|
. |
Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần III
Phật giáo và các vấn đề thời đại
--- o0o
---
ĐỨC PHẬT: NHÀ GIÁO DỤC VĨ ĐẠI
Thích Huệ Khai
Con người vĩ đại đó,
tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã
khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài và tôn kính Ngài
như một vị đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại.
I. DẪN NHẬP
Dòng thời gian vẫn tiếp
diễn qua nhanh như cố tìm quên cái gì của quá khứ, hết Xuân đến Hạ, Thu
tàn Đông sang, vạn vật cứ chuyển xoay theo dòng đời vô tận. Qui luật vô
thường là thế. Hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, vạn vật đều lắng chìm
tận đáy dòng đời sanh diệt, diệt sanh. Thế nhưng cái giá trị nghìn đời
của chân lý đạo đức sống của Đức Thích-ca-mưu-ni, vẫn hiển hiện muôn
màu, muôn vẻ. Bao tinh anh kết tụ và hội nhập tạo thành một vầng trăng
chân lý vi diệu giữa hư không, vầng trăng ấy đã soi sáng rạng ngời, xua
tan bóng tối vô minh của đêm trường tham ái, mang lại hạnh phúc cho con
người.
Hôm nay, bao khối óc, bao
con tim từ phương trời đất Việt trở về đây cùng hòa chung nhịp, đồng một
chí hướng ngồi lại bên nhau, ôn lại chân lý ấy. Chân lý của con đường
giải thoát mà Đức Thích-ca-mưu-ni đã đạt được tại Bồ-đề Đạo Tràng này.
Suốt 45 năm du hành giáo
hóa, sứ mệnh hoằng pháp của Như Lai chỉ tuyên dương con đường giải
thoát. Những lời dạy của Ngài đã được kết lại thành Tam Tạng Thánh Điển.
Ngày nay, được các nhà nghiên cứu trên thế giới nhận xét và đánh giá
khác nhau. Giáo lý ấy ví như viên kim cương, tùy theo góc độ người đứng
xem mà nhận xét. Vì vậy, có người đánh giá Ngài như một nhà triết học,
lại có người nhận xét Ngài như một nhà khoa học, cũng có người cho rằng
Ngài là nhà tâm lý học, nhà hùng biện…. Trong bài viết ngắn này, chúng
tôi xin trình bày vài nét về Đức Phật Thích-ca-mưu-ni như là một nhà
Giáo dục vĩ đại.
II. VÀI NÉT VỀ GIÁO
DỤC CỦA ĐỨC PHẬT
Các nhà nghiên cứu giáo
dục Phật Giáo cho rằng nền giáo dục cổ đại Ấn Độ, đặc biệt là tinh thần
giáo dục của Upanishad, chỉ nhằm khám phá ra sự huy hoàng của ánh đuốc
thiên đàng, làm cho con người có cuộc sống ảo tưởng với vầng hào quang
huy hoàng ấy. Theo kinh Badaryana của Bà-la-môn, mục tiêu giáo
dục là nhằm tạo ra con người trí tuệ, thánh thiện và siêu nhiên. Vì vậy,
mục đích giáo dục cổ đại Ấn Độ là chỉ đem lại tính chất làm tăng trưởng
sức mạnh của tâm thức. Với ý tưởng phát triển hiểu biết của con người,
giúp con người đứng vững đôi chân của mình bằng trí tuệ, lòng tự tin để
mạnh dạn bước đi cho hết kiếp người trên đường đời đầy chông gai nghiệt
ngã này. Hay nói cụ thể hơn, nền giáo dục cổ đại Ấn Độ nhắm tới việc xây
dựng con người chân thật, theo đúng ý nghĩa của nó.
Theo Phật giáo, con người
là trung tâm điểm. Sự chiến tranh hay hoà bình của nhân loại từ xưa đến
nay đều do con người gây ra. Vấn đề chính yếu là làm thế nào để giáo dục
con người thẳng tiến trong con đường phát triển trí tuệ một cách có
phương pháp để đem lại an lạc và hạnh phúc cho mình và người. Điều đó,
đối với các nhà giáo dục cổ đại Ấn Độ lúc bấy giờ chỉ là một giấc mơ.
Mãi đến khi tôn giả Gotama đạt được giác ngộ tại Bồ-đề Đạo Tràng này,
thì giấc mơ ấy trở thành hiện thực. Đức Phật đã vạch ra con đường giáo
dục cụ thể, có lý thuyết, có thực hành và có kết quả trí tuệ, giải thoát
khỏi khổ đau thật sự từ con người, ngay trong đời sống hiện tại.
TINH THẦN GIÁO DỤC
CỦA ĐỨC PHẬT
Đức Như Lai là một nhà
giáo dục bình đẳng, Ngài tuyên bố với nhân loại rằng cánh cửa thành công
đạt được con đường giải thoát phải rộng mở cho tất cả mọi người, từ nam
nữ, lớn nhỏ, sang hèn, cao thấp, đạo đức hay tội lỗi. Nếu ai biết cải
thiện đời sống trong sạch thì sẽ đạt được con đường giải thoát như đức
Phật. Trong lịch sử nhân loại, đức Phật là người đầu tiên phủ nhận các
học thuyết về tập cấp xã hội, trong đó, thể chế người có sức mạnh sẽ cai
trị và là chân lý trong khi người yếu sức sẽ bị làm nô lệ. Đức Phật đã
nâng những giai cấp thấp tận cùng xã hội đứng ngang hàng địa vị của
những người được coi là giai cấp cao nhất lúc bấy giờ, thông qua tiêu
chí đạo đức và trí tuệ. Cũng chính đức Phật, người đầu tiên trong lịch
sử nhân loại, đã đưa vai trò người phụ nữ lên địa vị cao bằng cách thiết
lập giáo đoàn nữ đầu tiên trong lịch sử các tôn giáo. Theo đức Phật, nếu
giá trị thật của con người nằm ở đời sống đạo đức và trí tuệ thì con
đường giác ngộ giải thoát không có ranh giới của giới tính, chủng tộc,
màu da . . . Bất cứ ai, một khi thực hành đúng chánh pháp sẽ chắc chắn
chứng đắc được các quả vị như nhau, đạt được hạnh phúc và an lạc như
nhau.
MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC CỦA ĐỨC
PHẬT
Mục đích giáo dục của Đức
Phật nhắm vào con người nhiều hơn, vì con người là trung tâm điểm của
thế giới. Hạnh phúc hay khổ đau, hòa bình hay chiến tranh cũng từ con
người mang đến. Do đó, để xây dựng một xã hội vững mạnh và an định về
kinh tế, chính trị, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, trước tiên theo đức
Phật phải giáo dục con người chính nó, từ mặt vật lý, tâm lý, sinh lý,
cho đến ý chí tình cảm và trí tuệ. Đọc lại kinh Thiện Sanh thuộc
kinh Trường Bộ số 16
(1) chúng ta sẽ bắt gặp Đức Phật nói về sáu
mối tương quan để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Đó là mối tương quan giữa
cha mẹ và con cái; giữa Thầy và trò; vợ và chồng; cá nhân và bà con láng
giềng, bạn bè; chủ và thợ; tu sĩ và cư sĩ. Trong đoạn kinh khác (Kinh Du
Hành số 2- Trường A Hàm
I), đức Phật trả lời gián tiếp với Bà-la-môn Võ-xá, đại thần của vua
A-xà-the,?về bảy phương pháp làm cho đất nước cường thịnh. Kinh Tăng
Chi, chương 7 pháp cũng đề cập đến 7 điều làm cho đất nước phồn
vinh. Trong Kinh chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành số 6 (Trường
A Hàm I) Đức Phật dạy, sở dĩ có người trộm cắp, hung ác, cướp bóc là
do họ nghèo đói. Muốn chấm dứt nạn này (trộm cắp, hung ác, cướp bóc) thì
phải cải thiện đời sống cho họ, cấp hạt giống cho người dân, đầu tư cho
các thương gia và phải trả công thích đáng cho người làm thợ. Ngài cũng
dạy, nên thay đổi chi phí cúng tế thần linh để cứu trợ cho người dân
nghèo. Toàn bộ hệ thống giáo lý của đức Thế Tôn không ngoài mục đích cải
tạo con người xấu thành người tốt, người tốt trở thành người tốt hơn,
phàm thành thánh. Giáo dục của Phật giáo là giáo dục chuyển hoá bản thân
và xã hội, trên cơ sở tự lực của mỗi người.
PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT
Từ khi thành đạo cho đến
ngày đi vào đại niết-bàn, Đức Như Lai không ngừng giáo dục cho nhân
loại. Trong suốt quá trình 45 năm dài (theo kinh điển Pali) hay 49 năm
(theo kinh điển Đại thừa), đức Phật đã tiếp xúc nhiều đối tượng khác
nhau trong mọi tầng lớp xã hội, từ các nhà trí thức, đạo sĩ ngoại đạo,
vua quan, người giàu sang, cho đến người thấp hèn, hạng người sát nhân,
gái giang hồ, trẻ chăn trâu, ác ma, chư thiên, càn-thác-bà. Có khi Ngài
dạy cả số đông hay một nhóm người hoặc nếu cần Ngài chỉ dạy cho một
người. Sau thời giảng của đức Phật đều có người đắc được quả thánh thứ
nhất và cuối cùng. Phương pháp của đức Phật nằm trên tính khế cơ, phân
tích, giải thích rất tỉ mỉ và nhắc đi nhắc lại nhiều lần vấn đề gạn lọc
tâm ý để thiện hoá con người và xã hội. Ngài thường dùng hình ảnh so
sánh hoặc ví dụ và chọn lọc những gì mà chúng sanh đang cần dạy và liên
quan đến cuộc sống hiện tại của người nghe, để giúp cho người nghe dễ
dàng lãnh hội những ý tưởng sâu sắc trong những ngôn ngữ rất mộc mạc,
bình dân. Ví như trong Kinh Tiễn Dụ số 221,(2) Tôn giả Man Đồng Tử đặt ra mười câu
hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn: "Thế giới thường hay vô thường? Như Lai có
tồn tại sau khi chết? v.v..." Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài nói
cho Man Đồng Tử nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Vấn đề cấp
thiết là giải phẫu để giải độc ngay, chứ không phải là vấn đề tìm cho ra
ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên, bởi lẽ người trúng tên độc sẽ
có thể chết trước khi biết được tông tích của hung thủ. Cũng thế, vấn đề
cấp thiết của con người là nhổ mũi tên "khổ đau" chứ không phải đi tìm
những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực. Một lần
khác ở Kosambi (Tương Ưng Bộ Kinh V), Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo:
"Những gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsàpa, còn những gì mà Như Lai
giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay, nhưng đây là những phương thức
thoát khổ." Đấy là tính chất thực tiễn, thực tế, rất thiết thực hiện tại
của những lời giảng dạy của Thế Tôn. Chúng ta còn thường thấy ở các kinh
khác, ý nghĩa thiết thực hiện tại được Thế Tôn cắt nghĩa: quán sát tự
thân, tự tâm để thấy rõ tham, sân, si mà đoạn trừ. Chẳng hạn như pháp Tứ
Đế, khi nào còn con người tham dục- còn đau khổ thì chân lý Tứ Đế vẫn
còn tồn tại giá trị nghìn đời. Đó là một trong các ý nghĩa thiết thực
nhất của bốn chân lý này.
PHONG CÁCH DẠY
CỦA ĐỨC PHẬT
Như đã nói ở trên, Đức
Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại, phủ bác các chế độ tập
cấp xã hội. Ngài luôn luôn nâng cao tinh thần tự do và bình đẳng. Ngài
không bắt buộc người học trò rập khuôn theo Ngài, cũng không bắt buộc
học trò nô lệ giáo lý hoặc nô lệ chính Ngài. Những ai học với Ngài đều
được quyền tự do tư tưởng. Đức Phật thường dạy các đồ đệ đừng vì kính
nể, tôn trọng Ngài mà nhắm mắt tin theo lời Ngài dạy. Hãy thực hành lời
ngài dạy nếu tự mình tư duy, kiểm nghiệm và cảm thấy có lợi ích. Phong
cách dạy của Đức Phật đặt trên nền tảng trí tuệ và giải thoát làm căn
bản. Bởi vậy, khi tiếp nhận lời dạy của Đức Phật phải suy tư, phải tìm
hiểu một cách kỷ thì mới có thể lãnh hội hết ý nghĩa thâm sâu chứa đựng
bên trong, và dĩ nhiên lợi ích của nó lại càng to lớn hơn nữa. Trong
kinh Kitagini (Trung Bộ II) Đức Phật dạy người học trò chơn
chánh phải:"có lòng tin; đến gần; tỏ lòng tôn kính; lắng tai; nghe pháp;
thọ trì pháp; suy tư ý nghĩa các pháp; chấp nhận các pháp; ước muốn sanh
khởi; nỗ lực; cân nhắc và tinh cần."
Đức Phật vừa là một vị
Thầy vừa là một vị Cha (Thiên Nhơn chi Đạo Sư, Tứ Sanh chi Từ Phụ) của
loài người và loài thần linh. Ngài luôn thể hiện lòng từ mẫn thương
tưởng đến tất cả chúng sanh. Ngài dẫn dắt, an ủi, nâng đỡ những bà mẹ
bạc phước như Patàcàrà và Kisàgotami. Tự tay Ngài chăm sóc cho những
người bịnh hoạn, cô đơn như Patigatta Tissa Thera. Ngài giúp đỡ người
nghèo đói và người bị bỏ rơi như Rujjumàlà và Sopàka. Đức Phật nâng đời
sống đạo đức của những hạng người tội lỗi sát nhân như Angulimàla và
hạng gái gian hồ hư hỏng như Ambapali. Ngài khuyến khích kẻ yếu hèn,
đoàn kết lại những người chia rẽ .Tất cả đều hưởng được những lời dạy
đầy trí tuệ của Ngài. Đức Phật là một vị Thầy bao giờ cũng thể hiện tình
thân thiện đến những người học trò. Ngài thường sinh hoạt bên cạnh người
học trò, theo dõi từng dòng tư tưởng của học trò, ví như người bác sĩ
từng sống cùng bịnh nhân, nên hiểu từng căn bịnh của bịnh nhân mà cho
thuốc.
Đức Phật là vị Thầy không
độc quyền, không độc đoán và không độc tài lãnh đạo giáo hội. Ngài
khuyên các đệ tử lớn, như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên . . . thu nhận đệ
tử. Đức Phật ân cần truyền trao kinh nghiệm phong cách một vị thầy cho
các đệ tử. Đó là những mối tương quan, ảnh hưởng qua lại giữa thầy và
trò. Đối với người Thầy đức Phật dạy phải:
- Có lòng thương tưởng
đến người học trò.
- Rèn luyện phẩm hạnh và
tư cách đạo đức cho học trò.
- Truyền dạy cho học trò
đến nơi đến chốn những kiến thức khoa học và trí tuệ của người xưa.
- Ngợi khen học trò
trước mặt các bạn bè, và người thân.
- Bảo vệ học trò khỏi
những nguy khốn của cuộc đời.
Ngược lại, người học trò
phải thể hiện đúng bổn phận của mình:
- Phụng dưỡng Thầy chu
đáo.
- Đứng dậy chào khi Thầy
đi tới và hầu hạ khi thầy cần đến.
- Lắng nghe lời Thầy dạy
với lòng tôn kính.
- Thực hành những bổn
phận cần thiết đối với Thầy.
- Hết lòng thực hiện
những điều Thầy dạy (nếu những điều đó đúng Chánh Pháp).
Những gì Đức Phật dạy đều
phát xuất từ đời sống kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân. Sau khi
thực hành có hiệu quả, đức Phật đã truyền dạy lại cho chúng sanh. Trong
Kinh Tăng Chi I,(3) Đức Phật đã tán dương và xác nhận Tôn giả
Xá-lợi-phất là đệ tử trí tuệ đệ nhất. Cũng trong kinh này, một lần khác
Đức Phật dạy: "Các Tỷ-kheo mong cầu một cách chơn chánh, sẽ mong cầu như
sau: "Mong rằng ta sẽ như Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên." Đây là cán cân,
này các Tỷ kheo, đây là đồ đo lường đối với các đệ tử Tỷ-kheo của ta,
tức là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên."(4) Tôn giả Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên thường thay mặt Đức Phật giảng dạy hoặc hướng dẫn trực
tiếp đại chúng và các Tỷ-kheo trẻ tuổi.
Tóm lại, Đức Phật là một
vị Thầy giàu lòng bi mẫn và rộng lượng khoan hồ?g hơn tất cả. Đức Phật
đã truyền dạy cho chúng ta những ý chí sắt đá, trí tuệ cao siêu, đức vị
tha phục vụ, sự thoát ly chưa từng có, hãy sống đời gương mẫu, làm lợi
lạc cho mình và người và cả hai. Phương pháp toàn thiện mà Đức Phật đã
truyền bá cho chúng ta có nhiều kết quả mỹ mãn. Con người vĩ đại đó, tấm
lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến
muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài và tôn kính Ngài như một
đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại, như Sri Radhakrishnan
nói: " Nơi Đức Phật Cồ-dàm ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của
phương Đông. Ảnh hưởng Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một
kỳ công hi hữu, cho đến ngày nay không thua kém của bất cứ vị giáo chủ
nào trong lịch sử."(5)
III. KẾT LUẬN
Đức Phật là nhà giáo dục
vĩ đại, phương pháp giáo dục của Ngài không chỉ khế cơ, khế lý mà còn
khế thời, phù hợp và đáp ứng được những gì mà chúng sanh, hôm qua, hôm
nay và ngày mai mong đợi. Ngài là người đem lại ánh sáng trí tuệ giác
ngộ cho cuộc đời và diệt trừ nhưng nguyên nhân gây khổ đau cho cuộc đời.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này, không ngoài mục đích chính là chỉ
bày cho tất cả chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình. Hay nói
đúng hơn là "Vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
Chư thiên và loài người." Vì mục đích tốt thượng đó, suốt bốn mươi lăm
năm, Đức Thế Tôn phục vụ cho tất cả chúng sanh không ngừng nghỉ.
Hôm nay, chúng ta ôn lại
giáo lý của Đức Phật, không phải để đánh giá, nhận xét hay để thưởng
thức như một bức tranh toàn hảo, mà nhằm cùng chiêm nghiệm để thực hành
trên con tu tập của chúng ta. Hình ảnh đầu trần, chân đất, một bình bát
và ba y đi khất thực hằng ngày, có thể chúng ta không thực hành được như
Ngài. Những điều giác ngộ cao siêu như Ngài, chúng ta cũng có thể chưa
đạt được. Nhưng phong cách một vị thầy và lời dạy của Ngài, chúng ta sẽ
thực hành được. Vì những điều Đức Phật dạy không vượt ngoài khả năng con
người.
Khi viết bài này, chúng
tôi cốt chỉ khái quát vài nét nhỏ về phương pháp và phong cách giáo dục
của đức Phật như một vị Thầy vĩ đại. Chúng tôi cố giắng trình bày, nhưng
không thể nào diễn tả hết sự kỳ diệu của phương pháp giáo dục của ngài,
chẳng khác nào như con muỗi uống nước đại dương. Mặc dù vậy con muỗi
cũng cảm nhận được vị nặn của dòng nước đại dương ấy.
Chú thích:
(1)
Đại Tạng Kinh Việt Nam Aa1, Kinh A Hàm I, Viện Nghiên cứu Phật Học
Việt Nam, 1991, tr. 566-574.
(2) Đại Tạng Kinh Việt Na, Kinh Trung A
Hàm IV , Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam, 1992, tr 738-747.
(3) Kinh Tăng Chi I, bản dịch của HT
Thích Minh Châu, 1980, tr.30.
(4) Kinh Tăng Chi I. tr.102.
(5)
Gautama the Buddha, tr.1
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|
|