Tiểu sử
Ông có làm bài kệ:
"Có trai không cưới - Có gái không gả -
Cả nhà chung hội họp - Ðồng bàn lời vô sanh."
" Một hôm ngồi trong am, ông chợt nói:
Khó khó, mười tạ đầu mè trên cây vuốt.
Bà Uẩn đáp: Dễ dễ trên đầu trăm cỏ, ý Tổ sư.
Cô Linh Chiếu tiếp: Cũng chẳng khó, cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ
khò. "
"Ông ngồi hỏi Linh Chiếu:
"Cổ nhân nói: "Sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư là sao?"
Linh Chiếu thưa: "Lớn lớn già già thốt ra lời ấy."
Ông hỏi: "Con thế nào? "
"Sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư"
ông bèn cười."
Ông có làm bài kệ:
"Tâm như, cảnh cũng như - Không thật, cũng không hư -
Có cũng chẳng quản - Không cũng chẳng cư -
Chẳng phải hiền, thánh - Xong việc phàm phu -
Dễ lại dễ -
Tức năm uẩn này có chân trí -
Thế giới mười phương đồng một thừa -
Pháp thân không tướng nào có nhị -
Nếu bỏ phiền não vào Bồ Ðề -
Chẳng biết nơi nào có Phật địa ? "
Câu chuyện về cái chết của ông rất là đặc biệt và được truyền tụng trong
nhiều tài liệu về sau.
" Sắp tịch, ông bảo Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho ông hay.
Linh Chiếu ra xem vào thưa : "Mặt trời đã đúng ngọ, mà có nhật thực.". Ông
ra cửa xem. Linh Chiếu lên tòa của ông, ngồi kiết già chấp tay thị tịch.
Ông vào xem thấy cười, nói :" Con gái ta lanh lợi quá !". ông bèn chậm lại
bẩy ngày sau mới tịch. Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay. Bà nói :" Con
gái ngu si, ông già vô tri, không báo tin mà đi, sao đành vậy ?". Bà ra
báo tin cho con trai đang làm ngoài đồng. Bà nói: "Long Công với Linh
Chiếu đi rồi con !". Người con trai đang bừa ruộng đáp: " Dạ !". Rồi lặng
thinh giây lâu bèn đứng mà tịch. Bà nói :" Thằng này sao ngu si lắm vậy!".
Lo thiêu con song, bà đi từ biệt thân thuộc rồi biệt tích. "
(Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng, tập 1)
Câu chuyện này đối với các vị Thiền sư thì không có gì lạ lắm, vì trong
các chuyện về đời các Thiền sư thường kể các vị đó khi sắp tịch đều biết
trước và khi ra đi rất là tự tại, thường đều sửa sọan trước, tới khi ra đi
đều ngồi kiết già, căn dặn các đệ tử xong xuôi mới tịch. Nhưng ở đây có
đặc biệt là chẳng những riêng ông Bàng Uẩn, mà con gái và con trai cũng ra
đi một cách rất an nhiên tự tại. Thái độ bình tĩnh của bà cũng đặc biệt
không kém vậy. Cả một gia đình mà đồng ngộ đạo như vậy thì là một chuyện
thật hiếm có. Người sau này nói ông đúng là một Duy Ma Cật.
Tu
hành:
Ông Bàng Uẩn
đã đi tham vấn nhiều vị thiền sư , nhưng trong đó có hai vị nổi tiếng nhất
là Thạch Ðầu Hy Thiên (Tr. H: Shih-T'ou Hsi-ch'ien, Nhật: Sekito Kisen) và
Mã Tổ Ðạo Nhất (Tr.H.: Ma-Tsu Tao-i, Nhật: Baso Doitsu). Hai vị đó nổi
tiếng nhất thời đó và đều là đệ tử đời thứ hai của Lục Tổ Huệ Năng. Sau
đây là phần ghi về những cuộc đối thoại :
" Ông đến yết kiến Hòa Thượng Thạch Ðầu, hỏi :" Chẳng cùng muôn pháp
làm bạn là người gì?"
Thạch Ðầu lấy tay bụm miệng ông. ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Một hôm Thạch Ðầu hỏi :" Từ ngày ông thấy lão tăng đến nay, hàng ngày ông
làm việc gì?". Ông thưa :" Nếu hỏi việc làm hàng ngày tức không có chỗ mở
miệng".
Ông liền
trình bài kệ :
Hàng ngày không việc khác
Chỉ tôi tự biết hay
Vật vật chẳng bỏ, lấy
Chỗ chỗ nào trái bày
Ðỏ tía gì làm hiệu
Núi gò bặt trần ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước, bổ củi tài.
Thạch Ðầu hứa khả, bảo :" Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia ?".
Ông thưa :"
Xin cho con theo sở nguyện, không cạo tóc xuất gia."
(Trích trong "Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng, tập 1")
Câu hỏi :" Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì ?" có ý nghĩa rất thâm
sâu trong Thiền tông. Pháp đây chỉ về mọi sự vật, vật chất cùng tâm linh
trong thế gian. Những phàm nhân như chúng ta, chưa phải là thánh, thì luôn
ham làm bạn với muôn pháp, rất thân thiết và không lúc nào rời các pháp.
Chúng ta làm thân với các pháp đến nỗi kinh điển gọi đó là "nhận giặc làm
con". Chúng ta chấp đủ thứ, cảnh đến là chúng ta nhận và khởi niệm phân
biệt, suy nghĩ, tính toán. Những niệm đó, do cảnh ở ngoài gây ra, tạo nên
cái "tâm" mà mỗi chúng ta coi là điều quan trọng nhất trong cuộc đời.
Phương pháp chính yếu của Thiền Tông là "đối cảnh không sanh tâm", cảnh
đến ta không làm bạn, không chấp thì khi đó tâm sẽ không còn bị loạn động,
điên đảo nữa. Ðây cũng là điểm mà nhiều người hay hiểu lầm về phương pháp
tu của Thiền Tông. Phần đông chúng ta, khi nói tới thiền, là chỉ nghĩ tới
việc ngồi xếp chân, nhắm mắt để cố không nghĩ đến gì hết. Dĩ nhiên là một
khi giữ cho tâm mình không còn nghĩ ngợi bung lung nữa, bằng cách tập
trung tư tưởng, dù là tập trung tư tưởng vào việc không nghĩ gì, thì cũng
có điều tốt. Nhưng nếu cho rằng như vậy là thành công trong việc tu tập
thì quả là một sự hiểu lầm. Thiền Tông cũng có cho rằng tọa thiền là cần
thiết, trong bước đầu ai cũng phải qua giai đoạn đó, nhưng nếu cho rằng
như vậy là cứu cánh thì không đúng. Tu thiền là trong bốn oai nghi (đi,
đứng, nằm, ngồi) lúc nào cũng phải rõ vọng tâm và thấy được bản tánh của
mình. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dậy rằng :"Ðạo do tâm mà
ngộ, đâu phải do tọa." Thiền Tông, với phương pháp "chỉ thẳng tâm
người" (trực chỉ nhân tâm) muốn chúng ta phải tự tìm hiểu cái tâm đó một
cách rõ ràng. Câu chuyện về tổ Huệ Khả (Tr.H. Hui-k'o, Nhật: Eka), tức vị
tổ Trung Hoa thứ hai, cho thấy phương pháp độc đáo của Thiền Tông.
"Một hôm Huệ Khả tới bạch với tổ Ðạt Ma :"Bạch Hòa thượng, tâm con
chẳng an, xin Hòa thượng dạy con "pháp an tâm". Tổ Ðạt Ma nhìn thẳng bảo:
"Ðem tâm ra ta an cho". Sau một thời gian tìm tâm mà không thấy bóng dáng
liền bạch Tổ: "Con tìm tâm không được". Tổ bảo " Ta đã an tâm cho ngươi
rồi". Ngay đó Huệ Khả ngộ. "
Câu chuyện đó nghe qua thật là giản dị, nhưng đã chỉ rõ pháp tu rất
quan trọng trong việc tu của Thiền Tông. Thiền Tông đòi hỏi mỗi chúng ta
phải tự lực, sống với kinh nghiệm riêng của chính mình và tìm hiểu cái
"tâm" là gì. Nếu chúng ta, thay vì lúc nào cũng hướng ngoại, chạy theo
danh và tướng, bây giờ quay vào trong tìm hiểu tâm mình, và thấy được cái
tâm lăng xăng, duyên theo cảnh, biến đổi từng phút, từng giây, mà Thiền
Tông gọi là "vọng tâm". Lục Tổ Huệ Năng có nói rõ pháp môn của Tổ gồm có:
Vô niệm, Vô tướng và Vô trụ. Lục tổ chỉ rõ Vô niệm là "Trong các niệm
tưởng của mình, tâm thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sinh tâm".
Như vậy khi ông Bàng Uẩn biết : " không làm bạn với muôn pháp ", tức là
biết giữ cho tâm lìa được cảnh, không còn chấp, chạy theo cảnh, thì khi
đối cảnh, cái vọng tâm chẳng thể sinh. Câu hỏi đó chứng tỏ ông đã thấu
hiểu phương pháp an tâm của Thiền Tông, nhưng ông muốn biết rõ là tới đó
rồi thì đạt được gì, nên hỏi người đó là "người gì ". Hòa thượng Thạch Ðầu
lấy tay bụm miệng ông, và ngay đó ông ngộ. Trong bài kệ nói trên, ông
trình bày rõ ràng những điều ông đã hiểu và đã thực hành. Câu "vạn vật
chẳng bỏ, lấy" tức là ông chẳng còn thấy có gì để thủ, để xả. Bước đầu của
đường tu, như chúng ta thường biết, là phải bỏ cái này, lấy cái kia như bỏ
điều ác và làm điều thiện, bỏ vọng theo chân, bỏ tà theo chính ... Ðó là
giai đoạn còn dùng phương pháp đối trị, dùng cái hay để trị cái dở, nhưng
tới trình độ cao hơn, lại bỏ luôn thiện, bỏ luôn chân ... Thí dụ như khi
còn thấy mình sống với các điều thiện, chân, tịnh ... và coi như mình đã
đắc đạo, thấy những người khác là vọng, uế, thì vẫn là còn chấp hai bên,
vẫn còn có cái phân biệt, tâm vẫn còn khởi niệm, vọng tâm vẫn còn đó. Ông
Bàng Uẩn biết "không cùng muôn pháp làm bạn" là ngoài không chấp cảnh,
trong thì "vạn vật chẳng bỏ lấy" là trong không còn chấp cái vọng tâm, tỏ
ra ông xứng đáng được Thạch Ðầu ấn chứng. Nhưng theo Thiền Tông, tới mức
cao hơn nữa tức là sau khi thấy mình không còn có trí phân biệt nữa, thì
phải bỏ luôn cả cái trí biết mình không phân biệt đối đãi ấy, và người này
mới thật là người "không tu, không chứng" mà đức Phật nói tới trong kinh
"Bốn Mươi Hai Chương" (chương 11): " Cúng một trăm triệu đức Phật,
không bằng cúng một vị không niệm, không trụ, không tu, không chứng" .
Chúng ta nên suy nghĩ về tại sao đức Phật lại nói một người "không tu,
không chứng" lại xứng đáng được cúng hơn cả một trăm triệu đức Phật.
Riêng về hai câu chót rất là đặc biệt và được truyền tụng rất nhiều :
"Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước, bổ củi tài."
Hai câu đó nói rõ được sự độc đáo của Thiền Tông. Phần đông hiểu rất sai
lầm về việc tu hành của Thiền Tông. Nếu ta tu Thiền và khi gặp một người
nào thì câu hỏi đầu tiên của họ gần như chắc chắn là : "Tu có thấy được gì
chưa ?". Quan niệm chung là tu Thiền phải có thần thông, hoặc khả năng đặc
biệt nào đó. Những người tu mà bị đưa vào con đường tà đạo là tại ham thấy
những phép lạ, như thấy hào quang sáng rực, thấy gặp vị nọ, vị kia, biết
được những tiền kiếp hoặc tương lai của mình hay của người, biết được ý
nghĩ của người khác, điều khiển được hơi thở, tim, biết bay, đi trên mặt
nước ... Nếu chúng ta tin rằng những người đắc đạo là phải có những thần
thông như vậy tức là không hiểu rõ đạo Phật. Ngoại đạo, nhất là tà đạo,
với những phương pháp tu tập đặc biệt họ cũng có thể thực hành được những
thần thông đó. Chính vì biết những ưa thích đó của số đông nên ngoại đạo,
tà đạo và những người lợi dụng danh nghĩa đạo Phật đã thành công trong
việc dụ dỗ những người ham có những thần thông, phép lạ. Người hiểu rõ
giáo lý đạo Phật không bao giờ bị dẫn dắt lạc đường vì biết rõ rằng những
thần thông, phép lạ đó không có ích lợi gì cho việc tu hành cả. Ðức Phật
thường nghiêm cấm các đệ tử, dù khi tu hành mà có được những thần thông
nào đó thì cũng không được đem ra trình diễn hoặc phải từ bỏ đi, vì nếu
đem những điều đó để khuyến dũ người ta theo, tin đạo Phật là một việc
trái đạo.
Ðạo Phật là
đạo giác ngộ, giải thoát chứ không phải giải trí. Ngoài ra Thiền Tông quan
niệm thần thông một cách rõ ràng và hợp với tôn chỉ của đạo Phật. Tổ Lâm
Tế chỉ rằng bất cứ lúc nào đối sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp mà không
bị dính mắc vào những thứ đó thì đó là lục thông. Người đã "không làm bạn
với muôn pháp" chính là người đã không còn bị những vọng niệm lôi cuốn và
như vậy mới thấy được bản thể như như, không động, của mình. Người đó mới
thực là an nhiên, tự tại trong mọi hành động. ông Bàng Uẩn đã nắm vững và
hiểu rõ đường lối của Thiền Tông nên ông nói thần thông của ông là "gánh
nước, bổ củi tài". Chắc đọc tới đây nhiều người sẽ thắc mắc: nếu tu Thiền
chỉ là để gánh nước, bổ củi tài thì ai chẳng làm được, cần gì phải tu cho
mất công, tu là phải có được những thần thông, biến hóa hoặc ít ra phải có
vài phép lạ để làm cho thiên hạ thán phục. Câu nói của ông Bàng Uẩn không
phải là một câu hài hước hoặc khiêm tốn, mà là một câu chứng tỏ ông đã
thấy đúng tôn chỉ của Thiền Tông vậy. Thiền Tông nổi bật chính vì đã đi
sát với đời sống thường ngày, thực tiễn, không phải là cái gì huyền bí, xa
vời. Chân lý của sự vật lúc nào cũng hiện ngay trước mắt chúng ta chứ
không phải ở nơi xa xăm.
Sau buổi đối thoại đó, hòa thượng Thạch Ðầu ấn chứng ông Bàng Uẩn đã ngộ
đạo và hỏi ông có ý định xuất gia không, nhưng ông từ chối vì chỉ muốn
sống một cuộc đời cư sĩ. Sau đó là câu chuyện việc ông theo học với Mã Tổ:
" ông đến tham vấn Mã Tổ, hỏi :" Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người
gì ?". Mã Tổ bảo :" Ðợi miệng ông hút hết nước sông Giang Tây, ta sẽ nói
với ông". Ngay câu nói này, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ Mã Tổ
hai năm. "
(Trích trong "Trung Hoa Chư Thiền Ðức Hành Trạng, tập 1")
Ngay khi ngộ từ câu nói của Mã Tổ ông trình liền bài kệ:
" Mười phương đồng tử hội
Mỗi mỗi học vô vi
Ðây là nơi tuyển Phật
"Tâm không" thi đậu về "
(Trích trong "Ðại Huệ Ngữ Lục")
Tới gặp Mã Tổ, ông lại hỏi lại câu mà ông đã hỏi Thạch Ðầu, nhưng lần này
thay vì bị bụm miệng thì ông được trả lời. Tuy vậy đối với chúng ta, câu
trả lời cũng không chỉ rõ gì hơn vì cũng khó hiểu như trước. Nhưng đối với
ông thì câu trả lời đó rất quý báu vì đã giúp ông hoàn toàn ngộ đạo. Nếu
muốn thấy được ý nghĩa của cuộc đối thoại đó, chúng ta nên tìm hiểu Mã Tổ
hơn là suy nghĩ về câu nói đó. Sau này câu trả lời đó được dùng làm câu
thoại đầu (cũng còn gọi là công án) cho nên không phải là câu để tìm hiểu.
Mã Tổ là một vị tổ giữ vai trò rất quan trọng trong lịch sử Thiền Tông, vì
các đệ tử đời sau của ngài đã tạo nên những môn phái nổi tiếng. Sau đời Mã
Tổ Ðạo Nhất là các vị : Bá Trượng Hoài Hải (724-814), Hoàng Bá Hy Vận
(?-850) và sau đó là vị tổ nổi tiếng Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867), vị đã lập
ra dòng Lâm Tế mà cho tới nay vẫn còn tiếp tửc tại Trung Hoa, Nhật Bản và
Việt Nam. Ngài truyền đạo tại Giang Tây, và người thời đó coi Giang Tây
như trường thi Phật nên ông Bàng Uẩn nói :"Ðây là nơi tuyển Phật". Ðệ tử
của ngài rất đông và có tới 84 người ngộ đạo, một con số hiếm có. Câu
giảng dậy nổi tiếng của Mã Tổ là "Tức Tâm Tức Phật", ngài đã giảng như sau
"Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không có Phật,
ngoài Phật không có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều
không nương cậy". Chúng ta thường chỉ thấy cái tâm duyên theo bóng
dáng sáu trần, theo kinh điển gọi là "vọng tâm", chỉ khi nào chúng ta hiểu
rõ cái vọng tâm đó thì mới thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Mã Tổ dạy
rằng "Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ
tu". Chúng ta cần hiểu rằng mỗi người đều có sẵn Chân Tâm, chứ không
phải vì tu tập đắc đạo rồi mới có. Mã Tổ muốn chỉ cho chúng ta thấy Tâm đó
tức là Phật, nếu đi tìm Phật ở ngoài Tâm đó là làm một điều vô ích mà các
thiền sư nói là "mang Phật đi tìm Phật". Mã Tổ còn dậy "Tâm bình thường
là Ðạo. Sao gọi là tâm bình thường ? - Không tạo tác, không phải trái,
không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh".
Những bài kệ ghi trên của ông Bàng Uẩn cho thấy ông đã tu hành y theo
đường lối của Mã Tổ và xứng đáng làm đệ tử đã ngộ của Mã Tổ vậy. Câu kết
của bài kệ là "Tâm không, thi đậu về". Sau khi đạt Tâm Không, ông đã thi
đậu ở trường tuyển Phật và trở về. Phải chăng tâm không là tâm trống rỗng,
chẳng có gì hết, trơ như gỗ, đá. Như vậy phải chăng là trái ngược với lời
dậy của Mã Tổ "Tâm bình thường là Ðạo", thì làm sao mà thi đậu ? Nhưng cần
hiểu là Tâm Không có nghĩa tâm không còn những vọng tưởng, tới đó mới đúng
nghĩa bình thường. Biết được "tâm không" cũng còn có nghĩa là thấy cái bản
thể của vọng tâm vốn nó là không, cho nên tổ Huệ Khả đã nói với tổ Ðạt Ma
"Con tìm tâm không được".
Qua câu chuyện kể trên chúng ta thấy quả ông Bàng Uẩn đã chứng ngộ trọn
vẹn. ông đã đi tham vấn rất nhiều thiền sư, những cuộc đối thoại với gần
hai mươi vị, cùng rất nhiều bài thơ, đều có được dịch ra Anh văn trong
cuốn "A Man of Zen", mà rất tiếc chưa được dịch từ Hán văn ra Việt văn.
Tấm gương sáng của cư sĩ Bàng Uẩn nhắc nhở chúng ta là dù ở trường hợp tại
gia, vì không hoặc chưa có phương tiện để xuất gia, chúng ta không nên
nghĩ là sống với gia đình, phải làm ăn sinh sống thì đâu có thể tu hành gì
được, thỉnh thoảng đến chùa cúng lễ, ráng tu một chút lấy phước đức là đủ
rồi. Chúng ta cho rằng việc tu hành là việc của các tăng, mình đâu có phần
mà tính tới. Những kinh điển Ðại Thừa đã chỉ rõ là ý kiến đó không đúng.
Riêng về Thiền Tông thì lại còn đánh đổ quan niệm đó một cách mạnh hơn
nữa. Trong cuốn "Sáu cửa vào động Thiếu Thất" tổ Bồ Ðề Ðạt Ma nói thẳng :"
Nếu thấy tâm mình là Phật thì không cần cắt tóc cạo râu (xuất gia),
hàng áo trắng (cư sĩ) vẫn là Phật. Nếu không thấy tánh, cắt tóc cạo râu,
vẫn là ngoại đạo". Nếu có đủ điều kiện thì việc xuất gia vẫn là hơn,
nhưng còn tại gia thì không phải là không thể tu hành được.
Tài
liệu trích dẫn :
- A Man of Zen, the recorded sayings of layman P'ang, do Ruth Fuller
Sasaki, Yoshitaka Iriya và Dana R. Fraser dịch từ Hán văn.
- Kinh Duy Ma Cật.
- Kinh Thắng Man, Nhất thừa đại phương tiện.
- Kinh Pháp Bảo Ðàn.
- Trung Hoa chư Thiền đức hành trõng, tập 1 của TS Thích Thanh Từ.
- Sáu cửa vào động Thiếu Thất của tổ Bồ đề Ðạt ma, do Trúc Thiên dịch.
- Ðại Huệ ngữ lửc do TS Thích duy Lực dịch.
Xin đính kèm phụ bản gồm vài bài thơ của ông Bàng Uẩn, bằng tiếng Anh,
trích từ cuốn A Man of Zen để quý vị có thêm tài liệu. Rất mong vị nào có
khả năng sẽ dịch thẳng những bài thơ của ông Bàng Uẩn từ Hán văn, thay vì
dịch lại bản Anh văn có thể sẽ không diễn tả hết ý được.
by Ruth Fuller Sasaki, Yoshitaka Iriya and Dana R. Fraser.
SELECTED VERSES
Of a hut in the fields the elder,
I'm the poorest man on earth!
Inside the house there's not one thing;
When I open my mouth it says "empty, empty."
In the past I had bad friends-
I saved them all, made them priests;
Sitting together in harmony,
I always have them hear of the Mahayana.
At mealtimes carrying bowls for them,
I serve them one and all.
2
People have a one-scroll sutra
Without form and without name.
No man is able to unroll and read it,
And none of us can hear it.
When you are able to unroll and read it,
You enter the principle and accord with the Birththless.
Not to speak of becoming a bodhisattva,
You don't even need to become Buddha.
3
I've long dwelled in the mountains,
Having left the castle town.
My thatch house had three rooms-
Each room was twelve feet long.
In one room lived Skandhas Five,
In another lived Dusts Six-Four [Elements];
I myself lived in the innermost room,
At ease all day with nothing to do.
Last night on the moonless twenty-fifth,
At dusk those two got drunk drinking liquor
And started to get out of hand.
They quibbled words in various ways
Till I couldn't take any more-
So I set my house on fire.
Skandhas Five turned to ashes and embers;
Of Dusts Six, not two or one was left.
Everything I had was completely lost-
Only the bare ground remained.
Now I am stark naked,
Without clothes to cover my body.
I'm no longer troubled by thieves-
Loafing, I sleep at ease....
4
White-robed, I don't adhere to appearances;
The true principle arises from Emptiness.
Because my mind's without obstruction
Wisdom goes forth to all directions.
I only consider the lion's roar-
I don't let wild jackals yap!
Bodhi is said to be most marvelous,
But I scold it for being a false name.
5
Some people despise old P'ang,
But old P'ang does not despise them.
Opening my gate, I await good friends,
But good friends do not stop by.
As is my mind's endowed with the threefold learning_
Consciousness-dusts do not mix with it;
This one pill cures the ten thousand ills-
I've no need for the many prescriptions.
6
Traveling the path is easy,
Traveling the path is easy!
Within, without, and in between I depend upon innate Wisdom:
Innate Wisdom being non-sentient, the dharmas are not born;
Birthless, I enter the true Principle.
Not form, not mind, a single radiance streams forth;
In the mind-ground appears the Udumbara tree
7
It is called Wisdom,
And Wisdom is the honored.
Mind and Wisdom interfusing, you penetrate the Origin,
And the ten thousand things likewise return into the Gate of Non-duality.
Existence is not existence- the Principle is always present;
Nothingness is not nothingness- Nothingness is the root of existence.
All Buddhas of the future also will be thus;
Those of today are the same as the ancient World-honored One:
Throughout the three realms
What Buddha imparted to Buddha is being transmitted today.
8
Without no other, within no self.
Not wielding spear and shield, I accord with Buddha-wisdom.
Well-versed in the Buddha-way, I go the non-Way.
Without abandoning my ordinary man's affairs,
The conditioned
Nameless and formless, I leave birth-and-death.
9
I have a great robe
Not of this world's silk.
It can't be dyed by any color,
Being crystalline, like white floss.
No scissors were used to cut it,
No thread was used to stitch it.
I keep it always close about me,
But there's no man who of himself has seen it.
It shelters a Trichilial Cosmos
Covering over sentient and non-sentient alike.
Should you be able to obtain this great robe,
Having donned it, you straightaway enter the palace of the King of Emptiness.
10
Thinking, thinking, with bowed head thinking, thinking and unconsciously sighing,
Both his eyebrows turn toward that Surpassing Land;
He sits among the ten thousand things,
Knowing nothing at all.
If his six consciousnesses resemble his eyebrows,
He will attain the miraculous.
If his six consciousnesses despise his eyebrows,
He can be said to be a brainless fool.
If he discards his eyebrows,
He'll be scorned by men of the world.
Even though he be a crafty six-consciousness fellow,
In the end he'll become just a beggar.
Notes:
1. The selections (25) that follow are representative of the style,
content, and variety of P'ang best.
2. The five skandhas and six senses are personified in these two
lines. The six senses are sight, hearing, smell, taste, touch, and
perception. The "four" inserted after Dusts Six may simply have been
added to fill out the number of characters in the line, or it may
refer to the four elements, which are earth, water, fire and air.
3. The 25th day of the lunar calendar.
4. I have omitted the two lines that follow and conclude this verse.
Their meaning is not clear, and the verse seems better without them.
5. Threefold learning: observing precepts (morality), meditation, and
wisdom.
6. Consciousness-lusts: the cognitions of the six senses.
7. Udumbara tree: a legendary tree said to flower once every three
thousand years.
8. The three realms of desire, form, and formlessness.
9. A reference to Chapter 8 of the Vimalakirti Sutra, where
Vimalakirti says to Manjusri: ''When a bodhisattva goes the non-Way
this is called being well-versed in the Buddha-way."
10. Skt. samskrta: that which is formed through causes and always
produces effects; also, whatever is produced, continues, changes, and
is destroyed.
11. A thousand to the third power, i.e., a billion worlds, which are
said to constitute the domain of a Buddha.
12. The word "eyebrows" from here on apparently means one's original
nature.
Nguồn: www.quangduc.com