luống. Thiệt ḷng niệm Phật
cầu thoát sanh tử thời cầu mong phước báo
hữu lậu ở thế gian làm ǵ? Vạn vật vô thường
của cơi thế gian nào phải là chỗ gởi thân
vĩnh viễn của ta đâu? Nhưng đó chẳng qua v́
hoặc nghiệp, phiền năo nhiều kiếp sâu dày,
mặc dầu cũng có hiểu biết đấy, nhưng lại
phải chướng dày huệ mỏng, nên rồi phải tự
cam với số phận hẩm hiu. Vậy khi đă rơ thông
và phát tâm niệm Phật th́ phải hết ḷng, hết
sức sám hối nguyện tiêu trừ tất cả chướng
cấu trần lao để ḷng thanh thoát, không c̣n
bị những ảo ảnh gạt lường, mới mong đạt
thành sở nguyện.
------------------------------------------------------------------------------
[1] Thành khối tức Nhứt Tâm hay Tam Muội đó.
Niệm Phật cốt giữ một ḷng không tán loạn,
không xen tạp, như đường đă thành kẹo.
[2] Hôn trầm: nặng nề, ngủ gật, làm cho thân
không được tự tại, tâm không được sáng suốt.
[3] Thâu buộc tâm niệm, đừng cho nó chạy
theo vọng trần, vọng cảnh tán loạn mất chánh
niệm, bấy giờ tinh thần sẽ được sáng suốt.
[4] Tâm khí: Tâm là tâm niệm, khí là hơi
thở. Tâm niệm bị loạn động, hơi thở đứt nối
không đều, nên gọi là tâm khí không điều
ḥa.
[5] Khí tịnh tâm b́nh: hơi thở điều ḥa, an
tịnh, tâm niệm b́nh thản, thơ thới.
[6] Thường người ta niệm sáu chữ (lục tự Di
Đà) nhưng suy kỹ th́ sáu chữ sẽ khó nhứt tâm
và khó thành khối hơn 4 chữ. Ngài Pháp Chiếu
Đại Sư trong Ngũ Hội Niệm Phật cũng chủ
trương 4 chữ.
[7] Hồi quang phản chiếu: Xoay quán trí trở
về quán sát nội tâm, không duyên theo ngoại
cảnh.
[8] Niệm đầu: Không phải niệm đầu là lúc đầu
khi mới niệm Phật, mà mỗi niệm nối liền
nhau, câu niệm Phật trước gối đầu câu niệm
Phật sau, không hở không dứt.
[9] Vô kư là không nhứt định thiện hay ác.
[10] Ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân, Ứng
hóa thân.
[11] Hắc nghiệp: Nghiệp đen, chỉ cho phiền
năo nghiệp, ác nghiệp.
[12] Buông bỏ thân tâm: nguyên chữ Hán “thân
tâm phóng hạ,” ư nói không c̣n một chút ǵ
dính măc trong tâm, xả bỏ tất cả, nghĩa như
câu “huyền nhai tán thủ” là ở trên gộp đá
cao, buông tay rơi xuống vực sâu thẳm, không
c̣n níu nắm đâu nữa cả.
[13] Pháp vương là vua của các pháp, ư nói
đức Phật đă thâm đạt thật tướng các pháp, ở
trên sự vật mà nh́n sự vật.
[14] Trời Hửu đảnh là cơi trời cao tột cảnh
trời Sắc giới.
[15] Phong luân: Sắc gió dưới đáy trái đất.
Nhờ sức gió mạnh quay tít không ngừng, gây
một sức mạnh vô ngần để duy tŕ thế giới.
[16] 6 căn, 6 trần, 6 thức.
[17] Khi hạ thủ công phu mà đạ được kết quả
th́ gọi là đắc thủ.