Mặc dù đã và đang có nhiều
nỗ lực của các giáo hội, tổ chức và cá nhân Phật giáo trong việc phiên
dịch kinh điển Pali và Sanskrit ra tiếng Mẹ đẻ, việc hình thành một bộ
kinh thánh Phật giáo cho từng gia đình không phải không gặp nhiều khó
khăn. Có những trở ngại mang tính khách quan như sau.
Thứ nhất, ba kho tàng văn
học Phật giáo (tam tạng kinh điển) được viết bằng hai hệ ngôn ngữ chính:
hệ Pali và hệ Sanskrit. Hệ Pali chỉ được phát triển và truyền thừa ở các
nước theo Phật giáo nguyên thủy. Trong khi đó, hệ Sanskrit lại được phát
triển ở các nước theo Phật giáo Bắc tông, nhưng lại không còn đủ trọn
bộ. Kế đến, kinh điển đại thừa lại được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong
đó quan trọng nhất là tiếng Tây Tạng và Trung Quốc. Hai thứ tiếng này
lại là một trở ngại rất lớn cho người muốn tìm hiểu vì sự khó học, khó
nhớ của nó.
Thứ hai là, khác với các
kinh thánh của các tôn giáo khác như kinh thánh của Ky-tô giáo hay Koran
của Hồi giáo, kinh thánh Phật giáo, dù là hệ Pali, là cả một kho tàng
gồm nhiều tập, lên tới nhiều ngàn trang giấy khổ lớn. Riêng ba kho tàng
kinh điển Pali thôi cũng đã lên tới gần 60 đầu sách. Mỗi quyển chứa
trung bình từ 250 đến 400 trang. Kinh điển đại thừa lại còn nhiều hơn
nữa. Chính vì thế, việc ấn hành một bộ kinh thánh Phật giáo khó được
thực hiện.
Hơn thế nữa, do "ngôn ngữ
tự điển" của các bản dịch, kinh điển Phật giáo chỉ trở nên quen thuộc
trong giới học giả. Giới quần chúng thông thường lại không có cơ hội để
tiếp xúc với kinh điển.
Đó là chưa nói đến các khó
khăn về tài chánh in ấn và phổ biến. Các trở ngại này đã làm cho kinh
điển Phật giáo trở thành các thư viện nghiên cứu của một số đối tượng,
thay vì là của toàn thể quần chúng, từ bình dân đến trí thức. Tuy nhiên
các khó khăn đó không phải là không thể khắc phục được, nếu chúng ta
nhìn vấn đề từ góc độ duyên khởi: cái này có do cái kia có; cái này
không có kéo theo cái kia không có. Do đó, nếu chúng ta tăng cường các
trợ duyên, phương tiện và nỗ lực chất xám của nhiều người thì công việc
trên sẽ có thể có một lối mở thích đáng.
-
III. NỘI DUNG CẦN CÓ CỦA BỘ KINH
THÁNH PHẬT GIÁO
Vì đạo Phật có 2 hai nhánh
chính là Phật giáo nguyên thủy và đại thừa nên tuyển tập kinh thánh Phật
giáo nên chứa đựng cả 2 nguồn kinh điển tiêu biểu của hai tông phái
chính. Trên tinh thần đó, nên có 2 tuyển tập kinh thánh Phật giáo: một
tuyển tập của kinh điển hệ Pali nguyên thủy và một tuyển tập của hệ
Sanskrit đại thừa.
TUYỂN TẬP KINH THÁNH NGUYÊN THỦY
1. Tạng giới luật nên được
tỉnh lược tối đa. Chỉ nên giữ lại phần cốt lõi Đại Phẩm (Mahavagga)
và Tiểu Phẩm (Cullavagga). Các phần còn lại của tạng Luật không
nên giới thiệu trong tuyển tập kinh thánh. Bởi lẽ các phần đó liên hệ
thuần túy đến các điều khoản, cách trị phạt, hệ thống tổ chức đời sống
cộng đồng của người xuất gia; không có lợi ích nhiều cho người Phật tử
tại gia. Kế đến, giáo pháp của Phật không được chứa tải nhiều trong các
phần giới luật này.
2. Không kèm tạng Luận
trong tuyển tập kinh thánh . Bởi lẽ, ngôn ngữ của tạng Luận tuy sâu sắc
nhưng khó hiểu với cách lý luận, mang phong cách phân tích nặng về triết
học ngôn ngữ, nên không cần thiết cho giới Phật tử bình dân. Do đó không
cần thiết giới thiệu vào trong bộ kinh thánh Phật giáo.
3. Chỉ tuyển chọn các kinh
quan trọng trong 4 bộ Nikaya đầu bao gồm tuyển tập các bài kinh dài (Trường
Bộ Kinh), tuyển tập các bài kinh trung bình (Trung Bộ Kinh),
tuyển tập các bài kinh theo chủ đề (Tương Ưng Bộ Kinh) và tuyển
tập các bài kinh theo pháp số (Tăng Chi Bộ Kinh).
4. Về 15 tuyển tập thuộc
Tiểu Bộ Kinh, chỉ nên tuyển chọn các phần tinh hoa trong 5 bộ đầu.
Riêng kinh Pháp Cú thì nên giữ nguyên toàn bộ 423 bài kệ, vì tính
cô đọng và bao quát giáo pháp Phật chứa đựng trong đó. Mười bộ từ thứ
sáu trở đi nên được tỉnh lược.
Như vậy với cách chọn lọc
này, bộ kinh thánh Nguyên thủy sẽ chiếm khoảng 1000 trang giấy, rất tiện
lợi cho việc mang đi đây đó, thọ trì, đọc tụng và phổ biến.
ĐỐI VỚI TUYỂN TẬP KINH THÁNH ĐẠI
THỪA
1. Về giới Bồ-tát, chỉ
giới thiệu phần nội dung của 10 giới nặng và 48 giới nhẹ. Tỉnh lược toàn
bộ phần dẫn nhập về nhân địa bồ-tát.
2. Toàn bộ phần Mật tạng
và luận tạng nên được tỉnh lược, vì quá nhiều và không cần thiết cho đại
đa số quần chúng.
3. Đối với các kinh điển
đại thừa, cũng nên chọn lọc các kinh tiêu biểu mà thôi. Các kinh đại
thừa nên được giới thiệu là: kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Lăng Già,
kinh Viên Giác, kinh Pháp Hoa, Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết, kinh Đại Bảo
Tích, kinh Bát-nhã, Kinh Báo Ân Cha Mẹ, Kinh Vu-lan. Riêng kinh
Năng Đoạn Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật thì giữ trọn vẹn. Không nên
giới thiệu các kinh Dược Sư, Địa Tạng và các kinh thần
chú, vì tính chất van xin và cầu nguyện trong các kinh này đã đi ngược
lại với tinh thần lời dạy nguyên thủy của đức Phật.
4. Đối với các kinh đại
thừa vừa nêu trên, cũng nên tuyển chọn các phẩm kinh tiêu biểu chứ không
cần giới thiệu toàn bộ các phẩm trong kinh.
Với cách chọn lọc này, bộ
kinh thánh Đại thừa sẽ chiếm khoảng 1000 đến 1500 trang giấy.
Như vậy cả hai bộ kinh
thánh Phật giáo nguyên thủy và đại thừa gộp lại sẽ chiếm khoảng
2000-2500 trang giấy. Nếu in trên giấy mỏng và tốt thì bộ kinh thánh chỉ
cần chứa trong 2 tập, tập 1 là kinh thánh nguyên thủy và tập 2 là kinh
thánh đại thừa. Tuy nhiên cách phân bổ số tập cũng có thể linh động,
bằng cách chia đều mỗi tập 500 trang. Như vậy có tất cả là 5 tập, tập 1
và 2 thuộc kinh thánh nguyên thủy và 3 tập còn lại thuộc kinh thánh đại
thừa. Nếu tính luôn bản nguyên tác Pali và Sanskrit thì số lượng tập của
bộ kinh thánh Phật giáo có thể tăng lên gấp đôi.
IV. PHƯƠNG CÁCH TRÌNH BÀY BỘ KINH
THÁNH PHẬT GIÁO
1. Cả hai tuyển tập kinh
thánh nên được trình bày theo một trật tự từ thấp đến cao, từ nhân thừa
đến Phật thừa. Không nên trình bày theo cấu trúc truyền thống là kinh
luật luận, vì hai kho tàng luật luận đã được tỉnh lược khỏi tuyển tập
kinh thánh này.
2. Nên đặt lại tựa đề của
các bài kinh (trong trường hợp kinh điển Pali), các phẩm kinh (trong
trường hợp kinh điển đại thừa), theo nội dung và chủ đề của chúng. Tuy
nhiên phải ghi chú tên nguyên góc để giúp người đọc có thể đối chiếu khi
cần thiết.
3. Đánh số thứ tự lại trật
tự của các bài kinh, số đoạn một cách có hệ thống để tiện cho việc tham
khảo. Số thứ tự được đánh theo từng bài kinh. Sang bài kinh khác thì số
thứ tự được đánh lại từ đầu. Ví dụ đoạn thứ nhất của bài kinh thứ nhất
được đánh số là 1: 1. Đoạn thứ ba của bài kinh thứ nhất được đánh số là
1: 3. Nếu chi tiết hơn, chúng ta có thể đánh dấu số trang cho chúng. Ví
dụ nếu đoạn một của kinh thứ nhất đó nằm ở trang 3 thì ta ghi như sau:
1: 1 : 3. Tương tự nếu là đoạn thứ 3 của kinh thứ 2 thuộc trang 8 thì ta
ghi như sau: 2 : 3 : 8.
4. Nên đặt chủ đề cho từng
ý tưởng chính trong kinh. Các chủ đề chính được đánh dấu bằng một co chữ
in lớn (ví dụ co 13) trong khi các ý tưởng nhỏ hay trực thuộc nên được
đánh dấu bằng một co chữ in nhỏ hơn (ví dụ 11). Việc đặt chủ đề như trên
sẽ giúp cho người đọc có được manh mối để ghi nhớ và suy tư lời Phật dạy
trong khi tụng niệm.
5. Đối với các kinh nguyên
thủy, nên tỉnh lược các đoạn trùng lập (vốn chỉ có giá trị trong truyền
thống truyền miệng) bằng các ký hiệu mặc ước (ví dụ […]) để ý tứ của
mạch văn được cô đọng và rõ ràng hơn. Ngoài ra, việc tỉnh lược này còn
giúp tiết kiệm giấy mực hay nói khác hơn giảm bớt kinh phí ấn loát và
phát hành.
6. Viết lại một cách ngắn
gọn, cô đọng, đầy đủ nghĩa các đoạn mở đầu các bài kinh thành 1 hoặc 2
dòng, thay vì nửa trang giấy như nguyên tác. Miễn sao việc tỉnh lược đó
hoàn toàn không ảnh hưởng đến nội dung chính của kinh là được. Tuy nhiên
cũng nên có các ký hiệu cho biết đây là đoạn đã được biên tập ngắn lại.
V. PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC BIÊN
SOẠN BỘ KINH THÁNH PHẬT GIÁO
1. Để bộ kinh thánh Phật
giáo được sử dụng thống nhất trên khắp thế giới, ngôn ngữ của kinh thánh
này phải được thể hiện qua ba thứ tiếng căn bản là Pali, Sanskrit và
tiếng Anh. Nói cách khác, công việc biên tập trước nhất phải được tiến
hành theo ngôn ngữ gốc của kinh điển. Đối với tuyển tập kinh thánh
nguyên thủy, trước nhất phải được biên tập từ tiếng Pali. Đối với tuyển
tập kinh thánh đại thừa, việc biên tập được thực hiện từ tiếng Sanskrit.
Khi ấn bản la-tinh hóa của hai tuyển tập kinh thánh này hoàn tất, chúng
ta tiến hành đến việc phiên dịch ra bản tiêu chuẩn tiếng Anh. Các nước
Phật giáo trên khắp thế giới có thể tham khảo bản tiếng Anh trong khi
phiên dịch hai ấn bản Pali và Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ của mình. Nói dễ
hiểu hơn, phần kinh thánh nguyên thủy được trình bày qua tiếng Pali đã
la-tinh hóa, trong khi phần kinh thánh đại thừa được trình bày qua tiếng
Sanskrit, như chính nguyên tác ngôn ngữ của chúng. Ấn bản tiếng Anh đính
kèm là bản tham khảo đối chiếu cho các bản dịch ra tiếng mẹ đẻ của các
dân tộc trên thế giới. Riêng chúng ta là người Việt Nam, thì bộ kinh
thánh Phật giáo bao gồm 2 ấn bản, ấn bản nguyên bản Pàli và Sanskrit và
ấn bản tiếng Việt. Ấn bản nguyên gốc để nhằm vào mục đích tra cứu, tham
khảo. Ấn bản tiếng Việt là ấn bản chính mà các chùa, tự viện, tịnh xá,
tịnh thất, niệm Phật đường và các gia đình Phật tử cần phải có ít nhất
một bộ trong chùa hay trong nhà mình. Về lâu về dài, mỗi người con Phật
dù tại gia hay xuất gia đều có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo đó.
2. Để thực hiện công việc
biên tập trên, phải thành lập một ban biên tập gồm các vị cao tăng, danh
tăng, cư sĩ có tâm huyết với Phật pháp và các học giả Phật giáo trên
khắp thế giới. Thành viên của Ban biên tập này phải là những người đại
diện cho tiếng nói của Phật giáo trong một nước. Do đó, các thành viên
phải là người được đề cử của giáo hội Phật giáo trong một nước hay của
một tổ chức Phật giáo nào đó hay của các trường đại học Phật giáo nổi
tiếng trên thế giới.
3. Trước nhất, số lượng
bài kinh cũng như các kinh của hai truyền thống được tuyển chọn vào bộ
kinh thánh Phật giáo phải được thảo luận rộng rãi. Các ý kiến đóng góp
của quần chúng tăng ni Phật tử trên khắp thế giới phải được tham khảo và
nghiên cứu kỹ lưỡng, để hoàn thiện nội dung của bộ kinh thánh Phật giáo.
Sau khi thống nhất về các bài kinh được tuyển chọn, ban biên tập tiến
hành công tác biên tập, theo các tiêu chí nêu ở mục IV.
4. Một khi văn bản nguyên
tác Pali và Sanskrit đã được biên tập và hệ thống hóa, bản dịch tiếng
Anh cần được tiến hành tiếp theo sau. Sau đó, phổ biến rộng rãi trên
khắp thế giới, để các ban biên tập và phiên dịch địa phương trong một
nước nào đó tiến hành dịch ra tiếng mẹ đẻ của mình, chẳng hạn như tiếng
Trung Quốc, Pháp, Đức, Nhật, Liên Xô, Miến Điện, Thái, Tích Lan v.v…
5. Văn phong của các bản
dịch kinh thánh Phật giáo phải là một loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ
đẻ của từng dân tộc và quốc gia. Phong cách ngôn ngữ dịch thuật tuy có
nhiều loại tùy theo trình độ, sở thích và phong cách riêng của người
dịch, có thể chia thành 2 dạng chính: dạng ngôn ngữ tự giải thích và
dạng ngôn ngữ tự điển. Dạng thứ nhất là phong cách chuyển ngữ văn bản
kinh điển gốc sang tiếng được chuyển ngữ theo một văn phong thuần chất
của người bản địa. Nghĩa là tự bản thân các từ ngữ thuật ngữ được diễn
tả đã mang tính giải thích rõ ràng. Người đọc kinh điển không cần phải
tra cứu các bộ tự điển Phật học để tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Trái lại,
dạng thứ hai là dạng sử dụng quá nhiều từ ngữ, thuật ngữ chuyên ngành
Phật học, hoàn toàn xa lạ với quần chúng. Đây là loại văn dịch theo
phong cách kinh viện, phải cần đến tự điển mới hiểu được ý nghĩa chứa
đựng trong nó. Văn phong của bản dịch của kinh thánh Phật giáo phải là
loại văn phong thuần ngôn ngữ mẹ đẻ, để giúp cho người Phật tử đọc hiểu
dễ dàng và ứng dụng không trở ngại. Rõ ràng, để có một văn phong như
vậy, ban biên dịch của từng nước trên thế giới phải cần đến sự nhuận văn
của các văn gia và thi sĩ lỗi lạc trong mỗi nước, trước khi bản dịch
được đem đi in ấn.
6. Bản dịch từ bản Pali và
Sanskrit ra tiếng mẹ đẻ (hay tiếng địa phương) phải được các hội đồng
đại diện của một nước phụ trách. Hội đồng đó có thể bao gồm các tu sĩ,
cư sĩ và học giả Phật giáo lỗi lạc và tinh thông Phật pháp trong một
nước.
7. Để bộ kinh thánh Phật
giáo này có trong tay từng tu viện và gia đình Phật tử, Ban biên tập có
thể vận động các tổ chức từ thiện Phật giáo trên khắp thế giới ủng hộ
phần kinh phí ấn tống bộ kinh thánh Phật giáo. Ngoài ra, các đại diện
của một nước cũng nên vận động ấn tống hay phát hành bộ kinh thánh Phật
giáo trên tinh thần không lời không lỗ, để bạn đọc Phật giáo có thể mua
dễ dàng. Giá ấn bản, nếu không phải ấn tống, nên bằng với giá chi phí ấn
loát thực tế. Có như vậy thì mỗi tăng ni và gia đình Phật tử đều có thể
có trong tay một bộ kinh thánh Phật giáo để đọc tụng và thực hành lời
Phật dạy ở mỗi nơi và mọi lúc.