PHẬT GIÁO VÀ A-DỤC
VƯƠNG
K. R. Norman - Nguyên Tâm dịch
QUAN ĐIỂM CHUNG
ĐƯƠNG THỜI VỀ A-DỤC VƯƠNG
Trước đây không lâu tôi có đọc
một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú
ý đến nhận định sau đây:
"Khái niệm thành lập nên sàsana
hay Phật giáo ở một quốc gia riêng biệt hoặc ở một nơi nào đó,
lần đầu tiên do chính A-Dục Vương thai nghén nên. Ông ta là vị vua
đầu tiên chấp nhận Phật giáo như là một quốc giáo, và khởi
đầu cho một cuộc chinh phục tâm linh vĩ đại gọi là dharma-vijaya
Như một nhà chinh phục và cai trị mà thường thiết lập chính quyền
ở những quốc gia bị chinh phục do chính mình bằng chính trị, cũng vậy
A-Dục Vương có lẽ đã nghĩ đến việc thành lập nên cái gọi là
sàsana ở những quốc gia bị ông ta chinh phục".
Trong một vài tác phẩm khác tôi
cũng bắt gặp cùng một lập luận như vậy: "A-Dục Vương là vị
vua Phật giáo đầu tiên", "A-Dục Vương được gắn liền với
Phật giáo đại chúng, và với việc tiến hành rất nhiệt tâm
những hoạt động tôn giáo như hành hương và chiêm bái các
Xá-lợi qua vấn đề ông ta quan tâm đến việc xây dựng ngôi bảo
tháp và điện thờ", rồi thì "A-Dục Vương là nhân vật
chính trị và tâm linh vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ xưa".
Những lời bình luận như vậy là
theo kiểu mà như A-Dục Vương đã được miêu tả trong các tác phẩm
viết về Nguyên thủy Phật giáo. Tôi đã cũng bỏ ra một quãng
thời gian rất dài của đời mình để nghiên cứu về các bia ký
của A-Dục Vương, song từ các bia ký ấy không khi nào tôi có thể
tìm thấy được chân dung một con người hoàn toàn trùng khớp với
những gì mà chúng ta đã viết về ông ta cả. Chính vì lẽ đó, hôm
nay tôi muốn khảo chứng lại vai trò mà A-Dục Vương đã đóng trong
lịch sử Phật giáo, và tôi cũng xin chia xẻ những gì chúng tôi
biết về ông ta qua các văn bản Phật giáo với nguồn thông tin mà
chúng tôi có thể lấy được từ các bia ký của ông.
DỊCH PHẨM BIÊN NIÊN SỬ PÀLI
Chắc hẳn là mọi người ai ai cũng
biết về A-Dục Vương thông qua nguồn thông tin về vị vua nầy trong
Biên Niên Sử tiếng Pàli, là đặc biệt là trong bộ Mahàvamsa, mặc
dầu rất nhiều cùng câu chuyện được kể với chi tiết rõ ràng
hơn trong các nguồn tư liệu bằng tiếng Sanskrit và Trung Quốc.
Trong bộ Mahàvamsa có ghi rằng sau khi
phụ thân ông, Bindusàra, băng hà thì A-Dục Vương đã giết 99 trong
số 100 người anh em của mình, chỉ còn để sót lại một mình Tissa mà
thôi và ông nghiễm nhiên trở thành người trị vì độc tôn cõi
Diêm-phù-đề (Jambudvìpa). Thế rồi sau khi nghe vị Sa-di Ni-câu-thuật
(Nigrodha) thuyết giảng, ông thắm nhuần Tam quy và Ngũ giới
và
trở thành một vị Ưu-bà-tắc (Upàsaka). Chúng ta cũng được biết
rằng A-Dục Vương là người hộ trì vững chắc cho Phật giáo, ngăn
chặn không cho bất kỳ tôn giáo nào bành trướng cả. Ông đã
ngưng không bố thí thức ăn hằng ngày cho 60.000 vị Bà-la-môn mà
trước đây cha ông đã từng bố thí, và thay vào đó cúng dường
thực phẩm cho 60.000 vị Tỳ-kheo. Ông còn ra lệnh cho xây dựng 84.000
ngôi tịnh xá (vihàra) ở 84.000 thị trấn, trong số đó ngôi tịnh xá
nổi tiếng nhất là ngôi tịnh xá do chính bản thân ông lập nên ở
Pàtaliputra tịnh xá Asokàràma; và ông còn dựng các ngôi bảo
tháp (stùpa) ở những nơi mà Đức Phật đã đến viếng thăm. Tư
tưởng muốn trở thành người kế Pháp đã thuyết phục được
ông cho phép người con trai Mahinda và cô con gái Sanghamittà gia nhập
tăng đoàn vào năm thứ 6 khi ông tại vị, và chính sau nầy Mahinda
đã được phái sang Srilanka (Tích Lan) với tư cách là một nhà
truyền giáo. Vào thời điểm phân chia bộ phái Phật giáo trong Tăng
đoàn thì chính đích thân ông lắng nghe các vị Tỳ-kheo tỏ bày
những quan điểm của họ và có thể quyết định ai là thuộc phái
chính thống và ai là ngoại đạo. Sau khi cuộc phân phái đã được
giải quyết ổn thỏa, cuộc kết tập (sangìti) lần thứ III được tổ
chức dưới sự bảo trợ của ông.
Bộ Mahàvamsa cho hay rằng vì những
việc làm ác của ông nên mới đầu người ta gọi ông là
Candàsoka (A-Dục Vương hung bạo), nhưng sao nầy nhờ những việc làm
lương thiện của ông mà ông được gọi là Dhammàsoka (A-Dục Vương
mộ đạo). Dĩ nhiên, sự thay đổi tên gọi cũng muốn nhấn mạnh
đến sự khác nhau giữa một A-Dục Vương không biết gì về Phật
giáo và A-Dục Vương với tư cách là một Phật tử vậy.
VỀ CHÍNH BẢN THÂN A-DỤC VƯƠNG
Chúng ta có thêm một số thông tin
về A-Dục Vương khi đọc các trụ đá của ông ta.
Tỷ dụ như, câu chuyện ông quay về
với Phật giáo được ghi lại trong Biên Niên Sử hình như có chút
gì đó hơi khác với thông điệp ông ghi trên trụ đá. Lịch sử
đầu tiên A-Dục Vương để tâm đến Phật giáo được kể lại trong
bức Đạo dụ khắc trên đá (Minor Rock Edict) đầu tiên. Nhưng trái
lại, tôi như vừa mới nhấn mạnh ở trên, theo nguồn tư liệu Pàli,
thì A-Dục Vương đã hồi tâm về với Phật giáo, đã cho xây dựng
84.000 tịnh xá, rồi thì cho phép người con trai và người con gái mình
gia nhập vào Tăng đoàn trong suốt 6 năm tại vị của ông; tuy nhiên,
chúng ta có thể cân nhắc từ những lời lẽ của A-Dục Vương rằng
ông hồi tâm về với Phật giáo chỉ sự thật xảy ra đúng ngay sau
cuộc chiến tranh ở Kalinga. Hơn nữa trong bức Đạo dụ thứ 13, ông
còn nhấn mạnh rằng việc ấy chỉ xảy ra khi ông được tôn phong 8
năm. Việc ông hồi tâm có thể cho là đúng vì ông hối hận, cũng
không phải vì ông giết anh chị em mình; việc này hình như bị phản
bác lời xác chứng mà ông đã viết cho anh chị em mình trong Đạo
dụ thứ 5. Thật ra lý do ông hồi tâm là vì việc ông đã đưa đi
đày ải 150.000 người, việc ông giết 100.000 người và cái chết
của rất nhiều người ở thành Kalinga. Bộ Biên Niên Sử quả là
không biết tí gì về vụ tàn sát đẫm máu này. Vào thời điểm
mà ông ban hành Đạo dụ thì ông đã là một cư sĩ Phật tử trong
hơn hai năm rưỡi rồi, bao gồm cả một năm khi ông chưa thực sự
thuận thành cho lắm - Điều này có nghĩa rằng sau khi ông đã hồi
tâm về với Phật giáo thì ông vẫn chưa phải là một Phật tử
nhiệt tâm - và rồi hơn một năm sau khi ông đã thuận thành, hộ trì
Tăng đoàn với nhữngh kết quả tốt đẹp. Ông nói rằng: "tôi
đã có tiến bộ tốt". Khi ông ban hành Đạo dụ đầu tiên thì
cũng đúng vào thời điểm ông tại vị năm thứ 11. Ông ban hành
Đạo vị thứ 3 vào năm thứ 12, vậy thì Đạo dụ đầu tiên và
thứ 2, mặc dù không ghi niên đại, ắt là được ban hành trong
cùng một năm này hay là vào năm thứ 11 vậy.
Tuy nhiên, như câu chuyện có liên
quan trong Đạo dụ đầu tiên thì chẳng có bằng chứng trực tiếp
nào chứng tỏ đó là Giáo đoàn Phật giáo mà ông tham gia. Mặc
dù trong một đoạn văn của Đạo dụ (Đạo dụ ở Maski) mà ông
diễn tả như là một Budhasake. Hultzsch đã dịch từ này là "(Tôi
là) Buddha-Sakya" (Phật Thích Ca). Dường như có lẽ sự ghép chữ
Budh được thực hiện bởi một người viết ở địa phương để
"chỉnh lại" từ upàsake (Ưu-bà-tắc) mà A-Dục Vương đã
thảo ra. Điều đáng chú ý là từ Budhasake hay tiếng tương của nó
không hề xuất hiện trong bất cứ đoạn văn khác của Đạo dụ đầu
tiên. Tất cả của những đoạn văn khác đều có chữ upàsaka.
Chắc hẳn là người khắc Đạo dụ
biết được rằng chẳng có một dấu hiệu nào nhắc đến bộ phái
mà A-Dục Vương tham gia để trở thành một Ưu-bà-tắc, mà ông ta
cũng muốn cho được sự tình rõ ràng đối với các đọc giả sau
này, nên đã ghép chữ "Buddha" vào trước chữ upàsáka,
rồi khắc lên trụ đá.
Tuy nhiên, sự xác chứng về A-Dục
Vương trở thành một Phật tử được công nhận qua việc ông đến
viếng thăm cây Bồ-đề, việc này được diễn tả trong Đạo dụ
thứ 8 ban hành lúc ông được tôn phong 10 năm. Đây chắc hẳn là
một trong những kết quả đầu tiên sau khi ông hồi tâm trở về
với Phật giáo, và điều này có lẽ cũng trùng khớp với cuộc
viếng thăm Tăng-già mà nhờ đó đã cải thiện đời sống tôn
giáo của ông.
Thật vậy, chúng ta có thể đoan chắc
rằng đối với A-Dục Vương, thì Tăng-già có nghĩa là Tăng-già
Phật giáo, bởi vì ngay trong Đạo dụ thứ 11, khi ông tổng kết hết
những thành tựu của mình, ông tuyên bố rằng ông đã thiết lập
những vị "Đại quan" (Mahamatra) có đức độ để trông coi về
vụ việc của Tăng chúng, của các vị Bà-là-môn, các vị Ajìvika
(Tà mạng ngoại đạo), Kỳ-na giáo đồ và các giáo phái khác thì
có ghi rõ tên, nhưng Tăng-giàđây phải là Tăng-già Phật giáo.
Thế thì chẳng còn nghi ngờ gì rằng
A-Dục Vương là một cư sĩ Phật tử, nhưng cũng không có lý do gì
mà tin rằng tâm trí ông lại gắn liền với tôn giáo khác, và
chúng ta có thể thấy trong Đạo dụ thứ 6 là ông tôn kính tất cả
các bộ phái bằng nhiều hình thức khác nhau; và theo ông thì hình
thức hay nhất là đích thân đến viếng thăm họ. Như chúng ta thấy,
pháp hành của ông là đạo đức trái với tâm linh, cho nên nếu
nói cho công bằng thì ông ta cũng có thể là tín đồ Kỳ-na giáo
vậy.
PHÁP HÀNH CỦA A-DỤC VƯƠNG
Các Đạo dụ cung cấp khá nhiều
thông tin về cách mà A-Dục Vương truyền bá Pháp (dhamma) của mình.
Đó là dhammathambhas "những cột trụ pháp", dhammalipi "văn
thư pháp", dhammamgala "tế lễ pháp", dhammadàna "bố thí
pháp", dhammanuggaha "nhiếp thọ pháp", dhammayàtras
"những cuộc lữ hành pháp", dhammasavana "nghe pháp",
dhammamahàmàtras "những vị đại thần pháp", dhammavijaya
"chinh phục pháp".
Vấn đề là phải biết xem thử pháp
của A-Dục Vương có giống với pháp của Đức Phật hay không. Ông
ta thể hiện rõ sự khác nhau giữa sự thực hành và thành lập
thông thường, và lối giải thích về pháp của chúng. Một cột trụ
là một thamdha. Nó trở thành một cột trụ pháp nếu pháp của
A-Dục Vương được khắc lên đó. Cũng đã có những vị đại quan
trước thời A-Dục Vương, nhưng chính ông là người đầu tiên
thành lập nên những vị đại quan pháp để truyền bá pháp của
mình. Trước thời ông, các vị vua cũng đã từng thực hành những
chuyến lữ hành. Riêng ông thì thành lập các cuộc lữ hành để
ông có thể thực hành pháp của mình trong suốt những chuyến lữ
hành ấy. Người ta đã từng tiến hành tất cả những loại tế lễ
trong trường hợp bị đau ốm, tại những cuộc đám cưới, để cầu
xin con, hay cầu xin an toàn trước khi lên đường v.v
Tuy nhiên,
tế lễ pháp lại là phương thuốc trị bệnh thích hợp cho những
người dân nô lệ và đầy tớ, kính trọng các bậc tôn sư, là
sự tự chế ngự đối với các xin vật sống, sự rộng lượng
đối với những vị Sa-môn và Bà-la-môn v.v
Pháp của A-Dục Vương còn được
giải thích rõ ràng trong nhiều bia ký, tỷ dụ như dưới một hình
thức vắn tắt trong bản Đạo dụ thứ hai như sau: "Hãy vâng lời
cha mẹ mình; vâng lời người lớn tuổi; có từ tâm với sinh vật
sống; nói sự thật". Người ta bảo rằng tất cả những điều
này phù hợp với sự tự nhiên của cổ nhân (porana pakati), một
diễn dịch của thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên là "trở về với
nguyên sơ". Ở một nơi khác, trong bản Đạo dụ thứ 3, có xuất
hiện một lối giải thích hơi rộng về vấn đề trên như sau "Vâng
lời cha mẹ là tốt; hào phóng với bạn bè, người thân quen và
bà con họ hàng, với các vị Sa-môn và Bà-la-môn là tốt; có tiết
độ trong tiêu dùng, trong tài sản là tốt".
Một loạt Đạo dụ trên các trụ
đá mà chúng ta thường gọi là Đạo dụ Trụ đá (Pillar Edicts),
nhằm giải thích về pháp A-Dục Vương, với một bản tường thuật
chính bản thân ông đã tuân theo pháp ấy như thế nào; đó là
bằng cách ông đã trồng nhiều cây để tạo bóng râm hai bên
đường đi, rồi đào giếng và tạo những nơi cấp nước cho người
và súc vật. Đạo dụ một nói về sự cai trị bằng pháp; Đạo dụ 2
nhấn mạnh rằng pháp gồm có ít tạo tội, làm nhiều điều thiện,
thể hiện lòng từ bi, bố thí nói thật và trong sạch tâm linh. A-Dục
Vương đã làm nhiều việc thiện bằng cách không sát sanh. Đạo dụ 3
nói về thiện và ác và minh chứng rằng ác là hung bạo, tàn nhẫn,
phẫn no, kiêu căng và thèm khát. Đạo dụ 4 nhấn mạnh đến nhu cầu
và bình đẳng công lý và việc cải tạo các tù nhân. Đạo dụ 5
thì ngăn cấm việc giết hại một số sinh vật mà có nêu rõ tên.
Đạo dụ 6 nhấn mạnh rằng mục đích chính là đem lại hạnh phúc cho
tất cả. Mọi giáo phái đều được tôn kính, đặc biệt là những
giáo phái đích thân ông đến viếng thăm. Đạo dụ 7 như là một
bản tổn kết những việc mà A-Dục Vương đã làm. Ông giải thích
lý do vì sao các vị vua ngày xưa đã tìm cách tăng cường pháp.
Riêng A-Dục Vương quyết định thực hiện pháp ấy bằng cách thuyết
giảng và dạy dỗ, rồi ông thành lập nên các cột trụ pháp
(dhammathambaha) và đại quan pháp (dhammamahàmàtras) để đưa quyết định
của ông thành thực tiễn. Các vị đại quan pháp gắn liền với tất
cả giáp phái. Pháp một lần nữa được định nghĩa như là: vâng
lời cha mẹ, vâng lời sư trưởng, kính trọng người già, cư xử
thích hợp với các vị Sa-môn và Bà-la-môn, với người nghèo, nô
lệ và đầy tớ. Pháp ấy càng ngày càng gia tăng là nhờ vào
hiến pháp của A-Dục Vương, tỷ dụ như nói về việc không giết hại
thứ vật, đó cũng là vì thái độ tâm linh
vì lương tâm cá
nhân (nijhati).
Ở một nơi khác như trong Đạo dụ
khắc trên đá lớn cho ta biết rằng người ta phải vâng lời và
tuân theo pháp ấy. Món quà mà pháp ấy đem lại được xem như là
phương thuốc chữa bệnh thích hợp cho những người nô lệ, vâng
lời cha mẹ, v.v
, rộng lượng với các vị Sa-môn và Bà-la-môn,
bất sát sanh. Chính pháp ấy đem lại công đức vô lượng.
A-Dục Vương gọi các Đạo dụ của
ông là những văn thư pháp (dhammalipi) và chúng ta có thể đọc rồi
thấy rõ ràng trong mỗi văn thư ấy chứa đựng pháp gì. Pháp đó
dành riêng cho vấn đề đạo đức, đó cũng là lý do vì sao chúng
ta thường dịch từ dhammalipi là "huấn dụ về đạo đức".
A-Dục Vương đã cho phổ biến pháp của mình thật rộng rãi, rồi
thiết lập nên những vị đại quan pháp để giám thị pháp ấy, cho
dựng những cột trụ pháp để khắc pháp ấy lên, và phái các vị
sứ giả (duta) để đem pháp ấy đi tuyên truyền khắp Ấn Độ và
thậm chí đến tận miền Tây Hy Lạp. Trong một chừng mực nào đó
thì có thể nói rằng những tư tưởng đạo đức này hoàn toàn
phù hợp với những lời dạy về đạo đức của Phật giáo, ngoài
ra chẳng có cái gì thuần túy Phật giáo trong tư tưởng ấy cả.
Đối với sự nhấn mạnh về bất sát sanh (ahimsà) thì tư tưởng
ông giống hệt Kỳ-na giáo. Quả thật vậy, người ta đã lập nên
một bản so sánh tương đương về danh sách tên các sinh vật không
được giết hại ghi trên Đạo dụ thứ 5 và danh sách các sinh vật
trong Thánh thư Kỳ-na giáo.
Chúng ta thấy rằng, trong Đạo dụ ở
Bairàt, dưới tên riêng của mình là Priyadasi, A-Dục Vương chào
mừng Tăng-già và cầu chúc Tăng-già hưng long. Ông ta nói rằng
đức tin của ông vào Phật, Pháp và Tăng thật vĩ đại biết bao.
Rõ ràng là trong bản văn này, từ Dhamma (Pháp) có nghĩa thường
dùng như là một trong ba yếu tố của Tam Bảo (Triratna), nhưng thật ra
pháp mà A-Dục Vương ám chỉ đến không giống pháp của Đức Phật.
Vì lẽ đó, đoạn trích dẫn mà tôi có đưa ra ở phần đầu bài
diễn thuyết này về việc thiết lập nên cái gọi là sànana ở
những quốc gia mà ông ta đã chinh phục bằng tâm linh, hình như dựa
trên sự hiểu lầm về bản chất pháp của A-Dục Vương.
SỰ CHINH PHỤC VÀ CÁC SỨ
GIẢ CỦA A DỤC VƯƠNG
Cũng một đoạn trích dẫn ấy hình
như là sai lầm khi đề cập đến các quốc gia đã bị A-Dục Vương
chinh phục bằng tâm linh, nếu như pháp của ông ta là pháp chinh phục
(dhammavijaya). Theo như tôi biết thì A-Dục Vương đã bành trướng đế
quốc mình bằng sức mạnh, nhưng sau đó lại nghĩ ra được nguyên
tắc chiến thắng bằng đạo đức, và rồi truyền thừa nguyên tắc
ấy cho hậu duệ của ông ta.
Theo tôi thì nguyên tắc chủ đạo
của A-Dục Vương là bất sát sanh (ahimsa), hay nói cho đúng ra thì đó
là kết quả sự hối hận của ông sau cuộc tàn sát đẫm máu ở
Kalinga. Đạo dụ đầu tiên của ông ban ra hầu hết toàn bộ liên quan
đến việc nghiêm cấm sát sanh trong đời thường, gồm cả việc giết
súc vật để tế lễ và ăn thịt.
Trong Đao dụ thứ 13 ông kể đến
câu chuyện sau chiến thắng ở Kalinga thì chết chóc và khổ đau xảy
ra như thế nào, chính điều đó đã cắn rứt lương tâm ông và
ông thiết tha mong mỏi có đạo đức (dhamma-pháp). Song điều làm
A-Dục Vương đau lòng là chính những người tuân thủ theo pháp của
ông ta, trong đó bao gồm cả các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thì chính họ
lại chịu khổ đau. Lúc bấy giờ, điều ông muốn là một cuộc chinh
phục bằng pháp, bao gồm cả sự an ninh cho mọi loài, sự tự chế
ngự, tính trầm tĩnh và hòa nhã. Các sứ giả được phái đi khắp
nơi để thuyết giảng pháp này, gồm cả những vương quốc miền Tây
Hy Lạp. Cuộc chinh phục bằng đạo đức (dhamma) của ông được công
bố với hy vọng rằng hậu duệ của ông sẽ không nghĩ rằng đó là
chiến thắng bằng quân sự, bằng vũ trang mà thường dẫn đến thảm
sát giống như ở Kalinga. Chiến thắng như vậy sẽ mang tính nhẫn nại
(khantil) và trừng phạt nhẹ (lahudandatà)? A-Dục Vương cầu mong sao cho
những người dân trụ ngụ trong rừng núi (giống như ông ta) có
thể ăn năn (những việc làm sát sanh xưa kia?) và chấm dứt sát
hại (trong tương lai).
Và theo tôi thì chắc chắn những vị
sứ giả được phái đến các Vương quốc Hy Lạp kia không phải là
được giao cho sứ mạng truyền bá Phật giáo. Dường như họ được
phái đến để nhằm tận lực thuyết phục các nhà cai trị ở các
nước lân bang rằng họ cũng nên từ bỏ đi tham vọng chinh phục
bằng chiến tranh, mà nên thiết lập một vương quyền hòa bình và an
định, trên cơ sở nguyên tắc pháp của A-Dục Vương. Theo tôi việc
A-Dục Vương cho tăng cường các phái đoàn sứ giả đến Hy Lạp,
quả là một sai lầm vậy. Cố nhiên chúng ta cũng chẳng có bằng
chứng nào về phía Hy Lạp cho biết rằng có bao nhiêu phái đoàn sứ
thần đã đến nước này vào khoảng năm 250 trước Công Nguyên.
PHẬT GIÁO CỦA A DỤC VƯƠNG
Thật quá rõ ràng từ những điều
tôi vừa mới nói về pháp của A-Dục Vương mà những ai cho rằng
ông ta đã làm cho Phật giáo trở thành quốc giáo, thì quả thật
quá rộng về nhận định. Trong các Đạo dụ của mình, A-Dục Vương
đề cập rất ít hay thậm chí là chẳng nói gì về Phật giáo cả.
Ông chẳng hề đề cập đến giáo lý căn bản của Phật giáo như
là Luân hồi (samsàra), giải thoát (mokkha), Niết-bàn (nibbàna), Vô
ngã (anatta), Bát Chánh Đạo, hay Tứ Diệu Đế. Một trong những Đạo
dụ riêng khác có nhấn mạnh rằng mục tiêu mà ông nhắm đến là
vì hạnh phúc của tất cả; và nhiều bia ký khác cũng có ghi lời
tuyên bố rằng mục đích chính của ông là muốn cho dân chúng ông
được sống trong hạnh phúc trên cõi thế, trên trời và ở các
thế giới khác nữa. Ông ta khoe khoang rằng ông đã hòa lẫn con
người với chư thiên. Tôi đưa ra điều này là để muốn nói rằng
ông đã thành công trong việc đưa con người lên Thiên giới, mà
nơi đó dĩ nhiên rồi một lúc nào đó họ cũng được tái sanh
làm chư thiên. Theo tôi thì điều này lại hoàn toàn khác với giáo
lý tái sanh luân hồi vô tận của Phật giáo.
Sự thất bại chung của ông là lý
giải Phật giáo khác đi rất nhiều. Chắc có lẽ vì vô minh hay chăng,
mặc dù ông đã nghiễm nhiên là một vị cư sĩ Phật giáo, song ông
chẳng có một chút hiểu biết gì về giáo lý Phật giáo cả. Có lẽ
ông cũng hiểu biết về Phật giáo, nhưng ông lại nghĩ rằng Phật
giáo thường biệt đãi một giáo phái nào đó quá mức, và như
thế nó sẽ phá hủy tính không thiên vị mà ông nhắm đến để bày
tỏ một nơi nào đó. Cũng có thể là ông cho rằng Phật giáo không
thích hợp cho việc ông ban hành Đạo dụ, hay nói trắng ra, là không
phù hợp cho việc ông muốn lưu bố cái gọi là pháp hành cá nhân
của ông, mà pháp này mục đích đem lại hòa bình cho đế quốc ông
và có thể làm cho thần dân ông được sống trong tinh thần hài
hòa bình đẳng với nhau.
Một trong những giải thích hơi kỳ
lạ mà tôi đã có đề cập qua là quan điểm cho rằng những gì
A-Dục Vương truyền đạt trong các Đạo dụ của mình chính là giai
đoạn mà trong đó Phật giáo chính là thời kỳ của ông ta. Hultzsch
cho rằng: "Pháp của A-Dục Vương được đồng ý khắp nơi dưới
hình thức đạo đức Phật giáo mà đạo đức ấy là bảo tồn
trong
Kinh Pháp Cú. Ở đây, chúng ta thấy rằng Phật giáo đang
còn tuổi ấu thơ vậy
". Ông ta còn nói thêm rằng: "Trong
một quan điểm trọng chính mà các bia ký của A-Dục Vương khác với
Kinh Pháp Cú là không phản ánh giai đoạn khởi nguyên hình thành
nên thần học và siêu hình học Phật giáo như đã diễn đạt trong
kinh này. Ông chẳng biết tý gì về giáo lý Niết-bàn, thế mà giả
định trước đức tin Ấn Độ giáo cho rằng phần thưởng của việc
tu tập theo pháp của ông là sẽ được hạnh phúc trong đời này
và phước báo cho đời sau ". Ông Hultzsch đã nêu lên một vấn
đề rất lý thú về bản chất của siêu hình học Phật giáo. Có
thể rằng giáo lý Niết-bàn là thuộc vào giai đoạn phát triển sau
này của Phật giáo chăng? Tôi chẳng tin vấn đề lại như vậy, và
vì lẽ đó tôi nghĩ rằng lý do mà ông Hultzsch đưa ra sự thất bại
của A-Dục Vương khi đề cập đến Niết-bàn là không đúng.
Ở một khía cạnh khác, vấn đề có
vẻ giống hệt với những gì đã được tìm thấy ở Srilanka và
được Richard Gombrich miêu tả nên. Richard tường thuật rằng:
"Nhưng hầu hết người dân Tích Lan không muốn Niết-bàn
họ
chỉ bảo rằng họ chỉ muốn sanh lên Thiên giới mà thôi". Vâng
ít nhất là mấy người này cũng hiểu rõ về Niết-bành. Còn A-Dục
Vương thì chưa từng bao giờ nghe đến điều ấy cả. Mặc dù lời
tuyên bố của những người dân làng kia nghe có vẻ lạ thật, nhưng
thật ra nó lại hoàn toàn trùng khớp với lời tuyên bố mà chúng
ta có thể tìm thấy ở cuối Kinh Xà Dụ (Alagaddùpamasutta) của Kinh
Trung Bộ (Majjhima-nikàya), ở đó đức Phậ tuyên bố rằng những vị
Tỳ-kheo nào tu tập đúng pháp với pháp có tín tâm, thì sẽ được
chánh giác (sambdhi); còn những ai chỉ có tín tâm vào Phật và kính
quý Ngài thì người ấy sẽ được sanh lên Thiên giới. Như vậy
những người dân làng này biết rất rõ về Niết-bàn, nhưng họ
thích sanh lên Thiên giới hơn vì họ kính quýĐức Thế Tôn. Còn
A-Dục Vương thì chẳng thể hiện sự kính quý nào đối với Đức
Thế Tôn cả. Đối với ông ta, sanh lên Thiên giới làn nhờ làm
những điều như đã quy định trong pháp của ông. Như ông đã từng
đặt câu hỏi trong Đạo dụ thứ 9 rằng: "Còn có điều gì hơn
là được sanh lên Thiên giới chăng?"
VỀ ĐẠO DỤ Ở BAIRÀT
Sự thể hiện mạnh nhất về mối
liên hệ của ông với Phật giáo là ở trong Đạo dụ ở Bairàt
mà tôi đã đưa ra trước đây, và chúng ta cũng nên lưu ý rằng
điểm duy nhất mà ông có đề cập đến giáo lý Phật giáo là ở
trong Đạo dụ viết cho Tăng-già này. Trong Đạo dụ này ông nói
rằng tất cả những gì do Đức Phật thuyết giảng đều là đúng,
và ông có giới thiệu 6 tên bản kinh cho Tăng-già. Ông cho giáo lý
của Đức Phật là diệu pháp (saddhamma), mà có lẽ đó cũng là
một việc làm cố ý muốn phân biệt pháp của Đức Phật với pháp
của ông. Chúng ta cũng hy vọng rằng A-Dục Vương có thuyết giáo cho
những người hồi tâm cải giáo. Có một vấn đề mà chúng ta vẫn
chưa thể biết chắc chắn về tính đồng nhất của một số văn bản,
song vì đôi khi chúng ta cũng thấy được rằng các luận sớ, tỷ
dụ như về bộ Kinh Tập (Sutta-nipàta), thì có nhiều văn bản dưới
nhiều tên khác nhau. Nên có lẽ chúng ta cũng không lấy làm ngạc
nhiên gì khi chúng ta không tài nào nhận biết được tất cả những
bản mà A-Dục Vương đã chọn. Câu hỏi đặt ra là liệu A-Dục Vương
có khả năng kể rõ đích danh những bản ấy hay không? Câu hỏi này
ám chỉ muốn nói rằng có một số Thánh điển đã thật sự hiện
hữu trong thời ông ta, song Thánh điển ấy thật quá phức tạp đến
nỗi ngày nay chúng ta chẳng tài nào giải quyết nổi.
- o0o -
| Mục lục Thích Nguyên Tạng | Mục lục Tác giả |
Vi tính : Thục Đức
Cập nhật ngày:01-07-2001
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục