|
. |
Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần I
Bản chất và con đường Giác Ngộ
--- o0o ---
GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
Chính Trực
Muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát, chúng
ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp cũng ví
như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, thì làm sao đi
đến nơi đến chốn một cách an lành được.
Trên thế gian này, đạo Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử,
khởi thủy từ Á châu truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh
mẽ tại Mỹ châu và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện
nay, dân chúng ở các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin
tưởng nơi các tôn giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ khoa học,
giải thích mọi sự mọi việc qua đức tin nơi thượng đế mà thôi. Cùng với
sự phát triển của khoa học, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc ngày càng
đối diện với các khủng hoảng tinh thần, do nhiều áp lực, nhiều khó khăn,
dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa học ngày càng đáp ứng tối
đa các nhu cầu, những tiện nghi vật chất của con người. Trong khi đó,
các tôn giáo hiện diện tại đây từ trước, không đáp ứng được những nhu
cầu tinh thần, những vấn đề tâm linh của con người.
Cho nên, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu
giáo lý của đạo Phật và thực hành những lời dạy của Đức Phật trong đời
sống hằng ngày. Từ đó, họ tìm được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong
đời sống đầy dẫy những bất trắc và phiền não khổ đau. Họ phát tâm tu tập
một cách tích cực, dưới nhiều hình thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ
viết sách, dịch kinh Phật Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu biết,
để được giác ngộ và giải thoát. Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng trí
tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà thôi.
Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như
Lai, tức là phỉ báng Như Lai vậy." Nghĩa là nếu chúng ta đến với Như
Lai, tức là đến với Đức Phật chỉ bằng niềm tin, chỉ biết tin tưởng Đức
Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền năng, có thể ban phước như lời cầu
nguyện của chúng ta, có thể ban cho chúng ta và gia đình một cuộc sống
bình an, như ý, mà không chịu học hiểu giáo lý, tìm hiểu những lời dạy
của Đức Phật, để áp dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta phỉ
báng Đức Phật. Tại sao vậy?
Bởi vì, nếu cầu nguyện, khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện,
không công hiệu, không hữu hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ý
hoặc không có được đáp ứng gì cả, chúng ta sẽ nghĩ là Đức Phật không
linh thiêng, niềm tin không còn, dễ theo ngoại đạo.
Chắc chắn ai ai cũng biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo
trên thế gian này đều không có bình an một cách tuyệt đối, theo cái nhìn
tầm thường của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị người
khác nhục mạ, vu cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết chết
thê thảm như một tội phạm hình sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được
như ý, như lời cầu nguyện, khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào?
Cuộc đời của Đức Phật cũng gặp những chuyện như vậy, cũng trải qua các
giai đoạn của cuộc sống như mọi người khác trên thế gian: sanh, già,
bệnh, chết.
Như vậy, Đức Phật cứu khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng hình thức ban
phước theo lời cầu nguyện, van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai
thờ phượng chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời kinh, niệm
vài câu A-di-đà Phật, hay đọc vài bài chú chăng? Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy:
"Hãy tự thắp đuốc lên mà
đi.
Thắp
lên với Chánh Pháp."
Nghĩa là tất cả chúng ta hãy tìm hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách
tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ
của mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát,
để được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Đức Phật Thích-ca đã trải qua
những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ-đề, trên thế
gian này. Sau đó, Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và
hạnh phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió
khó khăn, nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền não và khổ đau như tất cả
chúng sanh khác.
Vì
tâm đại từ đại bi, thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Đức
Phật đem Chánh Pháp, là những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy
trong nửa thế kỷ, ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết
con đường, biết phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên
trì, đều được giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
--
Toàn bộ Chánh Pháp của Đạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc
đời, nguyên nhân gây ra đau khổ, tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn
tịch diệt và con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó.
--
Trong kinh sách gọi đó là "Tứ Diệu Đế," gồm có: khổ, tập, diệt, đạo.
--
Đó chính là cách Đức Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh
vậy.
Do
đó, chúng ta hãy tìm hiểu: Tứ Diệu Đế là gì? Đức Phật đã giác ngộ điều
gì và giải thoát như thế nào?
1)
Điều trước tiên Đức Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta
ai ai cũng đều công nhận cuộc đời "khổ nhiều vui ít." Những niềm vui
trong cuộc sống thực là hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền não, đau
khổ, bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện thì quá nhiều. Ngoài cái khổ
vì thiếu ăn, thiếu mặc của những người nghèo đói do thiếu phước báo, cái
khổ đến với mọi người trên khắp thế gian, không phân biệt già, trẻ, lớn,
bé, nam phụ lão ấu, địa vị, học thức, giàu nghèo, địa phương, sắc tộc,
tôn giáo, vua chúa hay thường dân, đời này hay đời trước. Cái khổ chung
của tất cả mọi người trên thế gian đó là những gì?
Đó
chính là chúng ta khổ vì: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ vì sanh ra
trong cuộc đời dẫy đầy những chuyện bất như ý, khó khăn, đấu tranh, sóng
gió và gian nan, vì tuổi già sức yếu, đi đứng khó khăn, vì bệnh hoạn đau
đớn triền miên, vì cái chết đến bất ngờ, không như ý. Chúng ta muốn được
luôn luôn bình an, trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, sống mãi không
chết, nhưng nào có ai được như vậy đâu?
Chẳng những chúng ta khổ vì sanh, già, bệnh, chết, chúng ta còn khổ vì
xa lìa người thân thương, vì gặp những người không ưa, những kẻ oán thù,
vì cầu nguyện, van xin nhiều quá, mà chẳng được gì, vì ngũ ấm xí thạnh,
nghĩa là cái thân xác ngày một to béo nặng nề một cách khổ sở, và quan
trọng hơn, chúng ta khổ vì cái vọng tâm điên đảo đảo điên, cái vọng
tưởng lăng xăng lộn xộn, thay đổi từng giây từng phút, không lúc nào
ngừng nghỉ, ví như con vượn chuyền cây, như con ngựa chạy rong, như con
trâu giẫm đạp lúa mạ của người.
--
Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội
tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân
hồi.
--
Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của
đạo Phật.
Trong kinh A-hàm, Đức Phật có dạy:
--
"Cuộc đời là biển khổ.
--
Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn."
Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển
khổ, khiến cho nước mắt trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với
nước bốn biển lớn. Con người mãi mê đấu tranh, giành giựt, hận thù, bon
chen, hơn thua trong cuộc sống, do lòng tham lam, sân hận, si mê, mà
quên đi những khổ đau, cho đến khi nhắm mắt lìa đời, cũng chưa giác ngộ
được. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
2)
Đạo Phật nhận định cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm
tiêu cực, bi quan, yếm thế, chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định
như vậy để thức tỉnh, để tìm phương cách giải thoát, không còn chìm đắm
trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật
chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc chẩn bệnh, định bệnh để
tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho nên, ngay sau đó,
Đức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau.
Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:
--
"Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp.
-- Đó
là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời."
Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính
gây ra khổ đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc
sống hiện tại.
Thế nào là "chấp ngã"? Chấp ngã có hai phần: vật chất và tinh thần. Về
vật chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy chục ký lô này là
"mình." Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy
lường là chính "mình." Nếu có người hỏi: chúng ta là ai? Chúng ta liền
chỉ vào thân mình và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác thân tứ đại
giả tạm này đâu phải là "mình." Cái xác thân tứ đại bao gồm những chất:
đất, nước, gió, lửa, tụ hội với nhau trong một thời gian, từ khi cha mẹ
sinh ra, cho đến khi chúng ta thở ra, mà không muốn hít vào nữa, thì ô
hô tử vong! Thời gian đó ít năm, nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp
duyên của mỗi người. Người đời thường gọi đó là: số mạng, định mạng, hay
số mệnh, định mệnh. Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi
thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất
lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt,
xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không
hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã, trở
về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi.
Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại
bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng
ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát
mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe
thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý
muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại
là "mình," chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc
nó, thì quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong
cơn mê, mà không biết đó thôi.
Chúng ta đã hiểu cái thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm
suy nghĩ, tính toán, suy lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm
đó cũng không phải là "mình." Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta suy
nghĩ rất hiền lành, thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí
cúng dường, muốn trở thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc,
chúng ta tính toán, suy lường, muốn hơn người khác cho thỏa lòng ganh
tị, đố kyﬠmuốn thấy người khác suy sụp, gặp nạn cho thỏa lòng hơn thua,
ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử hỏi chúng ta là người thiện hay bất thiện?
Chúng ta là một hay là hai?
Dù
là khởi tâm thiện, hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc
tâm thiện khởi lên, muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không
được, thí dụ chúng ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đã
bó tay, chúng ta sẽ đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi lên, muốn thấy người
khác khổ đau, nguy nan, khốn đốn, mà họ vẫn cứ bình an, chúng ta sẽ đau
khổ. Đàng nào chúng ta cũng đau khổ cả! Lòng tự ái cao là một dạng của
tâm chấp ngã. Do tâm tham ái, chấp ngã một cách mù quáng, chúng ta đã,
đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều
kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Thế nào là "chấp pháp"? Chấp pháp cũng có hai phần: vật chất và tinh
thần. Về vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng như cái nhà này,
cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ, mọi việc,
mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình cũng là đúng, là nhất.
Về
phương diện vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc
đời này sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở
bên mình, cho là những của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ
nghiệp luôn luôn thuộc về mình. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc
có mệnh hệ nào, nếu của cải vật chất có bị mất mát hư hao, thì chúng ta
sẽ đau khổ!
Về
phương diện tinh thần, chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là
đúng, việc mình làm là đúng, ai có ý kiến khác, ai làm khác là không
đúng, là sai. Chúng ta thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy
nghĩ giống như mình, nên khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó
chấp nhận được. Chúng ta không thấy những lỗi lầm, sai trái của mình,
cho nên đau khổ, bực bội, vì chỉ thấy lỗi lầm của người.
Thí dụ trong gia đình, nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ
biết la mắng con cái vì chúng không theo ý muốn của mình, bất chấp ý
kiến của chúng, thì người cha đó chắc chắn sẽ phiền não đau khổ và làm
cho mọi người trong gia đình cũng phiền não đau khổ theo. Chúng ta nên
biết hai thế hệ khác nhau thì ý kiến, sự suy nghĩ, cảm giác đều khác
nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng chấp chặt các quan niệm xa xưa, cổ lổ, lạc
hậu, không còn hợp thời nữa. Cứ chấp chặt như vậy chỉ đưa đến phiền não
và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy.
Chuyện quốc gia xã hội, cho đến chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ
vậy thôi. Khi bất cứ chuyện gì xảy ra, người nào, bên nào cũng có một
phần lỗi, không nhiều thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào
toàn vẹn. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau
nhiều lắm.
Trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng
ta phải biết quên mình vì người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu
tâm ý quá ích kỷ, chỉ biết có mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn
giáo mình, cái gì cũng vì mình hết trơn, thì chỉ có phiền não và khổ đau
mà thôi. Muốn có một gia đình hạnh phúc, người cha phải biết hy sinh, lo
lắng mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho cả gia đình, người mẹ cũng
phải biết hy sinh những vui thích cá nhân, hòa hợp với nhịp sống chung
của gia đình, con cái phải biết nhớ ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ,
phải biết nghe lời dạy dỗ, phải biết báo hiếu.
Trong một quốc gia có hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, kình chống
nhau kịch liệt, phe nào cũng muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho
mình là đúng nhứt, là yêu nước nhứt, thì quốc gia đó khó có thể tiến bộ
được, dân chúng không thể sống trong an lạc và hạnh phúc được. Tại sao
vậy? Bởi vì phe cầm quyền làm được bất cứ việc gì, cũng bị phe chống đối
phá hoại, ngăn trở, phỉ báng, xuyên tạc. Chúng ta thường bị cảm giác
đánh lừa, không chịu nhìn nhận sự thật, chỉ vì sự thật không theo như ý
của mình, của gia đình mình, của phe nhóm mình, của tôn giáo mình.
Trên thế gian này, người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng
phát lương ít; ngược lại, công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh
lương nhiều. Thế là đấu tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người ta
thường nhớ rất kỹ đã làm ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ
lúc nào; nhưng lại không muốn nhớ bất cứ ai đã làm ơn, giúp đỡ mình.
Trên thế gian này, trâu cột ghét trâu ăn, được làm vua thua làm giặc, có
ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra to, chuyện có nói không, chuyện không
nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát, được chim bẻ ná, được cá quăng
nôm, khen mình khinh người, là những "chuyện như thị," tức là những sự
thực đương nhiên, không cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được.
Hiểu được như thế và đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau
khổ nhiều lắm!
Chúng ta thường mơ ước, cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng
gió. Nhưng làm sao có thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như
mặt biển cả, sóng gió triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi
sóng lặng gió yên, cơn sóng này qua đi, thì cơn sóng khác lại đến. Việc
này chưa xong, thì việc khác lại xảy đến. Điều quan trọng hơn cả là
chúng ta cần nên biết áp dụng Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi việc, với
tâm thiền định, bình tĩnh, thản nhiên, chấp nhận, thì chúng ta sẽ giảm
bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp pháp một cách mù quáng, chúng ta đã,
đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu, trong nhiều đời
nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân
hồi.
3)
Sau khi chỉ rõ nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Đức
Phật chỉ bày cảnh giới niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh
tịnh, an lạc và hạnh phúc cho những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời
sống hằng ngày.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
Chư hành vô thường.
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ.
Tịch
diệt vi lạc.
Nghĩa là mọi sự mọi việc trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại
vĩnh viễn, gọi là pháp sanh diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi
cũng sẽ diệt đi, không có gì là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi,
chuyện buồn có đến rồi cũng qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi
việc. Chuyện vui hay buồn đều làm tâm của chúng ta loạn động và bất an.
Tâm của chúng ta dù khởi niệm từ bi, hay khởi niệm sân hận, rồi cũng
lặng đi, tất cả đều là các tâm niệm sanh diệt. Chỉ có khi nào các tâm
niệm sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng mất rồi, không còn nữa, chúng
ta sẽ được sống trong cảnh giới an lạc hạnh phúc, cảnh giới tịch diệt vi
diệu.
-
Trong Kinh A-di-đà, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt
được "nhất tâm bất loạn.
-
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của
người có tâm "bất tùy phân biệt," của người không còn tranh chấp thị
phi, phải quấy, hơn thua, đúng sai.
-
Trong Kinh Tịnh Danh, hay Kinh Duy-ma-cật, Đức Phật dạy:
đó là cảnh giới của người đạt được "pháp môn bất nhị," của người không
còn kẹt trong vòng đối đãi nhị biên, không còn thành kiến, định kiến,
thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
-
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt
được "thân kim cang bất hoại," của người không còn kẹt vì các hình tướng
giả tạm bên ngoài, của người đạt được "thực tướng."
-
Trong Bát-nhã Tâm Kinh, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người
đạt được "chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm," hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhã và chiếu kiến ngũ
uẩn giai không."
-
Trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Đức Phật có dạy: "Sanh diệt ký diệt,
tịch diệt hiện tiền." Nghĩa là khi nào tâm sanh diệt tiêu mất, không còn
nữa, thì cảnh giới tịch diệt, tức là cảnh giới niết bàn hiện ra trước
mắt. Cũng như khi nào mây đen tan mất, thì trăng sáng hiện ra trước mắt.
Cũng như khi nào phiền não và khổ đau hết, thì an lạc và hạnh phúc hiện
tiền. Nói một cách khác: "vọng tâm tiêu hết, chân tâm hiện tiền." Thực
là đơn giản, dễ hiểu như vậy.
Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không
thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc
bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt,
thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
Cảnh giới này không thể nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để
diễn tả trọn vẹn được, ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó,
thì tự người đó biết, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh
giới này còn gọi là "đạo."
Sách có câu: "đạo bất khả ngôn thuyết." Nghĩa là không thể dùng ngôn ngữ
của thế gian này để diễn tả, để chỉ bày, để nói về "đạo." Sách cũng có
câu: "ngữ ngôn đạo đoạn." Nghĩa là khi nói lên bằng ngôn ngữ thế gian
thì đã mất "đạo" rồi.
4)
Đến đây, Đức Phật chỉ dạy những phương pháp, những pháp môn để đạt được
"đạo," tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch diệt đó. Vấn đề hiện giờ
là: làm sao để các tâm niệm sanh diệt đó không còn khởi lên nữa, hoặc
các tâm niệm sanh diệt đó có khởi lên, làm sao cho nó lắng xuống, tiêu
mất? Nói cách khác: Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính
là trọng tâm của đạo Phật.
Toàn bộ giáo pháp của đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ
như ý túc, tứ chính cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ-đề phần và bát chánh
đạo. Chánh Pháp gồm 37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí
tuệ, bằng sự quán chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải chỉ bằng
niềm tin đơn giản mà thôi.
-
"Tứ Niệm Xứ" là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân bất tịnh,
nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ
nhớp, những thứ bất tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn
nhớ rằng thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp chặt,
thì tức nhiên là khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng
tâm ý con người đổi thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác, chớ
có chấp chặt làm chi cho khổ! Quán pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ
rằng mọi sự mọi việc trên thế gian đều không nhứt định, không cố định.
Thí dụ những quan niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở
thời đại nào đó mà thôi, không có thực thể cố định, không đúng với mọi
thời gian, không đúng với mọi không gian.
-
"Tứ chính cần" là bốn việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ thực hành một
cách chân chính. Đối với việc bất thiện đã sinh, phải trừ dứt hẳn, đối
với việc bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện chưa
sinh, làm cho sinh ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho tăng trưởng.
-
"Tứ như ý túc" là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa chúng
ta đến chỗ như ý muốn, thành tựu viên mãn. Đó là: dục, cần, tâm, quán.
Nghĩa là: chúng ta phải có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu sự giải
thoát, chúng ta phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo lý, chúng ta
phải khắc chế tâm niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết cách quán
chiếu để giác ngộ chân lý, thấu hiểu lẽ thực.
-
"Ngũ căn" là năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Đó là: tín, tấn,
niệm, định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc
nơi Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết mệt
mỏi, luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự
bình thản, tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để
suy xét mọi sự mọi việc, không tin tưởng bừa bãi, không mê tín dị đoan.
-
"Ngũ lực" là năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được.
Nghĩa là do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi Chánh
Pháp, do tấn lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san
bằng những trở ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn
ghi nhớ những thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập trung tư
tưởng, và do tuệ lực chúng ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi
sanh tử luân hồi.
-
"Thất bồ-đề phần," còn gọi là "thất giác chi," là bảy phần hiểu biết,
bảy điều dẫn đến chỗ giác ngộ. Đó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ,
khinh an, niệm, định, xả. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực
hư, chơn giả của tất cả các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả
các nghiệp bất thiện, thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ là tâm
luôn luôn vui vẻ với mọi người, với mọi việc trên thế gian, không phân
biệt gì cả, để tất cả chúng sanh đều hỷ kiến. Khinh an là tâm nhẹ nhàng,
an lạc khi dứt trừ các phiền não, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài
vòng tục lụy của thế gian. Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật,
đến tất cả chúng sanh, vì tâm từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các
việc phước thiện. Định là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an
nhiên, tự tại. Xả là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất
cả những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến,
thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ.
-
"Bát chánh đạo" là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích
cứu kính của đạo Phật: giác ngộ và giải thoát. Đó là: chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định.
1)
Chánh kiến là sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý
nhân quả, lý nhân duyên, lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu
biết này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến,
thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh kiến là
người thấy mọi sự mọi việc "đúng như thực."
Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy: "Hãy đến với đạo Phật để thấy đúng
như thực, chứ không phải chỉ đến để mà tin!"
Thấy "đúng như thực" nghĩa là sao? Nghĩa là:
-
Mọi sự việc đều có nguyên nhân. Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên,
chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không phải tự nhiên mà có.
Khi được bình an, sung sướng, chúng ta hiểu là đang hưởng phước. Khi gặp
tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là đang đền trả quả báo. Tất cả việc
phước hay họa là quả của nhân, do chúng ta gieo trước đây, đời trước hay
đời này, chứ không do ông trời nào ban phước giáng họa bừa bãi cả. Đó là
lý nhân quả.
-
Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách
do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng
bìa mà hình thành. Đến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt,
bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên
mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lý nhân duyên.
-
Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới
có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới
có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người
mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự thì sự mới sinh.
Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra
tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lý duyên khởi,
trùng trùng duyên khởi.
2)
Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi
mình hại người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định
kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy:
-
"Không nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người
có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất
cả những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.
-
Chỉ nên tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với
lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và
cho mọi người."
Bởi vậy, Đức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu."
Nghĩa là chúng ta hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học
hỏi, rồi suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chín chắn, thấu đáo, trước khi
thực hành, tu tập theo.
3)
Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu
dệt, gây hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không
trái lẽ thực, không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho
kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn
kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là người không nói những lời khiến
kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ
là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là
người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói,
chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.
4)
Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình
hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta
cũng không có hành động trả đũa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì
hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ
báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, thì chúng ta đừng
làm y như vậy đối với người. Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy:
"Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Đồng
Phật vãng tây phương."
Nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng
ta theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
5)
Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm
những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để
sinh sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi
mình lợi người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống
bám vào kẻ khác, không sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục
vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
6)
Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là
làm tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu
tâm dưỡng tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mỏi, buông lung hay thối
tâm. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
"Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị
chư Phật giáo."
Trong kinh sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng
mãnh, vượt ngoài ý chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế
Chí.
7)
Chánh niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn
tránh sự đấu tranh, cãi vã.
Chư Tổ có dạy:
"Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại
hoằng bất tranh chi đức."
Nghĩa là con người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong
tâm, con người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn,
hiền hòa. Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang
làm gì, đang nói gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận
biết ngay mỗi khi vọng niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và
sống theo lời Phật dạy, luôn luôn sống với Chân Tâm Phật Tánh, tức là
với Bản Tâm Thanh Tịnh.
8)
Chánh định là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán
tâm từ bi để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất
tịnh để dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si
mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp
xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán
sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng
lộn xộn.
Người có chánh định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã,
đưa đến giác ngộ và giải thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ."
Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng
đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người
đời gọi là hai thái cực. Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị," giúp
chúng ta làm lặng tắt những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không
còn phiền não và khổ đau, để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi
tây phương cực lạc, để được giác ngộ và giải thoát.
Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được
gọi là Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân
loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được
cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho
bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại
gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không
học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì
hiện đời cả. Chư Tổ có dạy:
"Tu mà không học là tu mù.
Học
mà không tu là đãy sách."
Nghĩa là muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải
thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh
Pháp cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn,
thì làm sao đi đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đã tu
mù, không nghiên tầm giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt người
khác tu tập, thì quả là đại họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng
thực sư tử nhục. Trái lại, Chánh Pháp để áp dụng, thực hành chứ không
phải để nói suông, để thảo luận, để tranh cãi. Người chỉ lo học hiểu để
thỏa mãn kiến thức, mà không lo tu tập, không áp dụng vào đời sống hằng
ngày, thì cũng chỉ có thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví
như cái đãy, cái túi đựng sách có giới hạn vậy thôi. Những người đó cũng
như những người đếm tiền trong ngân hàng, những người đếm bò cho chủ,
trọn không có tiền và cũng không có bò.
Có
câu chuyện giáo lý tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm
người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù
bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày
cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người
bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có
lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có người đi đụng phải anh.
Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người
kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!
Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta
tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm
luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không
được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính
chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người chúng
ta vậy.
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|
|