Pháp Tu Chứng Chánh Ðẳng Giác Của Ðức Phật
Phổ Nguyệt
Con đường tìm đạo, tự tu tự
chứng đến khi đắc đạo của đức Phật là hành trình lắm chôn gai với lòng
kiên trì quyết thắng là một nổ lực phi thường. Ngài cũng đã trải qua
những thử nghiệm trong sáu năm khổ hạnh khốc liệt để chiến đấu chống lại
sự ham muốn của tự ngã bằng những giai đoạn hành đạo với những vị thầy
Bà-La-Môn như nhịn ăn, thiền nín thở, các loại thiền yoga, v.v…, nhưng
tất cả phương pháp đó dù đoạn trừ được những tham dục, những ác hạnh mà
vẫn không đem lại giác ngộ, vì từ cái bị sanh mà tìm đến cái bị sanh
khác chỉ đem đến những thất vọng mà thôi. Từ đó Ngài tự tìm ra con đường
vượt khỏi dòng sanh diệt đến thế giới vô sanh niết bàn. Mục đích bài này
Phổ Nguyệt chỉ trình bày Pháp Tu Chứng Chánh Ðẳng Giác mà Phật đã chứng
đạo. Tham khảo nhiều kinh Phật dạy (dù không đầy đủ) có liên hệ đế việc
tu chứng của Bồ Tát là một gắng sức của chúng tôi để vừa thâm cứu vừa tu
học, âu cũng là sự cần thiết cho việc thực hành đến mức độ tối ưu.
I. Cái Bị
Sanh.
Thái tử
Siddhattha là người rất trầm lặng, thích sống một mình giữa đời sống
nhung lụa xa hoa đầy cám dỗ mà Ngài không động tâm bị các dục lạc làm
say đắm. Nhận thức cuộc đời quá mong manh: sanh già bệnh chết, ngay cả
những thứ như vợ con, đầy tớ, dê cừu, gà, heo, voi, bò ngựa vàng bạc là
những thứ bị sanh sẽ bị bịnh bị già bị chết bị khổ bị ô nhiễm. Bồ Tát có
ý nghĩ những thứ gì trong thế giới hiện tượng này khi có sanh thì có
diệt. “Những thứ bị sanh đó nếu ta nắm giữ, tham đắm, mê say chúng
thì chính ta là người bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh.” (Kinh Thánh Cầu,
26, Kinh Trung Bộ)
Thật
vậy, biết rằng “vạn
pháp duy thức."
Thức tức là
tâm thức là do tương quan lập của căn trần thức. Tất cả con người, sự
vật và vũ trụ, nói chung là sự vật trong thế giới hiện tượng này đều do
duyên khởi hay tùy thuộc lập nên chúng hay thay đổi và không thể thường
tồn. Nên con người thì sanh già bệnh chết, còn sự vật thì sanh trụ hoại
diệt, cái vòng lẩn quẩn luôn bị sanh bị diệt mãi lăn trôi.
Hiện tượng trong thế giới
tương đối của sự vật hiện hữu do nhân duyên kết hợp, do đó chúng không
có lúc nào tự mình độc lập tồn tại. Rõ ràng chúng có sanh ra thì có lúc
phải hủy diệt vì lẽ có sự trao đổi vật chất và năng lượng với môi trường
chung quanh. Trong vật lý học, việc bảo tồn năng lượng cho biết năng
lượng không sanh ra và không biến đi mà chỉ có thể thay đổi. Khi sự giao
lưu năng lượng và vật chất của mỗi hữu thể với bên ngoài, hữu thể đó tạm
thời ổn định cân bằng vì phải tiêu tán năng lượng và vật chất, nên thay
cũ đổi mới để tồn tại. Sự trao đổi vật chất và năng lượng của hữu thể
trong không gian là lịch trình sanh trụ hoại diệt. Sự giao lưu vật chất
và năng lượng của xác thân con người với bên ngoài được tạm thời hiện
hữu là lịch trình sanh lão bịnh tử. Sự vật hiện hữu do duyên họp, khi
duyên tan thì hoại không, theo lý Duyên Khởi sau này của Ngài Long thọ.
Còn sự vật tạm thời hiện hữu gọi là Thực Tại Tùy Thuộc theo Duy Thức Học
của Ngài Vô Trước. (Xem Thực Tại và Chí Ðạo, Phổ Nguyệt, 2002)
Lúc Phật chưa giác ngộ, Bồ
Tát hành đạo với các thầy Bà La Môn như khổ hạnh, nhịn ăn, thiền nín thở
tuy là những pháp diệt dục và loại trừ các pháp bất thiện rất tốt, cốt
dùng cách hành hạ xác thân mong chế ngự được tâm, nhưng thật sự khi sức
khỏe kiệt quệ, bụng đói, tinh thần tán loạn thì không an tịnh thì làm gì
có trí sáng suốt để đi đến giác ngộ giải thoát. Sự giải thoát là sự hiểu
biết mà đàng này họ chỉ dạy chế ngự thân và hành động của thân như ngũ
dục và những ác pháp để mong tìm đến giải thoát, ngay các loại thiền
yoga cũng còn trong thế giới hiện tượng (bị sanh) mà thôi. Riêng hành
các pháp khổ hạnh nhịn ăn và thiền nín thở thì rõ ràng không thể đem lại
trí định được; có thể các loại thiền cao cấp của yoga, như thiền vô hữu
xứ, phi tưởng phi phi tưởng làm cho tư tưởng phong phú hơn, nhưng không
đem đến giác ngộ. Tại sao? Vì còn dùng tưởng tri là vẫn còn bị
sanh.
Cái bị sanh cần được phân
tích rõ ràng.
Với sự
nhận thức thường tình mà xét thì tâm được kết cấu như sau:
a). Nhận Diện
(Cảm giác: Sensation).
Ngủ giác quan là phương tiện
tiếp xúc với trần cảnh để nhận diện ảnh hay hay bóng dáng của trần cảnh.
Đó là chúng ta cảm giác được hình ảnh của sự vật qua ngũ giác quan mà
thôi. Thí dụ, khi ta thấy con bò là thấy hình ảnh con bò ở võng mạc cuả
mắt mà thôi. Đó là CẢM GIÁC. Nhắc lại, (Về thị giác) khi ta nhìn con bò,
hình ảnh con bò hội tụ ở võng mạc của mắt, truyền dẩn bởi thị giác thần
kinh lên não, lức đó ta mới nhận diện được hình ảnh con bò. Khi có thời
gian thì sự vật chạy dài trong không gian, với ảnh ta vừa thấy đó không
còn là ảnh thật nữa (Sắc tức thị không: Sắc lập tức (Một sát na) biến
thành không thật nữa. Hể có thời gian thì có không gian. Sự vật huyễn
hóa theo thời gian và ảnh không còn thật trong không gian. Vậy, khi nhận
diện được hình ảnh (thấy), ấn tượng chấn động lực(nghe), không khí hay
hơi (ngửi), ấn tượng kích thích (nếm), hình ảnh tiếp giáp của da hay cơ
thể (xúc) là thể không của đối tượng qua tiền ngũ căn. Thí dụ, như thị
giác, sự vật chiếm cứ trong không gian (hư không) một dung thể không: sự
vật và dung thể không của nó khắng khít nhau như một, thì thể không của
nó là hình ảnh sự vật được hội tụ ở võng mạc mắt khi mắt nhìn sự vật. Do
đó khi thấy sự vật cụ thể ở trong không gian là thấy hình ảnh của nó ở
võng mạc của mắt mà thôi.
b). Nhận Thức
(Tri giác: Perception).
Khi chúng ta cảm giác hình
ảnh sự vật thì lúc đó chúng ta mới nhận biết được (perceive) tên sự vật.
Sự vật có tên mà ta nhận thức đó là GIÁC THƯC (hay Tâm Thức:
Consciousness hay Perception) chạy dài theo thời gian. Khi nhận thức
ngay niệm đầu một sát na và không có kéo dài thời gian nữa là ta có giác
thức nguyên sơ (niệm đầu) hay là chơn thức (pure perception or true
consciousness), đó cũng là định của thức. Hình ảnh con bò là thể
không được nhận thức bởi tâm trí (tâm trí cũng cùng thể không.) Tâm và
vật đồng thể không, nên sự nhận thức mới thành hình. Lục căn phối hợp
với lục trần (thể không) sanh ra lục thức. Lục thức không có thực thể,
Phật gọi là lục tặc, vì thức là nghiệp. Dòng tâm thức luôn trôi chảy
không ngừng nghỉ. Nó không có khởi điểm cũng như kết thúc và nó dính
nhiều pháp trần làm cho dòng tâm thức luôn ô nhiễm và vẩn đục.
c). Tri Thức
(Cognition).
Trong đời sống hằng ngày, ta
thường nhận thức sự vật bằng ngũ giác quan. Khi ta tri nhận (cognize) sự
vật đã nhận thức, ta có tri thức (Cognition). Trong quá trình tri nhận
sự vật trong hiện tại (Với cảm giác), quá khứ hay tương lai (với ý
thức), cả ba thời chúng ta tri nhận được sự vật mới có GIÁC TRÍ (hay Tâm
Trí). Giác Trí nầy là Tư Tưởng, Suy Nghĩ, Lý Luận v.v. theo thời gian.
Nó là sự lập lại của tâm thức hay tri nhận các thức và tạo ra nghiệp
thức. Nên ta có thể gọi là tâm duyên ý mã vì tư tưởng chúng ta lúc nào
cũng ẩn hiện trong tâm trí từng giây từng phút liên tục, chỉ trừ có
những động lực khác hay pháp môn có khả năng chận dừng được vọng tưởng
đó. Ðó là cái Bị Sanh.
c). Giác Trí Tuệ
(Pure Cognition).
Khi Phật thành đạo là do đạt
được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập
thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập. Thực ra Giác Trí Tuệ có
thể thực hiện trong tứ oai nghi. Vậy Giác Trí Tuệ là tri nhận đầu nguồn
của Giác Trí và xa lìa nó ngay. Nói rõ hơn là khi chúng ta nhận thức
niệm đầu của Cảm Giác (Sensation) để có Giác Thức nguyên sơ (Pure
Perception hay first consciousness), lập tức tri nhận Giác Thức nguyên
sơ ấy để được Giác Trí (Cognition là Giác Trí có thời gian) và xa lìa
giác trí ngay mới có Giác Trí Tuệ (Vô thời gian). Vì Giác Trí Tuệ là Tri
Thức Nguyên Thủy (Pure Cognition) của Chân Trí (Vô thời không). Thí dụ,
chúng ta thấy con voi là giác thức hay tâm thức, vì thấy hình ảnh đối
tượng hay con vật trước (Cảm Giác) rồi nhận thức (perceive) con vật đó
là con voi (hay biết được là con voi, biết nầy thấy biết của căn, luôn
luôn đi kèm theo cảm giác, nên thấy con voi, biết tên đối tượng là cái
thức hay tâm thức hay giác thức. Nên thức là thực tại duyên khởi hay giả
danh mà thôi). Rồi chúng ta tri nhận (dùng ý trí) giác thức ấy để có
giác trí. Vậy khi chúng ta nhận thức niệm đầu của con voi (thấy biết con
voi đầu tiên) là ta có giác thức nguyên sơ, lập tức ta tri nhận (Hay
Biết: Cognize chớ không phải là perceive) giác thức nguyên sơ ấy để có
giác trí tuệ và phải xa lìa cái biết ấy nữa thì mới có giác trí tuệ toàn
diện. Vì giác thức vô thời không nên không có ái thủ hữu lôi kéo, tức
giác trí tuệ, hay tuệ giác là cái biết vô trụ, cũng là cái định của
trí. Ðó là cái Vô Sanh.
Tóm:
* Khi nhận diện đối tượng
(cảm giác: sensation) rồi nhận thức cảm giác ấy với tên gọi
(perceive its name) mới có tâm thức (consciousness or perception) hay
giác thức.
* Tri nhận (cognize) giác
thức mới có giác trí hay tri thức hay tâm trí (cognition).
* Giác trí tuệ
(discernment) hay tri thức nguyên thủy (pure cognition) là khi giác thức
không có thời không, là cái biết sat-na hiện tiền, tức là tuệ giác hay
tánh giác phải dùng tuệ tri, tuệ quán, biết vô trụ, hay liểu tri đối
tượng mới đạt được.
Do hình thành giác trí, tri kiến tư
tưởng, tưởng tri, quán tưởng (không dùng chánh niệm), suy nghĩ là cái
bị sanh vì thế, thiền vô hữu xứ,
phi tưởng phi phi tưởng của yoga chỉ ở giai tầng sanh khởi do
tưởng tri hay sở tri, còn quán niệm thường, không có định trí
được, chỉ là định của thức (si định) mà thôi,
như sau nầy Phật dạy trong kinh Pháp Môn Căn Bản 01, (kinh Trung Bộ) trí
của phàm phu:
Phàm Phu
Tưởng tri
là sự suy nghĩ, tưởng nhớ, tưởng tượng, ký ức, thuộc loại Mạc- Na- thức
hay trong A-Lại-Da-thức, là những hình ảnh được khôi phục lại, có cái
trung thực, có cái sai lạc và ngay cả có cái tương tự lẫn lộn với hình
ảnh đối tượng cũ, nhưng không phải đối tượng cũ. Đã là những hình ảnh cũ
khôi phục lại là những ảo ảnh của những đối tượng khiếm diện (kể như
không có đối tượng). Do đó tưởng tri là biết do tưởng thức hoặc suy nghĩ
lại những ý tưởng so đo của tự ngã, tưởng tượng những đối tượng không
thật có do tiền ngũ căn trực tiếp nhận thức, nên sự nhận thức chấp
trước, lệch lạc và không chơn thật của tri kiến phàm phu, chúng sanh
thường tình mà thôi. Như Phật thuyết giảng:
-- Này các Tỷ-kheo,
ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không
thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không
được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân,
không tu tập pháp các bậc Chơn nhân,
tưởng tri địa đại là địa
đại. Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ
đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại,
người ấy nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói
người ấy không liễu tri địa đại.
Người ấy tưởng tri thủy đại là
thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại,
nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) như là thủy
đại, người ấy nghĩ: "Thủy đại là của ta" - dục hỷ thủy đại. Vì sao vậy?
Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.
Người ấy tưởng tri.
phong đại cũng như thế.
Người ấy tưởng tri Sanh vật,chư Thiên,
Sanh chủ, Phạm thiên, Quang âm thiên,Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên,
Abhibhù (Thắng Giả)...
Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ,Thức
vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ...
Người ấy tưởng tri sở kiến, sở văn, sở
tư niệm, sở tri...
Người ấy tưởng tri đồng nhất, sai biệt,
tất cả là tất cả...
Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn.
Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến
(tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn,
người ấy nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta
nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.
II. Cái Vô
Sanh.
Từ cái
Sanh hay bị sanh của thế gian, Bồ Tát nhận rõ rằng con người với dòng
tâm trí mê muội mãi chìm đắm trong cuộc sống xa hoa dục lạc, và cứ lăn
trôi trong ngũ dục thì làm sao tránh khỏi thế giới sanh già bịnh chết,
khổ, ô nhiễm. Sự vật trong thế giới hiện tượng là cái bi sanh, thì phải
tìm đến cái vô sanh hay bản chất cuả thế giới này, cái luôn thường tồn
bất biến. Khi con người đạt đến thế giới vô sanh thì không còn bị sanh
nữa, tức là thoát khỏi cảnh sanh già bịnh chết, ưu khổ. Cũng là lúc Ngài
phải từ bỏ tu lối thiền yoga để thực hành phương pháp do Ngài tự khám
phá. Tâm trí mê muộI của con người trong thế giới hiện tượng biến dị
trong dòng bộc lưu sanh tử phải được vượt thoát ra khỏi nó để đến thế
giới vô sanh, thường tồn, giải thoát khỏi nhân duyên sanh diệt, tức là
tìm về chân trí mà soi sáng vạn pháp để làm chủ cái bị sanh
trong thế gian. Chúng ta cần tìm hiểu sự hình thành của chân trí
(cái Vô Sanh) như thế nào mới có thể mở ra con đường trí tuệ giải
thoát. Như Phật đã thuật lại sự tìm cái Vô sanh và đã chứng được cái vô
sanh trong kinh Thánh Cầu-26 (kinh Trung Bộ):
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta
tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu
cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng
được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình
bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị già, tìm cầu cái không già,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái không
già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau
khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không bệnh, vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị chết, sau khi biết
rõ sự nguy hại củ ái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy
hại củ ái bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn và đã chứng được cái vô sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị
ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các
khổ ách, Niết-bàn. Và trí và kiến khơi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta
không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái
sanh nữa.
Khảo
Sát Cái Vô Sanh Hay Chánh Trí (Chân Trí.)
Khi ta tri nhận ngay
đầu nguồn của của giác thức hay tâm thức (Niệm đầu) và xa lìa nó ngay là
ta có tri thức nguyên thủy (cognize a pure perception to get a pure
cognition or a discernment).
*
Nhất Nguyên Tuyệt Đối
Khi đã đạt được nguyên lý
Nhất Nguyên Tương Đối (Cái Bị
Sanh), cái còn
lại là phải tiến hành làm cho Giác Trí Đang Là đó không thể sanh Tư
Tưởng vẩn vơ trong Tâm làm cho Tâm vẩn đục. Quá khứ, đã qua,bất khả đắc
vì tiền ngũ căn không thể nắm bắt; tương lai chưa đến nên tiền ngũ căn
cũng không nắm bắt được; còn hiện tại là Cái Đang Là, nó nối tiếp bằng
những sát na sanh diệt, cũng không nắm bắt được; chỉ có Cái Hiện Tiền
hay Sát Na Hiện Tiền, là một Thực Tại Điểm có thể nắm bắt được. Làm sao
nắm bắt ngay cái ĐiểmThực Tại đó?
*
Diễn tiến Nhận thức Giác Trí Tuệ hay Thể cách Tri nhận Tự Tính Tuyệt Đối
Nhất niệm hay cái Thức
nguyên sơ là Thực Tại Điểm trong tiến trình nhận thức khởi đầu của Giác
Thức Đang Là, cũng là Nhị Nguyên tính của Năng Sở, Chủ Khách, Căn Trần;
Giác Trí là tiến trình tri
nhận đầu nguồn của Giác Thức Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tương Đối
của Trí Thức hay Tư Tưởng. Nhất Nguyên là vì khi Ý Tác Động của Căn (Ý
thức) tiếp xúc với đối tượng (thực tại giả lập), thành Giác Thức (hay
Tâm Thức), lập tức được Ý Tác Năng (Ý Trí) ý niệm hóa Giác Thức thành
Giác Trí (hay Tâm Trí). Tâm Thức và Tâm Trí cùng một Tâm. Thức chuyển
thành Trí. Giác Trí Đang Là (hiện tại), dù nằm trong đạo lý nhất nguyên,
nhưng nó cũng huyễn hóa theo thời gian. Cái Đang Là là sự nối tiếp những
điểm sát na sanh diệt liên tục. Dòng Giác Trí ấy trôi chảy làm cho Trí
và Thức liên hợp sanh ra Tư Tưởng. Còn tư tưởng là còn có sự thay đổi,
nên chưa phải là chân lý. Chân lý thì thường hằng bất biến. Do dó Giác
Trí Đang Là thuộc diện tương đối;
Chân Trí hay Giác Trí Tuệ
hay cái Trí Nguyên Sơ được nhận thức ngay nơi thực tại điểm khởi đầu
tiến trình của động tác Giác Trí Đang Là, cũng là Nhất Nguyên Tính Tuyệt
Đối của Năng Sở song vong và vô Thời Không. Vậy Chân lý tối hậu hay Tự
tính tuyệt đối, hay đạo lý Nhất nguyên tuyệt đối là Nhận thức vượt Thời
Không, là Tánh Giác hay Tánh Không. Không dùng Tư Tưởng suy nghĩ bàn
luận mà dùng pháp môn không hai, hay nói khác đi làThể hiện, là im lặng
không dùng ngôn ngữ mà là Hành là Thiền,
Cái Vô Sanh.
Đó là pháp "Bất Khả Tư Nghị", là Trung Đạo.
Thực
Tại Tuyệt Đối hay Chân Lý Tối Hậu: Vô Thời Không
Đứng trên phương diện chân lý tối hậu , thì tự tính tuyệt đối của sự vật
đều có tánh không
hay là không có tự tính , là tuệ giác, là cái biết sát-na hiện tiền, là
tánh giác. Chân lý thì nó không lệ thuộc, không bị áp đặt, độc lập, vì
tánh giác là ý trí tác năng, thường hằng trong tâm trí, có thức thì
biết, không có thức cũng biết. Biết lại cái thức hay không là do chủ ý
tự do.
Nhắc lại, tánh Hư Không, đức Phật giải thích:’’ A Nan ! Ngươi phải biết
trong Tạng Như Lai, ‘’Tánh giác’’ tức là thiệt hư không, ‘’Hư Không’’tức
là ‘’Thiệt Tánh
giác’’, thanh tịnh bản nhiên, đầy khắp thế giới...
Thực tại tuyệt
đối này là tuệ giác (tri giác) là cái biết sat-na hiện tiền
là cái định của trí; thường dùng biết vô thời không,
tuệ tri, hay tuệ quán để đạt được trí này. (Xem Tuệ Giác
trong Cốt Tủy các Kinh Căn Bản Phật Giáo, Phổ Nguyệt, 2007)
Sau khi rời bỏ phương pháp tu
thiền yoga, Bồ Tát nhớ lại pháp thở ở thời thơ ấu vừa thoải mái vừa làm
cho trí não sáng suốt hơn, nên Ngài dùng nó để đi vào thiền định. Ngài
tự hành từ con đường giới định tuệ mới có thể giác ngộ giải thoát khỏi
dòng bộc lưu sanh tử. Ngài dùng thắng trí hay chánh trí để
liểu tri đối tượng như kinh Giáo Giới Nandaka -146 (Kinh Trung
Bộ) mà Phật dạy sau này.
* Chánh Trí Tuệ
(Chánh Trí, Thắng Trí, Thượng Trí,
dùng Tuệ Tri
(Biết) hay Liểu Tri): Tri Kiến Hữu Học và Giác Ngộ
Bài học này tôn
giả Nandaka (Kinh Giáo Giới Nankada) đã được Phật day nên giáo giới lại
cho các vi Tỳ-kheo-ni về sự vô thường của nhản căn sắc trần và
nhãn thức theo chơn trí. Chúng ta nhìn một vật thì thấy và biết
như chơn mắt, thấy biết như chơn các sắc, thấy biết như chơn nhãn
thức vì chúng ta đã hiểu được chơn mắt, chơn các sắc, và chơn nhãn thức
theo thật tướng của chúng như đã trình bày trên. Chơn mắt, chơn
sắc, và chơn nhãn thức là một khi nhìn một vật gì thì sử dụng một lần mà
thôi (vô thời gian). Nếu không kéo dài thời gian thì vật đó còn nguyên
thủy: nó-là -nó tại đó và lúc đó, vô thời không hay mắt, sắc (vật), hay
thấy (nhãn thức) vẫn còn chơn nguyên, thấy biết không bị xúc thọ ái lăn
trôi theo thời gian mà có những khái niệm, nên mắt, sắc, thấy biết không
thay đổi, cố định. Nói chung, nhận thức trong Trí (hay Tâm)
chúng ta đều có chứa sẵn biểu hiện Trí Năng, Tình Năng và Hoạt
Năng, nên dây thần kinh dẩn truyền lên não hình ảnh của chơn các căn, từ
chơn các căn đồng thời đã xúc chạm dây thần kinh, có nhân căn xúc; do
duyên căn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vì
chúng ta
thấy biết (tuệ tri) chơn cảm thọ không có thời gian, nên không
có
ái trước (trong A Lại Da thức) đối với các căn (không
lập lại), không có ái trước đối với các căn (hình ảnh các căn có sẵn
tích tụ) và ái trước đối với căn xúc (Xúc có sẵn trong A-Lai-Da Thức: ký
ức). Từ đó do duyên căn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ , bất khổ bất
lạc thọ mà không có ái trước đối với cảm thọ ấy.
Hành giả cần phải
khéo thấy như thật như chơn, với chánh trí hay chơn trí, cái bất biến,
thường còn hay pháp chánh tri kiến. Hành giả phải đoạn tận các lậu hoặc,
để được tự mình chứng tri trong hiện tại, đạt đươc chánh trí, và an trú
vô lậu tâm giải thoát, huệ giải thoát, tức là an trú vào không tánh vậy.
Nói theo phương tiện cục bộ
thời gian thì bản chất định và tuệ thì bình đẳng và đồng
thời vì trong định có tuệ, trong tuệ có định. Ðịnh là cái tuệ giác, cái
biết sat-na hiện tiền, cái an tịnh không động không rung chuyển (Tuệ
quán trong Kinh Nhất Dạ Hiền Giả).
Nói theo cứu cánh tối hậu thì
định được thời gian tích lũy đến chí đạo mới đạt được tuệ giác
toàn diện tức là tánh giác, như Phật chứng đắc Chánh Ðẳng
Giác.
Trước khi đắc pháp, Bồ Tát đã
thực hành thuần thục giới luật qua khổ hạnh, nhịn ăn, thiền nín thở dù
không làm phát triển trí tuệ, nhưng các pháp ấy được ly dục và xa lìa
các hành động bất thiện, tưởng cũng đã làm căn bản cho sự rèn luyện phạm
hạnh rất tốt. Cho đến khi Ngài chứng đắc thiền yoga của phàm phu cũng
làm nền cho tiến trình thiền định thắng tri, với những vị Hữu
Học thì tri kiến được chính xác hơn, cái
biết sáng suốt như suy nghĩ rõ ràng, không đối chiếu lệch lạc mà nhìn
thẳng vào sự vật. Thắng tri hay liễu tri sự vật mà không so đo, không
suy nghĩ vẩn vơ, tưởng tượng và không dục hỷ mà dùng chơn trí
bằng pháp chánh tri kiến; bậc A-La-Hán
là những vị dùng pháp thắng tri để liễu tri sự vật (pháp chánh tri kiến)
không dục hỷ và đoạn trừ được tam độc. Bậc I biết pháp liễu tri sự vật
mà không dục hỷ. Bậc ÌI biết pháp liễu tri sự vật, không dục hỷ và đã
đoạn trừ được tham dục. Bậc III biết pháp liễu tri sự vật, không dục hỷ,
đoạn trừ được sân hận.Bậc IV biết pháp liễu tri sự vật, không dục hỷ,
đoạn trừ được si mê; c òn đấng Như Lai
là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri hay pháp
chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ, hoàn toàn diệt trừ các
ái, sự ly tham sân si, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh
giác.
Biết được kinh
nghiệm tu hành của Bồ Tát theo các kinh dạy của Phật sau này như Thiền
định-20, (Kinh Tăng Chi Bộ):
10-13. Nếu vị ấy trú quán thân trên thân,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời ... quán thọ
trên các cảm thọ ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời ...
14-17. ... Ðối với các pháp ác, bất thiện
chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi, tinh cần, tinh tấn,
quyết tâm, cố gắng ... Ðối với các pháp ác, bất thiện đã sanh, khởi lên
ý muốn đoạn tận, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng ... Ðối với các
pháp thiện chưa sanh, khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi, tinh cần, tinh
tấn, quyết tâm, cố gắng ... Ðối với pháp thiện đã sanh, khởi lên ý muốn
làm an trú, không cho vong thất, làm cho tăng trưởng, làm cho quảng đại,
tu tập, làm cho viên mãn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng ...
……
Quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng
trắng. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy ..."
55-62. Tự mình có sắc, thấy các sắc. Quán
tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các loại ngoại sắc ... quán tưởng sắc là
tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy ... Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt
trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến các tưởng khác biệt, với suy tư:
"Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ ... vượt khỏi hoàn
toàn Không vô biên xứ, với suy tư: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức
vô biên xứ ... vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư: "Không
có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ ... vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu
xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ....Vượt khỏi Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng ...
Trong lúc thiền định Bồ Tát luôn dùng kèm phương pháp thở, như kinh
NhậpTức Xuất Tức Niệm-118 (Kinh Trung Bộ)
….Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà
trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm,
vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi
thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy biết : "Tôi thở ra dài". Hay thở vô
ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi
thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm
giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác
lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm
hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với
tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô
thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Quán từ
bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, tu tập như vậy, làm cho sung
mãn như vậy, được quả lớn, được công đức lớn…
Lúc đầu Bồ Tát dùng chánh niệm thở vô, chánh niệm thở ra như trong phẩm
Tương Ưng Hơi Thở Vô Hơi Thở Ra-54 (kinhTương Ưng Bộ):
……4) Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà
trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt; vị ấy chánh niệm
thở vô, chánh niệm thở ra.
5) Thở vô dài, vị ấy rõ
biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài". Thở
vô ngắn, vị ấy rõ biết : "Tôi thở vô ngắn". Thở ra ngắn, vị ấy rõ biết:
"Tôi thở ra ngắn".
6) "Cảm giác toàn thân,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
7) "Cảm giác hỷ thọ,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập.
8) "Cảm giác tâm hành,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
9) "Với tâm hân hoan,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
10) "Quán vô thường,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán
từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
11) Tu tập như vậy, này
các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời
có quả lớn, có lợi ích lớn.
Trong tứ oai nghi, đi đứng nằm ngồi, mọi cử động, mọi hoat động đều phải
chánh niệm như trong Phẩm Thân Hành Niệm-119 (Kinh Trung Bộ), chỉ trích
phần thân hành niệm ở đoạn ngồi thiền:
….. Và này các Tỷ-kheo,
thân hành niệm tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, có quả
lớn, có công đức lớn ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống
và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm,
vị ấy thở vô. Chánh niệm, vị ấy thở ra. Hay thở vô dài, vị ấy biết :
"Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài vị ấy biết: " Tôi thở ra dài" . Hay thở
vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết :
"Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.
"Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra". An tịnh thân hành, tôi sẽ thở
vô", vi ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi
vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy
thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được
an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm….
Tu thiền không có phóng dật là đệ nhất hành đạo như trong Phẩm Bất Ðộng
Lợi Ich-106 (Kinh Trung Bộ):
……Ở đây,
các ác bất thiện ý này dẫn đến tham dục, sân hận, khích động, và chính
những pháp ấy tác thành chướng ngại ở đây cho Thánh đệ tử học tập. Ở
đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Các dục hiện tại
và các dục tương lai… cho Thánh đệ tử học tập. Vậy ta hãy an trú với tâm
quảng đại, đại hành, sau khi chiến thắng thế giới, sau khi xác định vị
trí của ý. Khi ta an trú với tâm quảng đại, đại hành chiến thắng thế
giới, xác định vị trí của ý, các ác bất thiện ý : tham dục, sân hận,
khích động sẽ không khởi lên; với các pháp ấy được đoạn trừ, tâm của ta
không trở thành hạn hẹp, trái lại thành vô lượng, khéo tu tập". Trong
khi ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trở thành an tịnh
trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu bất động ngay
hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự
tình này xảy ra, thức diễn tiến (samvattanikam vinnanam) có thể tùy theo
đây đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhất hành
đạo về lợi ích Bất động……
…..Ở đây,
này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và
những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương
lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những Bất động
tưởng, những Vô sở hữu xứ tưởng, và những Phi tưởng phi phi tưởng xứ
tưởng, cái gì thuộc tự thân, là tự thân. Đây là bất tử tức là tâm giải
thoát không thủ trước". Này Ananda, đây là đạo lộ về lợi ích Bất động
được Ta thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Vô sở hữu xứ được Ta thuyết
giảng, đạo lộ về lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ được Ta thuyết
giảng, là sự vượt qua dòng nước mạnh do y cứ sự này sự kia được Ta
thuyết giảng, Thánh giải thoát được Ta thuyết giảng. Những gì, Này
Ananda, vị Đạo sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn mưu tìm hạnh phúc cho các
đệ tử, những điều ấy đã được Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta đối với Ông.
Này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những khoảng trống. Hãy tu
Thiền, này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Đây là lời
dạy của Ta cho Ông.
Bồ Tát phải sống một mình lúc đó thân tâm mới được yên tịnh mà tu hành,
như trong phẩm Sống Một Mình-36.11 (kinh Tương Ưng Bộ):
3……… Ở đây, bạch Thế Tôn, khi con sống
một mình, Thiền tịnh, tâm tư như sau được khởi lên: "Thế Tôn dạy có ba
thọ: lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ". Ba thọ này được Thế Tôn
thuyết dạy. Nhưng Thế Tôn lại nói: "Phàm cái gì được cảm thọ, cái ấy
(nằm) trong đau khổ". Do liên hệ đến cái gì, lời nói này được Thế Tôn
nói lên: "Phàm cái gì được cảm thọ, cái ấy (nằm) trong đau khổ"?
4. Lành thay, lành thay, này
Tỷ-kheo! Này Tỷ-kheo, Ta nói rằng có ba thọ này: lạc thọ, khổ thọ, bất
khổ bất lạc thọ. Ba thọ này được Ta nói đến. Nhưng này Tỷ-kheo, Ta lại
nói: "Phàm cái gì được cảm thọ, cái ấy (nằm) trong đau khổ". Chính vì
liên hệ đến tánh vô thường của các hành mà lời ấy được Ta nói lên: "Phàm
cái gì được cảm thọ, cái ấy nằm trong đau khổ". Chính vì liên hệ đến
tánh đoạn tận, tánh tiêu vong, tánh ly tham, tánh đoạn diệt, tánh biến
hoại của các hành mà lời ấy được Ta nói lên: "Phàm cái gì được cảm thọ,
cái ấy (nằm) trong đau khổ". (Tương Ưng Bộ, Sống Một Mình-36.11)…..
…..5) Nhưng này Tỷ-kheo, Ta tuyên bố
rằng sự đoạn diệt các hành là tuần tự: khi chứng được Thiền thứ nhứt,
lời nói được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ hai, tầm tứ được đoạn diệt;
khi chứng Thiền thứ ba, hỷ được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ tư, hơi
thở vô, hơi thở ra được đoạn diệt; khi chứng Không vô biên xứ, sắc tưởng
được đoạn diệt; khi chứng Thức vô biên xứ, không vô biên xứ tưởng được
đoạn diệt; khi chứng Vô sở hữu xứ, thức vô biên xứ tưởng được đoạn diệt;
khi chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vô sở hữu xứ tưởng được đoạn diệt;
khi chứng Diệt thọ tưởng định, tưởng và thọ được đoạn diệt. Đối với
Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tham được đoạn diệt, sân được đoạn
diệt, si được đoạn diệt.
6) Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố
rằng sự tịnh chỉ các hành là tuần tự; khi chứng Thiền thứ nhứt, lời nói
được tịnh chỉ; khi chứng Thiền thứ hai, tầm tứ được tịnh chỉ.... .. khi
chứng Diệt thọ tưởng định, tưởng và thọ được tịnh chỉ. Đối với Tỷ-kheo
đã đoạn tận các lậu hoặc, tham được tịnh chỉ, sân được tịnh chỉ, si được
tịnh chỉ.
7) Này các Tỷ-kheo, có sáu khinh
an này, khi chứng Thiền thứ nhứt, lời nói được khinh an; khi chứng Thiền
thứ hai, tầm tứ được khinh an; khi chứng Thiền thứ ba, hỷ được khinh an;
khi chứng Thiền thứ tư, hơi thở vô, hơi thở ra được khinh an; khi chứng
Không vô biên xứ, sắc tưởng được khinh an; khi chứng Vô sở hữu xứ, thức
vô biên xứ tưởng được khinh an; khi chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vô
sở hữu xứ tưởng được khinh an; khi chứng Diệt thọ tưởng định, tưởng và
thọ được khinh an. Đối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, tham được
khinh an, sân được khinh an, si được khinh an.
Sau cùng Bồ Tát quyết định
dùng Ðịnh Niệm Hơi Thở để đạt sự giác ngộ giải thoát như trong phẩm
Tương Ưng Hơi Thở Vô Hơi Thở Ra-54 (kinh Tương Ưng Bộ):
…..14) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng các niệm, các tư duy của
ta được đoạn tận", thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này phải được
khéo tác ý.
15) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng ta sẽ trú với tưởng nhàm
chán đối với các pháp không nhàm chán", thời định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra này cần phải được khéo tác ý.
16) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng ta sẽ trú với tưởng không
nhàm chán đối với các pháp nhàm chán", thời định niệm hơi thở vô, hơi
thở ra này cần phải được khéo tác ý.
17) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Tôi sẽ trú với tưởng nhàm chán đối
với các pháp không nhàm chán và nhàm chán", thời định niệm...
18) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Tôi sẽ trú với tưởng không nhàm
chán đối với các pháp nhàm chán và không nhàm chán", thời định niệm...
19) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng sau khi từ bỏ cả hai
không nhàm chán và nhàm chán, tôi sẽ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác",
thời định niệm...
20) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng ly dục, ly pháp bất
thiện, tôi sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, có tầm, có tứ", thời định niệm...
21) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng làm cho tịnh chỉ tầm và
tứ, tôi sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm", thời định niệm...
22) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng ly hỷ trú xả, chánh niệm
tỉnh giác,thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
tôi sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ ba", thời định niệm...
23) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng đoạn lạc, đoạn khổ, chấm
dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh", thời định niệm...
24) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Vượt qua sắc tưởng một cách hoàn
toàn, chấm dứt đối ngại tưởng, không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ
rằng: ‘Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ", thời
định niệm...
25) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Vượt qua Không vô biên xứ một cách
hoàn toàn, nghĩ rằng: ‘Thức là vô biên", tôi có thể chứng đạt và an trú
Thức vô biên xứ", thời định niệm...
26) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Vượt qua Thức vô biên xứ một cách
hoàn toàn, nghĩ rằng: ‘Không có vật gì’, tôi sẽ chứng đạt và an trú Vô
sở hữu xứ", thời định niệm...
27) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn
toàn, tôi sẽ chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ", thời định
niệm hơi thở vô, hơi thở ra này cần phải được khéo tác ý.
28) Do vậy, này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ
một cách hoàn toàn, tôi sẽ chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định",
thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này cần phải được khéo tác ý.
29) Trong khi tu tập
định niệm hơi thở vô, hơi thở ra như vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi làm
cho sung mãn như vậy, vị ấy cảm giác lạc thọ. Vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là
vô thường". Vị ấy rõ biết: "Không có chấp trước thọ ấy". Vị ấy rõ biết:
"Không có hoan duyệt thọ ấy". Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy rõ biết:
"Thọ ấy là vô thường". Vị ấy rõ biết: "Không chấp trước thọ ấy". Vị ấy
rõ biết không hoan duyệt thọ ấy". Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc
thọ. Vị ấy rõ biết: "Thọ ấy là vô thường". Vị ấy rõ biết: "Không có chấp
trước thọ ấy". Vị ấy rõ biết: "Không có hoan duyệt thọ ấy".
30) Nếu vị ấy cảm giác
lạc thọ, thọ ấy được cảm thọ không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm giác khổ
thọ, thọ ấy được cảm thọ không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ
bất lạc thọ, thọ ấy được cảm thọ không bị trói buộc. Khi vị ấy đang cảm
giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của thân, vị ấy rõ biết: "Tôi
cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của thân". Khi vị ấy cảm
giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mạng, vị ấy rõ biếy:
"Tôi cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mạng". Khi
thân hoại mạng chung, vị ấy rõ biết: "Ở đây, tất cả mọi cảm thọ đều
không có gì được hân hoan, và sẽ trở thành mát lạnh".
31) Ví như, này các
Tỷ-kheo, do duyên dầu, duyên tim, một cây đèn dầu được cháy sáng. Nếu
dầu và tim của ngọn đèn ấy đi đến tiêu diệt, nhiên liệu không được mang
đến, thời ngọn đèn sẽ tắt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi Tỷ-kheo cảm
giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của thân, vị ấy rõ biết: "Tôi
cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của thân". Khi Tỷ-kheo cảm
giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mạng, vị ấy rõ biết:
"Tôi cảm giác một cảm thọ tận cùng sức chịu đựng của sinh mạng". Khi
thân hoại mạng chung, vị ấy rõ biết: "Ở đây, tất cả những gì được cảm
thọ đều không có gì được hân hoan, và sẽ trở thành mát lạnh".
III. Lược
Thuật Pháp Hành
A.
Thực Hành.
Bồ Tát quyết định tự thực
hành theo chín bước - như Phật dạy các vị Tỷ-kheo trong X. Phẩm
Tham (kinh Tăng Chi Bộ) - sau đây cho đến khi đắc đạo:
(I) (93) Thắng Tri Tham
1. - Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham,
chín pháp cần phải tu tập. Thế nào là chín?
2. Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng yểm
ly đối với các món ăn, tưởng không vui thích đối với tất cả thế giới,
tưởng vô thường, tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ, tưởng
đoạn tận, tưởng ly tham.
Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham, chín
pháp này cần phải tu tập.
(II) (94) Thắng Tri Tham
1. - Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham,
chín pháp cần phải tu tập. Thế nào là chín?
2. Sơ Thiền, Thiền thứ hai, thiền thứ ba,
Thiền thứ tư, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, Diệt thọ tưởng định.
Này các Tỷ-kheo, để thắng tri tham, chín
pháp này cần phải tu tập.
(III) (95 - 100) Liễu Tri Tham
1. - Này các Tỷ-kheo, để liễu tri tham...
để diệt tận... để đoạn tận... để trừ diệt... để ly tham... để đoạn
diệt... để trừ khử... để từ bỏ, chín pháp này cần phải tu tập.
2. Ðể liễu tri sân... si, phẫn nộ, hiềm
hận, giả dối, não hại, tật đố, xan tham, man trá, phản bội, ngoan cố,
bồng bột, mạn, tăng thượng mạn, kiêu, phóng dật... để thắng tri... để
liễu tri... để diệt tận...để đoạn diệt... để trừ diệt... để ly tham...
để đoạn diệt... để trừ khử... để từ bỏ, chín pháp này cần phải tu tập.
Thế Tôn thuyết như vậy, các Tỷ-kheo ấy
hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy
Chín pháp tu tập:
Bốn pháp Thiền đầu tiên đều
dùng định niệm hơi thở nghĩa là Biết (Tuệ Tri) và Chánh
niệm như hơi thở, ly duc, ly pháp bất thiện, tịnh chỉ tầm tứ, hỷ
lạc sanh, ly hỷ trú xả theo thứ tự các thời thiền từ định niệm tướng
đối tượng (ngôn hành); định niệm Thức đối tương (ý
hành hay tĩnh thức); định niệm Tánh (trí) đối tượng (trí
hành, tĩnh giác); định niệm hơi thở bằng cách vô niệm, bất
động (thân hành, thể nhập).
- Nhẩm biết niệm hay đọc hơi thở (ngôn
hành): Ðịnh niệm bằng tướng hơi thở (có lời, có tiếng): Ðịnh niệm
bằng
thể tướng hơi thở.
Ðịnh
Niệm Hơi Thở bằng lời. Biết Nhẫm Ðọc hơi thở.
Khi thở vô, “Tôi biết tôi
thở vô.”
Khi thở ra, “Tôi biết tôi thở ra”
* Tức là
định niệm hay đọc nhẫm có phát ra lời, có chủ (chủ thể: tôi tức
căn tai nhận thức), khách thể (đối tượng là tiếng thở
vô và thở ra). Như vậy, sơ định có tầm tứ và hỷ lạc có lời là có
tầm, có tướng là có tứ và hỷ lạc.
Có thể
nói là Ðịnh Tướng hơi thở mỹ lệ (hỷ lạc).
Ðồng
thời cũng dùng thiền định để luôn trao dồi giới lẫn định.
Từ bỏ
sân, từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu
tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
Lời
Phật dạy (trong Ðaị Kinh Phương Quảng 43, Trung Bộ Kinh)
“Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm
chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo
thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thụy
miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất
tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần, và thành
tựu năm chi phần."
Cũng Phẩm 54, VIII Ngọn Ðèn
(kinh Trung Bộ) có viết:
20) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng ly dục, ly pháp bất thiện, tôi sẽ chứng đạt và
an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có
tứ", thời định niệm...
Khi ly dục, ly các pháp bất thiện
chứng và trúThiền thứ nhứt, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh
có tầm có tứ, lời nói được đoạn diệt.
2.
Thầm hội biết Thức Hơi
Thở (Thức Hành).
Ðịnh niệm bằng nhận thức luồng hơi thở (ý thức thầm hội hơi thở)
“Biết tôi thở vô
Biết tôi thở ra”
Chỉ dùng căn ý là chủ
(lặng lẻ) để nhận thức (với ý tác động) hơi thở vô hơi thở ra là
khách.
Ðó là cách Tĩnh Thức.
Khi có định và
chánh niệm thì tầm và tứ được đoạn diệt chỉ được nội
tĩnh nhất tâm. Còn Thức là còn trạng thái hỷ lạc.
Diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ,
nội tĩnh nhất tâm.
21) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, tôi sẽ chứng đạt
và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tĩnh, nhất tâm", thời định niệm...
3.
Ngộ nhập biết + ý trí
Hơi Thở (Trí hay Tánh Hành).
Ðịnh niệm bằng ý trí ngộ nhập hơi thở (tri nhận đối tượng trong trí: ngộ
nhập luồng hơi thở
vào cái biết).
Biết tri nhận luống hơi thở. Ðịnh và chánh niệm hơi thở nên
gọi là Trí Hành hay Tĩnh Giác.
“Biết thở vô
Biết thở ra.”
Biết rõ hơi thở vô hơi thở
ra. Ðịnh và chánh niệm bằng ý trí (ý tác năng)
Ðó là Tĩnh Giác về hơi
thở. Chỉ có thở vô thở ra được ý trí ý niệm hóa mà thôi.
Hành này dùng pháp tánh không
(biết=định), dùng trí (tuệ tri) để tri nhận hơi thở. Còn đối tượng thì
còn lạc thọ vì có định của trí (tĩnh giác), nên lạc thọ này không ảnh
hưởng đến tâm.
Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng
và an trú Thiền thứ ba.
22) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác,thân cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, tôi sẽ chứng đạt và an
trú Thiền thứ ba", thời định niệm...
4. Thể Nhập
Cảm giác Vô Ra (Thân Hành: Vô Niệm:
không niệm tướng niệm thức cả niệm trí): Pháp bổn như vô pháp: Như là
không thở: Thể Nhập chốn tịch tĩnh như nhiên, biết cảm nhận luồng
hơi thầm lặng Vô Ra.
“Biết cảm giác vô,
Biết cảm giác ra.”
Biết cảm giác Vô Ra, vì khi
nhận dạng cảm giác (bóng dáng) của một đối tượng mà chưa được nhận thức
(chưa được đặt tên hay đọc tên) tên đối tượng là chỉ thể nhập nơi tịch
tĩnh y nhiên, tức là cảm giác chỗ đối tượng chưa thành hình, chưa có tên
(giả danh), đó cũng gọi là tri thức nguyên thủy hay tuệ giác của chân
trí. Biết cảm nhận luồng hơi vô luồng hơi ra mà thôi. Khi không
có mặt đối tượng thì làm gì có hỷ lạc trong tâm.
Khi xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu
đã cảm thọ trước, vị ấy chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh.
23) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo
ước muốn rằng: "Mong rằng đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm thanh tịnh", thời định niệm...
Chánh
Giác (Vô niệm: buông xả}
Buông xả và ngưng
động: Từng hơi thở tự nhiên tự động hiện hữu rõ ràng: nó-là-nó tại-đó và
lúc đó mà thôi, một trạng thái trống rỗng. Vô Niệm
Trạng thái thân chứng nhờ thể nhập chốn
tịch tĩnh như nhiên
Tức là phải trải qua ba giai đoạn trên
(huân tập kinh nghiệm thuần thục), để hành giai đoạn thứ tư nầy một cách
rốt ráo, nghĩa là vô tướng vô thức và vô trí (hay vô tánh) tức là vô
niệm, từng chập hơi thở tự nhiên và tự động vào, ra, hiện hữu rõ ràng
rỗng không). Khi Phật đã trải qua ba lối thở trên (kinh nghiệm) là đã
đạt được chánh trí rồi như các kinh Phật đã giáo hóa chúng sanh sau này.
Ðó là lúc Bồ Tát đã đoạn diệt cảm thọ vui buồn, vượt khỏi ái thủ hữu
được minh tâm và giải thoát. Giai đoạn thứ tư này là Pháp mà Phật đã thể
hiện được Tánh Giác còn gọi là Pháp Vô Niệm, Buông Xả là không Niệm
Tướng , không Niệm Thức và cả không dùng Trí
mà ngộ nhập
vào từng dòng hơi vô ra tự động hiện
hữu tư nhiên rõ ràng trong trống không. Ðó là Thiền Thứ Tư.
Qua bốn giai đoạn định niệm
hơi thở với bốn tầng thiền là đạt được định tĩnh;
thân chứng, tâm chứng
là mở ra con đường giác ngộ thực tướng vạn hữu. Tánh Giác hay Tánh
Không, giống như Chân Như, Niết Bàn là Tự Tính Tuyệt Ðối vượt khỏi Thời
Không, như vậy Tánh Không ở ngoài thế giới khái niệm của ngã tính (nhị
nguyên). Tánh Không chỉ khéo có tác ý rằng Không không thể là đối tượng
của tư duy ngã tính, mà chỉ có thể thể nhập thực tại tuyệt đối, một thứ
thực tại như thật, thể nhập vào tánh không của cảm giác đối tượng trước
khi biến thành thức.
Tóm, bốn pháp định niệm hơi
thở được Phật nhắc lại như trong Thánh Cầu -26 (kinh Trung Bộ):
……. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là: một vị đã làm Ác Ma mù mắt, đã diệt trừ
mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa
Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này
các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các vị Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú
Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi
tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt
hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... vượt khỏi
tầm mắt của Ác ma.
Trong năm pháp thiền sau, Ngài đều dùng Tâm Ðịnh Tĩnh, một Tâm Ðịnh Niệm
của Thiền thứ tư là Thân Hành bất động, chỉ định và tĩnh giác tức là
Biết và Thể Nhập đối tượng cho nhuần nhuyễn đến Thuần Tịnh.
5. Không Vô Biên Xứ.
Không Vô Biên Xứ là cõi vô sắc giới dùng Ðịnh Tĩnh đối tượng. Dùng Ðịnh
Tĩnh Giác thực hành như sau: không tác ý những chi tiết (Cục Bộ), mà chỉ
hân hoan thích thú và an trú hướng đến cái Hư Không Vô Biên (Toàn Thể).
Lại nữa, này Ananda,
Tỷ-kheo không tác ý lâm tưởng, không tác ý địa tưởng, tác ý sự nhất trí
do duyên Không vô biên xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú,
hướng đến Không vô biên xứ. Vị ấy tuệ tri như sau : "Các ưu phiền, do
duyên lâm tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên địa tưởng
không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do
duyên Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có
lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có địa tưởng, và chỉ
có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Không vô
biên xứ tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không
có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết : "Cái kia có, cái này
có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên
đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh
6.
Thức Vô Biên Xứ
Tâm
Ðịnh Tĩnh thích thú, hân hoan, an trú, chỉ nhất trí hướng đến Thức Vô
Biên Xứ.
Lại nữa,
này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý địa tưởng, không tác ý Không vô biên xứ
tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ. Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Thức vô biên xứ. Vị ấy tuệ tri
như sau : "Các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây; các ưu
phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một
ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy
tuệ tri : "Loại tưởng này không có địa tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại
tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái này không
phải không, tức là sự nhất trí do duyên Thức vô biên xứ tưởng". Và cái
gì không có mặt ở đây, vị ấy
xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ
tri : "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như
vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không
tánh.
7.
Vô Sở Hữu Xứ
Thiền định
đi vào cõi vô sở hữu xứ vì vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Lại nữa, này Ananda,
Tỷ-kheo không tác ý Không vô biên xứ tưởng, không tác ý Thức vô biên xứ
tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng. Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô sở hữu xứ. Vị ấy tuệ tri như
sau : "Các ưu phiền do duyên Không vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây;
các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ
có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng". Vị
ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có Không vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ
tri: "Loại tưởng này không có Thức vô biên xứ tưởng, và chỉ có một cái
này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Vô sở hữu xứ tưởng".
Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối
với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri : "Cái kia có, cái này có". Này
Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự
thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
8. Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng X ứ
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là
Thức tính bất động, diệt hẳn sự suy nghĩ hay không suy nghĩ.
Lại nữa, này Ananda,
Tỷ-kheo không tác ý Thức vô biên xứ tưởng, không tác ý Vô sở hữu xứ
tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tâm vị
ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Phi tưởng phi phi tưởng
xứ. Vị ấy biết như sau : "Các ưu phiền do duyên Thức vô biên xứ tưởng
không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có
mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Phi
tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có
Thức vô biên xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có
Vô sở hữu xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự
nhất trí do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng. Và cái gì không có
mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở
đây, vị ấy tuệ tri : "Cái kia có, cái này có". Này Ananda, cái này đối
với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn
thanh tịnh, không tánh.
9.
Diệt Thọ Tưởng Ðịnh.
Diệt
Tận Định—Định Tam muội, làm cho tâm và tâm sở của Lục Thức dập tắt hoàn
toàn những cảm thọ và suy tưởng. Đây là một trong những phương thức
thiền cao nhất dẫn tới định tâm (tâm ý không nhiễm không nương vào một
cảnh nào, không tương ứng với một pháp nào.) Đây là phép định của bậc
Thánh. Khi vào phép nầy thì tâm trí vượt tới cõi vô sắc giới, truớc khi
đi vào cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định, rồi đắc quả Phật và nhập Niết
Bàn.
Lại nữa, này Ananda,
Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, tác ý sự nhất trí do duyên Vô tướng tâm định Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị ấy tuệ tri
như sau : "Các ưu phiền do duyên Vô sở hữu xứ tưởng không có mặt ở đây;
các ưu phiền do duyên Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có mặt ở đây. Và
chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân
này". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có Vô sở hữu xứ tưởng". Vị
ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng.
Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng,
duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là
không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy tuệ tri: "Cái kia có,
cái này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có,
không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
Lại nữa, này Ananda, vị
Tỷ-kheo không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không tác ý Phi tưởng phi phi
tưởng xứ tưởng, tác ý sự nhứt trí do duyên Vô tướng tâm định. Tâm vị ấy
được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô tướng tâm định. Vị ấy tuệ
tri như sau : "Vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên.
Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu
sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy. Do vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như
vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu,
tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu
biết (nana) rằng đã được giải thoát. Vị ấy tuệ tri : "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lại trạng
thái này nữa". Vị ấy tuệ tri : "Các ưu phiền do duyên dục lậu không có
mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt có ở đây; các ưu
phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở đây. Và chỉ ở một ưu phiền
này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này". Vị ấy tuệ tri :
"Loại tưởng này không có dục lậu". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không
có hữu lậu". Vị ấy tuệ tri : "Loại tưởng này không có vô minh lậu.
Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng,
duyên với thân này". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là
không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị ấy biết : "Cái kia có, cái
này có". Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không
điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không tánh. (Kinh Tiểu
Không-121, Kinh Trung Bộ)
B. Quả Ðạt Ðược
Khi hoàn tất chín pháp thiền là lúc Bồ Tát đã đạt tâm định tĩnh, trong
sáng, nhu nhuyễn dễ sử dụng.Trong Ðại Kinh Saccaka-36, Phật thuật lại sự
chứng ngộ của mình như:
1). “Túc Mạng Minh”
là nhớ lại tất cả kiếp quá khứ, từ một đến vô số kiếp của Ngài:
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta
nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm
đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời,
một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, T ó tên
như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được
sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, T ó tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này". Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại
cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng
được trong đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng
sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này
Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta
2). “Thiên Nhãn Minh”
là thấy rõ sự sanh tử và tái sanh của đủ hạng chúng sanh:
Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ
về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu
nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh,
người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh
về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những
thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh
kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy
Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng
sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp
đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh
giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh
nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
3). “Lậu Tận Minh”
là nhận biết rõ ràng như thật “khổ và lậu hoặc”, biết “nguyên nhân khổ
và lậu hoặc”, “diệt khổ và lậu hoặc”, và “con đường đưa đến chấm dứt khổ
và lậu hoặc”. Khi chứng được Lậu Tận Trí, Ngài không những thiết lập tứ
đế mà còn cho biết Ngài đã hoàn toàn giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh
tử.
Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu
tận trí. Ta biết như thật: "Đây là Khổ", biết như thật: "Đây là
Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Đây là sự Diệt khổ", biết như
thật: "Đây là Con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những
lậu hoặc", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như
thật: "Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con
đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như
vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu
biết: "Ta đã giải thoát" Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành,
việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".
Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối,
vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm tinh cần. Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
IV. Kết Luận
Xuyên
qua chín pháp mà BồTát tự mình khám phá và thực hành để đạt được Chánh
Ðẳng Giác. Chúng ta nhận thấy rằng sự diệt tham dục, và ác pháp của Bồ
Tát trong giai đoạn đầu của sáu năm trong cuộc hành trình tim và tu đạo
thật gian nan, khốc liệt, một loại giới luật quá nghiêm khắc mà ít ai
làm được. Dù giới luật ấy không đem đến giác ngộ, nhưng nó cũng giúp
Ngài rèn luyện được phạm hạnh tối ưu. Riêng thực hiện con đường giác ngộ
và giải thoát của Bồ Tát với chin bước theo đạo lộ “Giới Ðịnh Tuệ” đưa
đến sự hoàn tất thực chứng của Ngài. Bốn pháp định niệm hơi thở đã mở ra
bốn giai đoạn thực tập tuần tự chứng và an trú từ thiền thứ nhứt đến
thiền thứ tư là lần lượt đoạn diệt lời nói (ngôn hành), ý thức (ý hành),
ý trí (tánh hành), và vô niệm (thân hành) là thể nhập thể tánh của đối
tượng, là lúc tâm được định tĩnh. Ðịnh tĩnh (Biết và Tĩnh Giác) sơ khởi
và thực hành tiếp năm pháp thiền cao cấp sau cùng để tiến tới tâm định
tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh là đã đắc được tam minh hoàn
toàn giác ngộ và giải thoát, chứng ngộ Niết Bàn trở thành một vị Phật
tức đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một đấng Như Lai Chánh Ðẳng Giác.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
PHẬT.
Tham khảo
Kinh
Tăng Chi Bộ (Phẩm 20, X(I)(93)).
KinhTrung Bộ (01, 26, 36, 43, 106, 118, 119).
Kinh
Tương Ưng Bộ (36.11, 54)
Tất cả
kinh trên do HT.Thích Minh Châu Việt dịch thuộc kinh Pali, trích trong
website Quảng Ðức:
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục