|
. |
Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần III
Phật giáo và các vấn đề hiện tại
--- o0o ---
PHẬT GIÁO HÔM NAY VÀ NGÀY MAI
Tiến sĩ Nandadeva Wijesekera
Diệu Hương dịch
Rõ ràng rằng
Phật giáo rất cần cho thế giới hiện đại ngày nay mặc dù Phật giáo đã
xuất hiện hơn 2.500 năm rồi. Bởi vì thông điệp của Phật giáo luôn luôn
phù hợp với mọi thời đại. Thông điệp này mang đến tình thương, lòng từ
bi, an lạc, hạnh phúc và hòa bình.
Hòa bình là một đặc tính
mà thế giới hiện tại đang bàn bạc và đây là điều quan tâm nhất của các
nhà lãnh đạo và các tổ chức trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn có một số đông
quần chúng không có tin hẳn vào bức thông điệp do Đức Phật tuyên bố, vì
hai lý do:
Một là thông điệp hoà
bình, tình thương và hạnh phúc của Đức Phật cho tất cả chúng sanh đã
được tuyên thuyết ở một giai đoạn khi mà các châu lục bị phân chia bởi
vật lý, địa lý, ngôn ngữ, và chủng tộc. Sự cô lập của địa lý, sự giới
hạn của thông tin và bị hạn chế theo từng vùng đã khiến cho mê tín tràn
lan và Phật pháp không được san sẻ. Trong một tình hình như vậy cái
không biết (tri thức) lấn át cái biết thì dù các nước hiện tại đã phát
triển nhiều về khoa học kỹ thuật trong thế giới hiện đại thì cũng sẽ trở
nên không phát triển hoặc đang phát triển, vì dân chúng sống trong các
lục địa rộng lớn này sẽ không có cơ hội để nghe, biết và hiểu những tinh
hoa của giáo lý Đức Phật.
Một yếu tố khác chống lại
sự phát triển truyền bá thông điệp của Đức Phật là phương thức phổ biến
tôn giáo. Có tôn giáo đã truyền bá bằng gươm đao và chiếm đoạt. So với
điều này, Đạo Phật là một tôn giáo không có lực lượng vũ trang, cũng
không có thánh chiến trong việc truyền bá giáo lý. Đạo Phật đã lan rộng
một cách từ từ nhưng vững vàng chắc chắn đến tất cả các trục lộ giao
thông của các nước mà Ấn Độ có quan hệ ngoại giao như: Tây Tạng, Trung
Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản và Trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ. Hoàng đế A-dục cũng đã
gởi những đoàn truyền giáo Phật giáo gồm tu sĩ và cư sĩ tới các kinh đô
ở phía Đông và Tây. Vua A-dục cũng phái hai người con của mình là Hoàng
tử Mahinda và công chúa Sanghamitta tới Tích Lan để truyền bá Phật giáo.
Chính công chúa Sanghamitta dã mang một cây Bồ-đề con (Ficus religiosa)
của cây Bồ-đề nơi Đức Phật thành đạo tới Tích Lan. Cây này cho tới nay
vẫn còn sum suê xanh tốt và được xem là một cây Bồ-đề có lịch sử cổ xưa
nhất trên thế giới. Cây Bồ-đề này là biểu tượng của sự giác ngộ.
Từ Tích Lan và Ấn Độ, Phật giáo lại được truyền đến Miến Điện, Thái Lan,
Lào, Việt Nam, Cam-pu-chia và Nam Dương.
Ngày nay thế giới đang
được thu hẹp trong kích thước. Các quốc gia đang phát triển và chưa phát
triển đã có tiến bộ về khoa học kỹ thuật, trong khi các nước đã phát
triển rồi lại trở nên đang phát triển. Trong kỷ nguyên này, việc đi lại
trở nên dễ dàng, nhanh chóng và thuận lợi. Thông tin thì nhanh tức thời.
Vì vậy sự phong phú về kiến thức là di sản chung của tất cả mọi người và
do đó thông điệp của Đức Phật đã được lan truyền đến các nơi trên thế
giới.
VÀI NHẬN
XÉT
Mặc dù với kiến thức sẵn
có ở mỗi người nhưng vẫn còn có sự phê bình chỉ trích Phật giáo cũng như
những quan niệm và nhận thức sai lầm đối với các lời dạy của Đức Phật.
Cũng còn có những người có học thức hiểu biết đã cố gắng đánh đồng Phật
giáo với Ấn Độ giáo. Cũng có những người uyên bác đã nghĩ rằng Phật giáo
đã không có khác với các tôn giáo hữu thần khác. Thậm chí, có một số
người cho rằng Phật giáo thì đầy những niềm tin và tu tập mê tín. Nhìn
từ bên ngoài, các điều này dường như là mâu thuẫn khiến ngăn trở sự hòa
hợp về ý thức hệ của các tôn giáo. Sự dường như khác nhau này đúng hơn
là chỉ do sự hiểu lầm, thông tin sai lạc và sự trình bày không đúng với
những di sản văn hóa và những động lực xã hội mà những mô hình phức tạp
của nó đồng thời tồn tại trong một cách thức không phô trương trong xã
hội đa dạng. Do đó, để hiểu bản chất của lời dạy Đức Phật thì rất cần
thiết và là điều cốt lõi để nghiên cứu sự khác biệt giữa Phật giáo và
các tôn giáo đang tồn tại khác để chúng ta có thể làm rõ hơn lời dạy của
Đức Phật.
Các tôn giáo khác có chủ
trương để thỏa mãn các khuynh hướng tâm lý, các thái độ hoài nghi và
hiếu kỳ của những người khác; các phương pháp tư duy và lòng tin của họ
thì quá nhiều đến nỗi mọi sự nghi ngờ đều được giải quyết với phương
pháp tốt nhất. Một số những lời giải thích này là dựa trên trí sáng suốt
của đấng Tạo Hóa, dựa trên lòng từ bi bác ái quãng đại của Ngài. Người
ta cũng nói rằng một số các yếu tố nền tảng này thì không được đặt thành
vấn đề nữa. Vài người chấp nhận tôn giáo dựa trên đức tin mù quáng hoặc
trên những giáo điều độc đoán. Tuy nhiên, những yếu tố này là nhằm thỏa
mãn tâm linh của những người mộ đạo. Đối với họ không có vấn đề gì.
Logic và lý lẽ phải đưa đến lòng sùng đạo. Lòng tin duy lý, lý luận khoa
học, và cách giải thích hợp lý ở mỗi tôn giáo thì có khác nhau. Điều này
khẳng định rằng các phương pháp và các kỹ xảo hiện đại không có chủ định
và không thể áp dụng trong trường hợp của tôn giáo. Về cơ bản, tôn giáo
được coi là khác với khoa học, bởi vì với họ tôn giáo chính là sự mặc
khải – mệnh lệnh của Thượng Đế. Còn ngược lại, Phật giáo thì lại rất
hoan nghênh, khuyến khích tinh thần nghiên cứu, suy tầm, quán sát nội
tâm một cách hợp tình, hợp lý và khoa học. Điều này đã được minh chứng
trong kinh Kalama nổi tiếng mà trong đó Đức Phật đã dạy như sau:
"Này các Kalama, đừng nên
dựa vào những gì đã được nghe nhiều lần, cũng không dựa trên truyền
thống, trên tin đồn, chân lý, triết lý lô-gích, thành kiến, năng lực và
sự quan tâm của người khác, cũng như không dựa vào ngay cả thầy của
chúng ta."
Thông thường, có người nói
chống Phật giáo vì rằng họ cho rằng Phật giáo tin vào Thượng đế, chấp
nhận đức tin tầm thường và thờ phượng cây cối, những hình tượng, trời
đất, mặt trăng và các tinh tú. Ở đây những người chỉ trích này đã phạm
lỗi là trộn lẫn các giá trị văn hóa, các tập quán xã hội và những đức
tin truyền thống trong nhiều giai đoạn khác nhau của sự thăng hoa lịch
sử xã hội. Những người chỉ trích này đã quên hoặc không biết rằng đạo
Phật không bao giờ loại bỏ cách sống hiện hữu và các giá trị văn hóa của
đời sống bằng cách áp đặt một cách sống mới lên trên đó mà trái lại đạo
Phật uyển chuyển tìm cách thích nghi đời sống văn hóa của mỗi xã hội mà
không lạc mất tinh thần của mình.
Trong tính cách như thế,
nếu những người có hoài nghi, chỉ trích và quán sát như vậy sẽ chất vấn
một Phật tử, liệu vị ấy có tin vào một mớ hỗn độn của những khái niệm
này không, thì vị Phật tử sẽ trả lời là "có" và cũng có thể là "không,"
bởi vì lòng tin con người thì dễ dàng thích hợp, sẽ không có điều gì
không hợp lý trong cách tư duy, logic, trong tổ chức của các lực lượng
và năng lực cơ bản của cũ và mới, của không biết và huyền bí. Đối với cá
nhân này, Phật giáo và các giới luật đứng trên nền tảng đỉnh cao của
niềm tin và mê tín cũ và Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) được đặt ở vị trí
cao nhất.
Một trong những điểm đáng
lưu ý nhất của Phật giáo là ở chỗ có Phật tử đã tin có thần thánh trong
tôn giáo của mình. Cho nên vị ấy cầu nguyện thì hẳn chúng ta không nên
lầm lẫn với Phật tử chân chánh là những người đang tu tập chuyển hóa
mình đến trạng thái tâm hoàn thiện- Niết-bàn. Vị ấy ắt hẳn chưa có phẩm
chất tự lực như Đức Phật đã dạy. Người có đức tin chân chánh trong niềm
tin tôn giáo của họ, thì tin có năng lực thiện ác, thiện thần và những
năng lực siêu nhiên nhân từ và Đức Phật chiếm giữ vị trí cao nhất trên
tất cả các thiện thần…
Trong một ý muốn mạnh mẽ
để cải đạo, những nhà truyền giáo của tôn giáo khác đã phá hủy tinh thần
xã hội, biến họ thành ngu đần và trở thành một mẫu văn hóa và chủng tộc
xa lạ. Sự hăm hở của họ là để thay đổi giá trị văn hóa, tín ngưỡng
truyền thống, và những luân lý xã hội sẽ trở thành các hình thức, sắc
thái tinh thần của sự nỗ lực thay đổi đó để bắt buộc tôn giáo khác cùng
với các văn hóa của nó thành những gì mà họ nghĩ là một nhóm thấp hơn.
Vì vậy, họ đã nỗ lực thay đổi văn hóa, xã hội và tinh thần quốc gia của
một dân tộc. Những tình trạng như vậy gây ra sự thiệt hại mà không thể
phục hồi được về mặt xã hội và tâm lý bởi vì các nhà truyền giáo đã khử
trừ sức sống, và lần lượt làm tê liệt ý chí vươn lên. Bề ngoài, sự cải
đạo như vậy dường như có vẻ thành công nhưng bên trong, các lãnh vực tâm
lý của con người, niềm tin và các giá trị cũ vẫn còn tiềm ẩn làm mờ đi
tất cả những ánh sáng bên ngoài của các tôn giáo mới. Từ đó, trong xã
hội này sẽ nảy sinh một sự mâu thuẫn không chỉ về văn hóa và chủng tộc
mà còn cả về tôn giáo nữa.
Bất kỳ nơi nào, Phật giáo
cũng được nhìn nhận là các lời dạy của Đức Phật không bao giờ xung đột
với các giá trị truyền thống của xã hội mới. Cũ và mới, cổ và tân đồng
tồn tại bên nhau. Khi tâm đã hướng thượng và đạt tri kiến cao, thì những
phạm vi bùa chú và mê tín, y học và khoa học trở nên yếu đi. Sự tổng hợp
này xảy ra toàn bộ hay từng phần và tiến trình được tiến triển cho đến
ngày nay. Do đó đối với những người quan sát thiển cận, nhà phê bình và
những nhà truyền giáo cứng nhắc, thì những điều này dường như mâu thuẫn
không thể hòa hợp với nhau được. Kết quả là họ lên án Phật giáo là vô
minh và có sự khác biệt khi họ quán sát lời Đức Phật dạy. Họ đã suy diễn
liên hợp với ảo tưởng, ngay cả chỉ như một phương tiện kỹ xảo tạm thời
của con người để đáp ứng sự căng thẳng tâm lý hoặc những khủng hoảng
tình cảm thì không phải không là những tín ngưỡng cần thiết. Thêm vào
đó, thật là tức cười, vì họ vẫn chấp nhận nhu cầu của con người cho sự
sống còn để đạt đến trạng thái hạnh phúc an lạc tối thượng và điều này
chỉ đạt được khi diệt trừ các điều ác. Trái lại, Phật tử biết rằng tất
cả các pháp là vô thường, khổ và vô ngã.
HIỂU GIÁO
LÝ CỦA ĐỨC PHẬT
Muốn khẳng định rằng tôn
giáo trên căn bản có khác với sự hợp lý hóa của khoa học, thì chúng ta
có thể lấy lập luận của A-tỳ-đàm để trả lời cho vấn đề này. Về cơ bản,
các giáo lý thâm sâu của Đức Phật gần gũi với khoa học như là sắc và tâm
(nama-rupa). Lời dạy chính yếu của Đức Phật là:
"Không làm các điều ác,
Vâng giữ các điều lành,
Làm thanh tịnh tâm ý
Đó lời chư Phật dạy"
Điều này xin được nói rộng
thêm rằng tất cả các pháp do kết hợp mà thành thì đều là vô thường (anicca),
khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Vì vậy một chúng sanh
không gì khác hơn là danh và sắc. Sắc là sự biểu thị của những năng lực.
Người xưa đã xem chúng như nguyên tử (paramanu). Đức Phật thì coi
chúng như là những thành tố nền tảng của sắc chất. Từ đó chúng ta biết
rằng Phật giáo thì rất cập nhật với những khám phá của khoa học mới đây
nhất về bản chất của sự sống.
Theo Phật giáo, sanh được
xem là sự hiện hữu. Tiến trình của hiện hữu sẽ được tiến hóa theo dòng
thời gian khởi đầu do bởi vô minh rồi tạo ra một chuỗi mắc xích nhân
duyên (paticca-samuppada). Chuỗi nhân duyên đó được thành lập như
sau:
-
Do vô minh, hành khởi
-
Do hành, thức khởi
-
Do thức, danh sắc khởi
-
Do danh sắc, lục nhập
khởi
-
Do lục nhập, xúc khởi
-
Do xúc, thọ khởi
-
Do thọ, ái khởi
-
Do ái, thủ khởi
-
Do thủ, hữu khởi
-
Do hữu, sanh khởi
-
Do sanh, lão tử khởi.
Một cách tất yếu, nếu nhân
diệt thì duyên diệt. Điều này nghĩa là, nếu vô minh diệt hoàn toàn thì
sanh tử cũng chấm dứt.
Sau khi đã giải thích
nguồn gốc của các pháp hữu vi, sự tham ái và tình cảm con người, Phật
giáo đã cố gắng giải thích sự biến đổi đời sống giống như một dòng tương
tục của hiện hữu. Tiến trình này không bao giờ thỏa mãn. Vì vậy, điều
này chứng minh rằng ngay cả việc đạt được những tiến bộ kỹ thuật cao
nhất của thế giới hiện đại vẫn phải chịu chi phối bởi quy luật phổ quát
12 nhân duyên này, vì chính đời sống cũng tùy thuộc vào lý duyên khởi.
Không ai có thể tránh và thoát khỏi nó.
Từ giai đoạn này Đức Phật
tiếp tục phân tích trạng thái hiện tại và tìm phương cách để chấm dứt vô
thường, khổ của tất cả các pháp hữu vi. Thế nên thông điệp của Ngài rất
rõ ràng, đây không phải là cách trốn thoát trong sợ hãi do thiếu can đảm
và phấn đấu. Đây chính là cách tìm giải pháp cho vấn đề – vấn đề con
người sanh tử và biết cách tháo gỡ ra khỏi tình trạng khổ đau đó. Điều
này luôn luôn hiện hữu trong thế giới hiện tại và tương lai. Để hiểu
điều này một cách cụ thể chúng ta nên dùng ví dụ để minh họa như sau: ví
như có người đang bị vây hãm trong lửa. Cách thoát duy nhất là ra khỏi
lửa và không nên đứng yên trong đó. Hoặc ví như bị nước lụt hay băng qua
sông thì cách duy nhất để khỏi bị chìm là leo lên thuyền và chèo đến nơi
an toàn. Hoặc ví như có người muốn chế ngự khỏi bị rắn cắn thì phải nên
lánh xa nó.
Cũng vậy lửa sân hận có
thể tránh và dập tắt bởi tình thương. Dòng thác tham ái phải được vượt
qua bằng tâm buông xả và dòng sông luân hồi phải đi qua bằng tâm trong
sáng. Sự não hại của vọng tưởng có thể được xóa tan bằng cách phát triển
chánh tư duy. Về điểm này, Đức Phật đã dạy chúng ta không nên dính mắc
vào hai cực đoan (quá khổ hạnh và quá hưởng lạc) mà nên theo con đường
lý trí thực tiễn gọi là trung đạo. Nếu bám lấy cực đoan khổ hạnh hoặc
cực đoan hưởng lạc thì có khả năng đưa chúng ta đến nguy hại. Sự nguy
hại về tinh thần này vẫn còn là điều phổ biến trong thế giới hiện đại
ngày nay. Điều này không giới hạn ở thời cổ đại mà ngay thời khoa học kỹ
thuật hiện đại cũng không thể vượt qua nó bởi vì nó liên quan đến trạng
thái tâm và các trạng thái này không phải là vật chất để dễ loại bỏ.
Vì vậy con đường đảm bảo
hạnh phúc nhưng tu tập rất khó khăn đó là con đường trung đạo. Đây là
con đường chân chánh và được gọi là Bát Chánh đạo (Thánh đạo tám ngành).
Đây chính là một đáp án cho những vấn đề phức tạp mâu thuẫn trong mỗi
con người chúng ta. Nó bao gồm 8 đặc tính và được sắp xếp thành ba cột
là: giới (sila), định (samadhi) và tuệ (panna).
Giới gồm có: Chánh ngữ,
chánh nghiệp và chánh mạng.
Định gồm có: Chánh tinh
tấn, chánh niệm và chánh định.
Tuệ gồm có: Chánh kiến và
chánh tư duy.
Chứng nghiệm Bát Chánh đạo
sẽ đưa chúng ta đạt được trạng thái cứu cánh Niết-bàn.
Ở đây vấn đề được đặt ra
là: Tại sao chúng ta lại chối bỏ chính những điều tốt đẹp nhất của cuộc
đời. Vì Bát Chánh đạo khó áp dụng lắm phải không? Tại sao người ta không
nên hưởng thụ dục lạc trần gian với tất cả niềm hạnh phúc của nó? Vì sau
khi chết điều gì sẽ xảy ra đối với con người chúng ta? Ai biết? Ai có
thể nói? Quay lại cội nguồn, đầu tiên con người chúng ta là sinh vật
sống không có tổ chức xã hội, nhưng con người là một sinh vật có lý trí
cao nhất trong các loài sinh vật và là loài đặc biệt duy nhất có năng
lực chinh phục môi trường cả không gian và vũ trụ. Ngay cả trong một xã
hội như vậy, con người không thể sống đơn độc một mình. Người ta phải
sống có gia đình, đoàn thể; và sẽ không thể sống hạnh phúc yên ổn, hòa
bình nếu mọi người luôn luôn sống trong lo âu sợ hãi lẫn nhau.
Vì vậy quy luật đạo đức là
rất cần thiết cho con người sống hòa bình trong xã hội. Ngày nay đức
hạnh này vẫn còn rất quan trọng trong tâm của tất cả chúng sanh, là
những khuôn mẫu đạo đức, do các nhà sáng lập tôn giáo thuyết giảng và
càng lúc con người càng ý thức hơn về sự quan trọng của đạo đức khi thấy
sự nguy hiểm trong thế giới này khi đối diện với dân số gia tăng trong
các đô thị, khi đối diện với sự tàn khốc của chiến tranh, phân biệt
chủng tộc, bất bình đẳng và nghèo đói. Có quá nhiều mối quan hệ với nhau
đến nỗi chúng ta khó mà phân biệt người xấu giữa những người khác. Người
ta thích nói chuyện hòa bình nhưng lại không chống đối chiến tranh và
giết người. Mạng sống con người là món quà quý giá nhất. Rất ít sự khác
biệt giữa hai loại này về mặt yếu tố đời sống. Vì vậy, thật là đạo đức
giả khi nói chuyện hòa bình mà không nói về sự ngăn chặn nạn giết người
của chiến tranh. Tại sao con người (đau khổ) lại từ bỏ thông điệp hòa
bình cứu khổ? Có phải vì con người không thể và sẽ không sống chỉ vì ăn?
Có phải con người phải đấu tranh ngay cả phải trả giá bằng sinh mạng của
đồng loại mình ? Về tinh thần, đây là những vấn đề tranh cãi giống nhau
mà ảnh hưởng đến các bậc lãnh đạo quốc gia đang nỗ lực tiêu diệt các
nước yếu hơn; còn các nước mạnh hơn thì lại làm cho yếu đi. Đó là luật
của kẻ mạnh đè kẻ yếu (cá lớn nuốt cá bé), luật của khôn sống mống chết
về phương diện sức mạnh thân thể, năng lực hóa học và sinh học.
Cũng giống như các đức
tính tốt khác: tránh tà dâm, tránh nói dối và tránh sát sanh. Khi xã hội
tiến hóa và khi giá trị đạo đức trở nên cần thiết thì 5 giới này sẽ cung
cấp phương thức sống cho nhân loại trong tất cả các xã hội hiện tại và
tương lai. Sinh vật có lý trí sống thành xã hội (tức con người) này phải
nhất định từ bỏ lối sống thú tính phi đạo đức thời sơ khai để sống hòa
hợp trong xã hội. Một số người sẽ chấp nhận và tuân thủ cách sống đạo
đức sớm hơn những người khác. Một số người chỉ có thể áp dụng từng phần
nhưng có người có thể giữ cả 5 giới. Có người thực hiện được hết mặc dù
không dưới danh nghĩa 5 giới này nhưng nó giống như một cách sống đạo
đức đứng đắn.
Hạnh phúc là niềm ước vọng
của con người. Con người từ bây giờ nên thay đổi để thành con người đạo
đức, biết quan tâm đến những người xung quanh. Mỗi quốc gia nói chuyện
hòa bình và mỗi người tận tâm mong muốn hòa bình cho chính bản thân
mình. Nhưng còn đối với những người ở gần và xa chúng ta thì sao? Các
nhà lãnh đạo đã nói nhiều thậm chí gào thét cho hòa bình trên mọi diễn
đàn. Nhưng nếu không có những đức tánh tốt này xuất hiện trong tâm của
từng cá nhân hoặc từng quốc gia thì có thể mong đợi hòa bình ở trong
cộng đồng hoặc tại quê hương mình hoặc tại hải ngoại được chăng? Đó là
dấu hiệu hạnh phúc để thấy được đặc tính hiểu biết này trong tâm trí của
quần chúng, những người đã đấu tranh ác liệt và đẫm máu nhất trong các
cuộc chiến tranh và các quốc gia đòi hỏi vũ khí tối tân nhất để tiêu
diệt con người. Với sự hiểu biết này, những đức hạnh khác như: lòng
thương xót (metta), lòng cứu khổ (karuna), hoan hỉ trong
niềm vui của người khác (mudita) và tâm tràn đầy sự buông xả (upekka)
cũng cần được phát triển. Con người có thể trau dồi được những đức tính
này, khi con người nhận thức và thực hành chúng. Rồi con người sẽ tiếp
cận gần hơn sự chứng nghiệm hạnh phúc tâm linh trong đời này và đời vị
lai.
SỰ HOÀN
THIỆN TRONG LỜI PHẬT DẠY
Bây giờ vấn đề được đặt ra
là tại sao chúng ta lại mang lấy sự rắc rối này trong khi chúng ta đang
đi đến cái chết cùng với sự tan rã của thân xác trong cuộc đời này. Nói
tóm lại, tại sao chúng ta lại bi quan đến như vậy? Có cảnh giới nào bên
ngoài cõi đời này không? Cái gì là bản chất cuộc đời? Câu trả lời thông
thường là hoặc thiên đàng hoặc địa ngục. Trong cuộc sống, điều đó có lẽ
là không phải là câu trả lời rốt ráo. Chúng ta sẽ chưa chấm dứt được
luân hồi sanh tử cho đến khi chúng ta đạt được trạng thái an lạc hoàn
toàn. Điều này có thể đạt được bằng cách thanh tịnh tâm khỏi các phiền
não như tham (raga), sân (dosa), và si mê (moha).
Điều đó có thể đạt được trong thế gian này bởi người luôn trau dồi các
trạng thái tâm và dần dần thăng tiến lên trạng thái hoàn hảo tốt đẹp, có
thể là ngay bây giờ, khi mình còn sống; hoặc một ngày nào đó khi mạng
sống sẽ chấm dứt. Làm sao để được như vậy? Và làm sao để thực hành? Hành
động của mỗi người có thể là thiện hoặc ác, đạo đức hoặc không đạo đức.
Tâm của một người có thể phát triển hoặc không phát triển. Tham của một
người có thể nhanh hoặc chậm. Chúng sanh có thể tiếp tục trong chuỗi
sanh tử ở nơi đây hoặc một nơi nào đó tùy theo hành động (kamma)
của chính mình. Theo dòng nghiệp của mình, một chúng sanh được sanh ra
trong dòng luân hồi (samsara). Sự kéo dài đời sống của tâm và
thân, trạng thái tương tục của tâm do nghiệp lực và hậu quả tái tạo nên
chúng sanh trong nhiều kiếp sống. Tiến trình thanh tịnh tâm cần nên liên
tục. Các trạng thái đạt được của tâm nên phát triển cho đến khi tâm được
trong sáng, hoàn hảo và đạt được trạng thái tâm lý an lạc của Niết-bàn.
Như đã trình bày sự sanh
và tái sanh tiếp tục trong trạng thái hoặc trạng thái khác xuyên qua
dòng chảy tương tục của tâm ý theo nghiệp riêng của từng vị. Trong Phật
giáo, tiến trình này được giải thích bằng giáo lý nghiệp và tái sanh. Sự
sanh tiếp tục cho đến khi nghiệp duy trì sự tồn tại của mỗi con người bị
chấm dứt. Sự chấm dứt của sanh tử sẽ đưa đến trạng thái hạnh phúc hoàn
toàn mà trong Phật giáo gọi là Niết-bàn. Cách sống này tới một mức độ
như đã phác họa có thể được áp dụng trong đời này cả trong các xã hội
văn minh hoặc kém văn minh. Song mong muốn hiện hữu này không dẫn đến
hạnh phúc rốt ráo. Vị ấy phải chấm dứt dòng sanh tử. Đó là đối tượng và
mục đích tối thượng của mỗi chúng sanh. Đó chính là mục tiêu của người
Phật tử và vị ấy tu tập giới luật trong niềm hy vọng và cho mục đích
này. Trạng thái an lạc này có sẵn ở mỗi chúng ta và chỉ chúng ta phải tự
giác ngộ lấy mà thôi.
Ở đây người cư sĩ và đặc
biệt những người phương Tây chống lại những vấn đề xa lạ đối với họ, với
triết lý cuộc sống và tôn giáo quen thuộc của họ. Đó chính là quan niệm
sống sau khi chết trong chuỗi tái sanh vô tận trong vô số hình thức. Một
điều như vậy có khả năng xảy ra không ? Nhưng những nhà tư tưởng phương
Tây và đầu óc phương Tây bây giờ có thể tốt hơn trước đây. Họ thấy rằng
một điều như vậy thì không thể không xảy ra được. Có những biến cố và
những bất hạnh nào đó trong đời sống này không thể giải thích được ngoại
trừ bằng niềm tin của chúng ta. Năng khiếu khác thường nào đó của trẻ
con ở lứa tuổi còn rất nhỏ, nhìn chung chúng ta không thể giải thích
được. Cho đến nay việc chuyển giao năng khiếu ngang qua di truyền đã có
thể chứng minh được. Nhưng ký ức và sự hồi tưởng về những việc xảy ra
nào đó trong quá khứ mà do trẻ em kể lại đã đưa ra một vấn đề mà trong
đó sự giải đáp hợp lý là tái sanh. Các nhà tâm lý học đang nghiên cứu
hiện tượng này và số lượng các trường hợp như vậy được ghi nhận là đang
gia tăng. Dĩ nhiên trong Phật giáo khi người đạt được ngũ thông (panca-abhinna)
thì việc hồi tưởng được kiếp trước (pubbe nivasanussatinana) của
mình là thông thứ ba, tức Túc mạng thông. Cho đến nay, người ta khó có
thể tin và hiểu một số bằng chứng về khả năng thực tế của tái sanh.
Cơ cấu vận hành của thuyết
tái sanh là gì? Nghiệp lực thiện hoặc ác cho là năng lực tái sinh và như
là yếu tố quyết định liên tục của dòng luân hồi. Nó không phải là một sự
cân bằng mà trong đó thiện và ác được xóa bỏ như là các yếu tố cộng trừ,
tính ra thành số nợ hay lãi. Đó là một khái niệm mà từ đó ý nguyện thiện
ở nơi nào, thế nào đó hoặc ngày nào đó sẽ hưởng quả tốt đẹp cũng như
vậy, nghiệp ác sẽ bị đền trả bất như ý. Sự chuyển giao nghiệp lực tiềm
tàng có một sự trung gian mà môi giới trung gian đó thì siêu hình và phi
vật chất. Chính cái tiến trình siêu hình giống như năng lực điện trong
thiết bị điện tử. Năng lực tái sanh chính nó là vốn có trong chính nó,
giống như năng lượng điện tử hay các tầng số âm thanh và ánh sáng. Ở đây
đặc biệt sóng âm thanh hoặc tia sáng ảo có trong nó toàn bộ tiềm năng
cho việc tái sanh ra bản thân nó nếu sự thiết lập thích hợp vừa đúng để
tiếp nhận nó. Có lẽ nghiệp lực trong hành động có thể được giải thích
giống như trong ngôn ngữ bình thường. Việc cân bằng cuối cùng sau rốt là
sự đồng nhất nghiệp lực mà nghiệp lực đó tái sanh ra quả, nghĩa là một
chúng sanh mới là quả của các giai đoạn liên tục của đời sống. Cái gì là
sự đồng nhất của nó? Làm sao có thể giải thích được điều này?
Có nhiều vấn đề cần phải
tìm câu giải đáp. Người cư sĩ phát hiện điều này khó hơn để làm cho hòa
hợp các yếu tố này. Người cư sĩ trong các nước đang phát triển và chưa
phát triển thì khám phá điều này khó hơn để tin là điều này có thể xảy
ra. Có người khẳng định rằng những điều này là khái niệm triết học, là
học thuyết tôn giáo đã được thảo luận, tranh luận và bình luận rất nhiều
ở trên. Một sự giải thích về những điều đơn giản nào đó thì không thể,
trừ khi thực sự giác ngộ hoặc tự chính mình chứng nghiệm thì ánh sáng có
thể giải thích một cách dễ dàng. Nhưng một người mù thì sẽ hầu như không
thể hiểu được những gì đã giải thích. Một người có thể mô tả con đường
hoặc phương tiện để đi đến một nơi. Ngay cả người ấy có thể mô tả rõ nơi
đó như thể mình đã từng ở đó. Nhưng người đó không thể cảm nhận nó hoặc
nhận thức nó trừ khi chính người đó đã từng ở đó. Cũng như vậy, những
điều này được nhận thức bởi chính cá nhân của mỗi người. Phật giáo đã
khẳng định con đường này do Đức Phật thuyết giảng. Điều này đã được giải
thích. Những người khác cũng có thể tu tập theo giáo lý Đức Phật. Ngoài
điều này ra không ai có thể giúp đỡ được. Mỗi người là vị cứu tinh cho
chính mình. Không ai có thể cứu người khác được. "Attahi attno natho."
Khi một người đã đi theo chánh đạo, tu tập tôn giáo, phát triển tâm
mình, người đó không thể không đạt được trạng thái Niết-bàn tối thượng.
Trạng thái đó nằm trong tầm tay với của chúng ta.
[Trích dịch từ nguyên
tác tiếng Anh "Buddhism in Today and Tomorrow," của tiến sĩ Nandadeva
Wijesekera trong tác phẩm Các Viên Ngọc Trí Tuệ của Phật Giáo (Gems of
Buddhist Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1996, trang 51-67].
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|
|