1. CẦN CÓ QUAN
ĐIỂM RÕ RÀNG, NHẤT QUÁN TRONG NHẬN THỨC, GIẢNG DẠY GIÁO LÝ
Phải nói dứt khoát rằng,
việc giảng dạy giáo lý Phật giáo vô cùng quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến
cả một lối sống, đời sống của người nghe.
Sở dĩ nói như thế là vì
tình hình giảng dạy giáo lý ở các nơi cần phải thẩm định và cứu xét kỹ
lưỡng, thấu đáo. Vấn đề này rất đáng quan tâm, vì đây không phải là hiện
tượng cá biệt ở một địa vực nào, hay một góc độ nào, mà đang phổ biến
đến mức nghiêm trọng, báo động. Dĩ nhiên, chúng ta không thể đòi hỏi quá
nhiều ở người giảng dạy về tính phổ quát, đồng bộ và tuyệt đối. Tuy
nhiên, không thể vịn vào lý do đó mà sự thể cần giải quyết vẫn không
được quan tâm và không được thực hiện.
Người giảng dạy giáo lý
Phật giáo mặc dù có quyền áp dụng bất kỳ thể thức giảng dạy nào miễn sao
đem lại nguồn hưng phấn, cũng như lợi ích thiết thực sau các buổi giảng
dạy. Tuy nhiên, muốn thực hiện điều này, đòi hỏi thành phần ban giảng
huấn phải hết sức linh động và sáng suốt vận dụng các phương tiện lý
giải. Nhưng có điều, người giảng dạy không thể tùy tiện lý giải giáo lý
theo cảm tính hay theo tư kiến chủ quan, hoặc vận dụng tính hư cấu. Bởi
lẽ, Giáo lý là một dữ kiện chứng thực, vấn đề là hiểu thế nào mới đúng,
đúng với mức độ tối đa và thế nào là hạn chế và hạn chế mặt nào, chớ
không như các nhà sáng tác văn học nghệ thuật. Tính hư cấu trong việc
giảng dạy giáo lý Phật giáo cần sớm khắc phục và loại trừ, nếu không, di
hại về ngộ nhận Phật giáo sẽ không ít.
Ai cũng công nhận rằng,
giáo lý Phật giáo vượt lên trên tầm nhận thức thông thường của các tôn
giáo và triết học, nhưng người ta cũng không thể thừa nhận rằng việc
giảng dạy giáo lý phổ biến, cơ bản cho Phật tử hay cho người xuất gia
vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều lệch lạc. Sự thự? phủ phàng này đã góp phần
đắc lực trong việc gây ra một số ngộ nhận về Phật giáo, và dĩ nhiên cũng
không ít Phật tử bất mãn ngã sang một lý tưởng khác, mặc dù họ vẫn ý
thức được con đường họ theo chưa phải là rốt ráo.
Cần nên nói rằng, giáo lý
Phật giáo có muôn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn nếu hiểu theo nghĩa giản
dị, chúng ta cũng có thể cho nó là một bài học, một phương pháp giảng
dạy về một điều gì đó và xác suất đem lại cho người thực hành là như
nhau, nếu tất cả họ đều thực hành như nhau.
Mỗi pháp môn, nếu hiểu
đúng với mức độ nhận thức thì có rất nhiều thang bậc. Do đó, vị giảng
dạy cần phải nắm rõ từng thang bậc, từng hệ ý nghĩa hàm chứa trong pháp
môn đó, trong bài kinh, trong đoạn kinh…mà mình giảng dạy.
Việc nhận thức không đồng
bộ về giáo lý trong lúc giảng dạy hẳn sẽ nảy sinh không ít sự xung đột,
thậm chí đối kháng về nhận thức. Sự thực đau lòng này không chỉ ở một
vài chùa, một vài tỉnh mà nó đang phát triển trong phạm vi toàn quốc.
Nguyên nhân của các sự xung đột và mâu thuẫn trong nhận thức giáo lý
Phật giáo tuy có nhiều, nhưng nguyên nhân chủ chốt vẫn là: Phật giáo
hiện nay chưa có các trường lớp đúng nghĩa trường lớp, các sách vở tài
liệu, đội ngũ giảng dạy không đồng bộ và thống nhất. Ai muốn dạy gì cứ
dạy, giảng gì cứ giảng.
Như vậy, vấn đề cần giải
quyết không phải là hạn chế ở trình độ, mà do chưa có những trường lớp
sư phạm nhất định, chưa có những sách giáo lý chung nhất, tiêu chuẩn cho
toàn giới Phật giáo.
Như chúng ta đã biết, sự
hình thành và phát triển Phật giáo bao gồm sự hình thành và phát triển
song song giữa hệ giáo lý quan trọng nhất và đặc sắc nhất đó là hai hệ
Nam truyền và Bắc truyền. Nhưng trong thực tế lại có nhiều người, cũng
như nhiều sách vở vẫn không thích dùng hai từ ngữ ấy mà lại dùng giáo lý
Đại thừa và giáo lý Tiểu thừa. Những ngôn ngữ như vậy tự bản thân nó đã
nêu lên sự bất hòa và xung đột. Nguy hại hơn là người thừa kế của mỗi hệ
đã cực lực lên án hệ giáo lý mà mình không thích là không phù hợp với
những lời dạy của Đức Phật. Chúng ta không nên dùng những từ ngữ Tiểu
thừa và Đại thừa để ám chỉ những lệch lạc khác nhau về kiến thức cũng
như hạnh nguyện tu tập của người học Phật. Dù muốn dù không thì hai hệ
giáo lý này đã song song tồn tại từ bao thế kỷ nay rồi. Vấn đề ở chỗ
không phải tìm ra chỗ mâu thuẫn nếu có mà là hệ thống hóa lại với nhau,
bổ sung cho nhau theo các loại thang bậc nhận thức nhất định, để người
giảng dạy cũng như người học an tâm tiếp nhận chứ không dao động hoang
mang trước những nghịch lý- biết tin tưởng ai và không tin ai, biết theo
giáo lý nào và không theo giáo lý nào!
Thế nên, vì mục đích lợi
lạc như ý nghĩa ban đầu của công tác hoằng pháp, chúng ta nên thống nhất
với nhau về mặt nhận thức và giảng dạy, để bản thân mình cũng như người
tiếp nhận không lấy làm khó chịu.
2. CẦN NẮM VỮNG
HỆ THỐNG GIÁO LÝ
Giáo lý, với ý nghĩa đơn
giản là những lời dạy của Đức Phật được sưu tập, hệ thống, kết tập thành
văn bản như ngày hôm nay. Ơ?mức độ tiếp nhận sâu hơn, cao hơn, giáo lý
còn là hệ thống các phương pháp, các pháp môn có tính thang bậc đầy
phong phú, nhưng phức tạp. Do đó khi nghiên cứu hay học hỏi kinh điển,
đòi hỏi người học phải nắm vững tính hệ thống của nó. Hay nói đúng hơn
là cần phải tiếp nhận và tiêu hóa giáo lý một cách thận trọng. Sỡ dĩ
phải dùng từ "thận trọng" ở đây là vì phạm trù ý nghĩa của giáo lý không
chỉ đơn điệu trơ trẽn ở bề mặt của ngôn ngữ. Ngôn ngữ chỉ là một trong
những công cụ chuyên chở nhất định và có những hạn chế nhất định. Ngôn
ngữ không thể diễn tả hết những gì sâu kín của giáo lý, của pháp môn.
Thể hiện và thực nghiệm tâm linh mới có thể cảm nhận những gì ẩn chứa
bên trong mà ngôn ngữ không tài nào với tới.
Đã là một công cụ chuyên
chở, nên nó cũng chỉ là công cụ, chỉ là phương tiện đáp ứng nhu cầu trí
thức về nghiên cứu nào đó mà thôi. Ngoài nó ra, không còn một công cụ
nào khác đóng trọn vẹn chức năng giảng dạy giáo lý. Vì thế người nghiên
cứu hay học hỏi giáo lý cần phải trang bị cho chính mình hệ thống nắm
bắt, cảm nhận và tiêu thụ. Để làm tròn công việc này, đòi hỏi sự cố gắng
rất nhiều ở người nghiên cứu, học hỏi và giảng dạy.
Một bài thơ được chiếu
dưới lăng kính văn học nghệ thuật, nó còn có nhiều màu sắc khác nhau,
nào nghĩa đen, nghĩa bóng của từ được dùng, nào nghệ thuật sử dụng ngôn
từ, nào tuyến tính súc tích có chọn lọc…, thiếu một trong những nhu cầu
tối thiểu này, một bài thơ không thể hoàn chỉnh như ý muốn. Chỉ là một
bài thơ thôi mà điều kiện cần thiết để hiểu đúng đắn nó đã khó, huống hồ
là kinh điển Phật giáo.
Cũng vậy, từ lâu nay giới
học Phật đã bỏ ra nhiều thời gian để ôn lại những lời dạy của Đức Phật
bằng cách đọc tụng. Nhưng dù thông minh đến mấy, không ai có thể tự hào
rằng chỉ đọc vài ba lần một bộ kinh mà có thể hiểu được hết thâm nghĩa
của lời Phật dạy. Cho nên, người nghiên cứu hay giảng dạy không thể chủ
quan với vốn liếng đang có ở mình trong trọng trách tìm hiểu hay giảng
dạy. Mặt khác, văn bản kinh điển của Phật giáo không phải chỉ có vài ba
cuốn mà là một kho tàng đồ sộ. Bỏ cả thời gian một đời người để đọc may
ra mới có thể hết. Nhưng chỉ là đọc thôi chứ chưa nghiên cứu nội dung
trong đó.
Ngoài phương diện phong
phú về số lượng, kinh điển Phật giáo đề cập đến hàng trăm ngàn vấn đề
khác nhau, ở nhiều góc độ khác nhau và nhiều trường hợp khác nhau. Người
đọc nếu vội vã và hấp tấp không thể tránh khỏi thái độ nhận thức lệch
lạc, hàm hồ khi mới đọc đến một vài bộ kinh mang tính "phương tiện".
Kinh điển thuộc loại này tương đối phổ quát và nhiều.
Nên phân biệt rằng thuật
ngữ "Phương tiện" không phải là "Ba phải". Phương tiện là chỉ cho mức độ
giáo lý hàm chứa nội dung ở mức độ " Nhân bản" hoặc xa hơn một chút là
"Nhị thừa". Nhân bản là hệ thống giáo lý nền tảng của Phật giáo. Nó đề
cập đến con người, giải quyết những uẩn khúc Dukkha của con người bằng
cách vạch ra hàng loạt những y án khác nhau.
Tin tưởng vào những y án
mà bản thân mình thích ứng rồi triệt để ứng dụng trị liệu, nhất định có
một kết quả duy nhất là: hết bệnh. Điều quan trọng nhất không phải ở sự
khác nhau về kết quả đạt được mà là ở chỗ người ta có chịu tin tưởng và
áp dụng triệt để hay không mà thôi.
Kinh điển nhân bản còn là
một nhịp cầu tiến lên nhị thừa. Nhị thừa là gạch nối giữa nền giáo lý
tuyệt đỉnh của nhân bản và nhất Phật thừa. Giáo lý nhị thừa đã thuộc vào
giáo lý xuất thế. Áp dụng giáo lý này, con người sẽ vượt lên trên nền
luân lý đạo đức xã hội, đạt được cái nhân bản của tất cả nhân bản, hay
thiện mỹ của tất cả thiện mỹ mà chúng ta thường gọi là thánh nhân, vĩ
nhân của các bậc vĩ nhân. Danh từ của hệ Nikàya thường gọi là: "Bậc
A-la-hán, đẳng chánh giác".
Mỗi một thang bậc giáo lý
có một giá trị và mức độ đạt đến tối đa của nó. Giáo lý nhân bản là tấm
hộ chiếu để tiếp tục thọ sanh ở nhân giới, tùy theo hành vi tạo tác
trong cuộc sống từ ba phương diện: hành vi thân xác, hành vi ngôn ngữ,
hành vi ý tưởng mà con người sẽ có một số mặt khác nhau nào đó về mọi
lãnh vực từ địa vị, hoàn cảnh sống cho đến tâm tư, tình cảm, đạo đức và
trí huệ.
Nên nhớ rằng, sự khác nhau
ở đây không phải do yếu tố định mạng quyết định theo kiểu tiền định, mà
tất cả những hành vi tạo tác có một tác dụng nhất định hoặc phương hại,
hoặc trợ lực cho cuộc sống mà chúng ta đang sống. Tất cả những điều này
cần phải đạt trên lăng kính nhân quả mới có thể nói chi tiết và đầy đủ.
Trở lại vấn đề giáo lý,
nếu như giá trị tối đa có thể đạt được của giáo lý nhân quả là kết quả
sinh sống ở nhân giới với điều kiện thuận lợi về đạo đức nhân bản, thì
phải nói rằng giáo lý Nhị thừa chính là bức thông điệp cần có siêu xuất
đạo đức thế gian. Tuy nhiên, đấy mới chỉ là nửa chặng đường ban đầu mà
người học Phật không nên tự mãn về nó, mặc dù chúng ta có quyền hãnh
diện về kết quả đạt được của mình. Điểm đích cuối cùng của giáo lý Phật
giáo không chỉ dừng lại ở Nhân thừa hay Thanh Văn, Duyên Giác thừa mà là
Nhất Phật thừa.
Đến được Phật thừa mới là
điều mong muốn của người học Phật. Đây cũng chính là điểm đặc thù, siêu
tuyệt của đạo Phật nếu so với các Tôn giáo khác. Ngưòi học Phật, học
theo giáo lý Phật giáo cần phải tin tưởng rằng mình sẽ thu hoạch được
những gì mà Đức Phật đã thành đạt. Bởi vì khả năng của con người đều
ngang nhau. Mức độ thành đạt tối đa trên con đường cải hoán những phần
tử tâm lý ác bất thiện và đồng bọn của chúng ra khỏi vùng tâm thức thì
chính lúc đó những tâm lý tương phản hình thành và ngự trị, đây là qui
luật đối kháng và triệt tiêu trong học lý nhân quả Phật giáo.
Vì giáo lý Phật giáo có
nhiều thang bậc và mối liên hệ hữu cơ của chúng không cho phép chúng ta
tách rời một cái nào để đạt đến một cái nào khác. Muốn đạt thang bậc thứ
hai thì trước hết phải lập cước trên thang bậc thứ nhất. Không có thang
bậc một thì vấn đề thang bậc hai sẽ không có cơ sở đề ra.
Tính phong phú và phức tạp
về nội dung cho ta thấy vấn đề nghiên cứu, học hỏi và giảng dạy giáo lý
Phật giáo cần phải có nguyên tắc nhất định của nó. Nguyên tắc phải theo
này như là một điều tất yếu và lô-gíc. Bỏ lìa nó là sẽ lệch tông chỉ
giáo lý. Do đó sẽ có một sai lầm tối kỵ là giảng dạy giáo lý Phật giáo
bằng cảm tính thay vì bằng chứng đạt nhận thức.
Nói gọn lại, tuy chỉ có
hai vấn đề, nhưng lại là hai vấn đề cốt lõi đối với người hoằng pháp
giảng dạy. Ở đây, không có chuyện một, hai hay ba hoặc hơn nữa mà là
trách nhiệm nghĩa vụ của người giảng dạy.
Trộm nghĩ, nếu thẩm thấu
và tự trau dồi hay được thọ học huấn luyện từ trường lớp một cách kỹ
lưỡng, chu đáo thì việc hoằng pháp và sứ giả hoằng pháp sẽ tự tin hơn,
dũng mãnh hơn đặt chân đến những vùng đất đang cần hơi thở tình thương
của đạo Phật. Làm được điều này, người học Phật mới không tự hổ thẹn khi
thọ cơm của thí chủ đàn-na!
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002