Những đặc điểm của đức Phật
Thích Thông Huệ
--- o0o
---
Ðọc lịch sử Ðức Phật Thích Ca từ khi sinh ra đến khi thành
đạo và nhập diệt, chúng ta thấy Ngài cũng là một người như bao người
bình thường khác. Ngài cũng từng hưởng lạc thú thế gian, từng đau khổ
bệnh hoạn và cuối cùng, cũng từ giã cuộc đời như bất cứ ai. Ðây là một
điều khích lệ lớn, vì chúng ta thấy Ngài vô cùng gần gũi, và tin tưởng
mình cũng có khả năng tu hành, chứng ngộ như Ngài, nếu chúng ta biết đi
đúng đường đúng hướng.
Kim Kim Cang, đoạn mở đầu diễn tả một số công việc thường nhật của Ðức
Bổn Sư: “Khi ấy gần đến giờ thọ trai, Ðức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại
thành Xá Vệ khất thực. Trong thành, Ngài theo thứ lớp khất thực xong,
trở về trú xứ. Sau khi thọ trai, Ngài cất y bát, rửa chân, trải tòa
ngồi”. Tất cả việc làm này hoàn toàn quen thuộc đối với mọi người, không
có gì mang tính chất siêu phàm vượt thế hay phô diễn thần thông diệu
dụng. Vậy tại sao Trưởng lão Tu Bồ Ðề cung kính ca ngợi: “Ðức Thế Tôn!
Thật ít có, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ tát, khéo phó chúc các vị Bồ
tát”?. Như hoa sen trong bùn vẫn nở hoa tinh khiết, Ðức Phật ở trong
trần lao nhưng không vướng chút nhiễm nhơ. Ngài đã tẩy sạch lậu hoặc
phiền não, không còn vô minh tăm tối. Hàng ngày Ngài vẫn đối duyên xúc
cảnh, vẫn sinh hoạt nói năng, nhưng tâm Ngài không khởi niệm phân biệt
khen chê ưa ghét. Nhà Phật gọi đó là Tâm bình thường tâm ấy chính là
Ðạo. Toàn thân Ðức Phật là Ðạo, nên bên trong hình thức bình thường lại
chứa đựng sự phi thường, ngay nơi những hành động thường tục luôn ẩn
tàng sự siêu tục. Chính vì thế, chúng ta luôn xưng Ngài là Ðấng Thế Tônẳ
bậc tôn quí của thế gian.
Do rốt ráo chứng ngộ, có cái nhìn thấu thể vào bản chất muôn pháp, nên
Ðức Phật không chấp nhận có một quyền lực siêu nhiên nào có thể kiểm
soát và chi phối vận mệnh con người. Ngài cũng từng nói, Ngài không phải
là một đấng thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai. Mỗi người tự
làm chủ vận mệnh của mình, tự mình tạo nghiệp và thọ hưởng kết quả của
nghiệp; không ai cứu rỗi được mình và mình cũng không thể tu thay cho
người khác.
Phật dạy:
"Hãy tự xem con là hải đảo của con
Hãy tự xem con là nơi nương tựa
của con
Không nên tìm nương tựa nơi
ai khác”
Người đi biển gặp trận cuồng phong, thuyền gần chìm đắm, bỗng nhiên thấy
một hòn đảo ở phía trước, ai cũng muốn tấp ngay vào để tìm sự bình an.
Hải đảo là nơi nương tựa của thuyền khi gặp tai nạn trên biển, cũng như
mình là nơi nương tựa vững chắc của mình khi bị sóng đời vùi dập. Ðối
với người tu, sự nỗ lực cá nhân chính là điều kiện quyết định để đạt mục
tiêu giác ngộ và giải thoát. Nếu gởi gắm mục đích tối hậu của đời mình
vào một năng lực siêu nhiên, ấy là ta đã lầm lạc từ căn bản. Ðức Phật
còn bị nạn kim thương mã mạch, huống gì phàm phu chúng ta. Cho nên, cầu
Phật gia hộ cho mình luôn gặp may mắn hạnh phúc, là điều không thực tế.
Chúng ta hiểu cặn kẽ luật nhân quả, có sức mạnh tinh thần, thì dù gặp
thử thách khó khổ vẫn có sức tự chủ và kham nhẫn. Người biết tu không
phải mong tránh khỏi nạn tai, mà là người luôn giữ chánh niệm tỉnh giác
trước mọi hoàn cảnh thuận nghịch trong đời.
Ðề cao tinh thần tự lực, không phải đạo Phật hoàn toàn chối bỏ sự gia
trì giúp đỡ của tha lực. Tuy “tự mình thắp đuốc lên mà đi”, nhưng phải
“thắp lên với chánh pháp”. Ðức Phật là bậc Ðạo Sư, vị Thầy dẫn đường.
Chúng ta tự mình tiến bước, nhưng phải đi theo con đường Ngài đã đi, nếu
không muốn lạc vào ngã rẽ. Khi tâm ta thanh tịnh, phần nào tương ưng
cùng tâm chư Phật, Bồ tát, tự nhiên được thần lực của các Ngài gia hộ độ
trì, sự linh ứng sao có thể phủ nhận? Nếu tham sân si còn đầy dẫy mà
thắp hương dâng lễ cầu xin việc này việc khác, mong các Ngài thỏa mãn
nguyện ước của mình, thử hỏi điều mong ước ấy có thể thành tựu được
không?
Trả cho con người quyền làm chủ cuộc đời mình, trong cả ba thời quá khứ
- hiện tại - tương lai, quả thật đạo Phật mang tính nhân bản rất cao và
tính tự do tuyệt đối. Ðây là một nét độc đáo của đạo Phật, vì vị Giáo
chủ không bao giờ tự xưng minh là Ðấng cứu tinh của nhân loại. Với tinh
thần này, chúng ta đến chùa nghe pháp, cũng không vội vàng tin tưởng mù
quáng vào ai, không thần tượng hóa người nào, dù đó là một vị thầy khả
kính. Nói như thế không phải khuyến khích sự tự tôn kiêu mạn hay sự nghi
ngờ quá đáng, mà chỉ cốt đề cao khả năng tư duy độc lập, trí tuệ nhận
định đúng - sai, hay - dở. Người Phật tử cần có chánh kiến và chánh tín,
biết đâu là đường hướng phải theo, ai là vị thiện tri thức hướng dẫn đời
mình. Khi đã quyết định đúng, ta sẽ có niềm tin kiên cố, có sức mạnh phi
thường vượt qua mọi trở ngại gian nan để hoàn thành đạo nghiệp. Ta sẽ có
sức sống trào dâng, có cơ hội bơi lội vào công phu của chính mình để
truyền đạt sức sống ấy cho mọi người xung quanh.
Một đặc điểm quan trọng và độc đáo góp phần hình thành nhân cách vĩ đại
của Ðức Phật, cũng là một yếu tố căn bản khiến đạo Phật còn lưu truyền
mãi đến ngày nay, là tính bình đẳng đích thực. Không những Ngài chủ
trương bình đẳng giữa những giai cấp trong xã hội, giữa hai giới nam và
nữ, mà còn bình đẳng giữa loài người với mọi loài chúng sanh. Ðặc biệt
hơn cả là sự bình đẳng giữa Ngài là vị Giáo chủ tối cao với tất cả môn
đệ. Bằng trí tuệ siêu xuất của một bậc Giác ngộ toàn triệt, Ngài thấy
mọi chúng sanh đều có Phật tánh, mọi chúng sanh đều có khả năng thành
Phật. Vàng còn trong quặng bị lẫn nhiều tạp chất, chưa biểu lộ giá trị
thật sự của nó. Ðến khi được tội luyện thành vàng ròng, nó mới được tôn
vinh. Ðức Phật là vàng đã tôi luyện, chúng sanh còn là vàng trong quặng
phiền não vô minh. Nói về hình thức, Phật và chúng sanh khác nhau ngàn
trùng. Nhưng về bản chất, thì rõ ràng giữa Phật và chúng sanh không hơn
không kém. Bản chất vàng ấy là Phật tánh bình đẳng của muôn loài hữu
tình, mà nếu nhận ra và hằng sống với nó, tức đã có chánh nhân thành
Phật.
Tâm từ bi của Ðức Phật vô cùng rộng lớn, nên Ngài đối xử bình đẳng với
tất cả mọi người, không phân biệt thân sơ, thù bạn. Kẻ sát nhân
Anguilimala hay kỹ nữ Ambapali cũng được Ngài giáo hóa và thành tựu công
hạnh như các đại đệ tử của Ngài. Ngay như Ðề Bà Ðạt Ða, kẻ phá hòa hợp
Tăng, ác tâm hãm hại Ngài nhiều lần, Ngài vẫn tha thứ bao dung. Thuyền
to sóng lớn, chính người có công phu tu hành cao thâm lại thường gặp
nhiều trở ngại thử thách kinh khiếp, mà nếu vượt qua được, sẽ tiến một
bước rất dài trên đường đạo. Cho nên, ta có thể hiểu vì sao Ðức Phật bảo
Ðề Bà Ðạt Ða là thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài. Chúng ta theo
gương Ngài, nhìn cuộc đời bằng đôi mắt bao dung như thế thì phiền não
giảm thiểu biết chừng nào!
Một số giáo phái thời Ðức Phật có tục lệ giết súc vật tế cúng thần linh.
Bằng biện tài vô ngại, Ðức Phật đã thuyết phục được ngoại đạo bãi bỏ
việc giết hại ấy. Trong giáo đoàn của Ngài, các môn đệ đều phải giữ gìn
cấm giới, mà giới không sát sanh, bao gồm việc không giết người và cả
súc vật được đưa lên hàng đầu. Bởi vì, tất cả chúng sanh hữu tình đều có
mạng sống, cũng ham sống sợ chết như con người. Không lý gì con người
lại dùng sinh mạng của chúng để phục vụ cho nhu cầu dinh dưỡng và giải
trí cho mình; nói chi đến việc tế lễ cầu Thánh thần ban ơn phước. Ngay
cả cây cỏ, chúng cũng có cái biết, dù rất yếu và thô. Ngày nay, các nhà
khoa học đã chứng minh, cây khi được nghe những bản nhạc êm dịu sẽ trổ
hoa và ra trái nhanh hơn những cây đối chứng. Cách đây trên 25 thế kỷ,
vị Giáo chủ của chúng ta đã dạy các Tỳ kheo, phải có lòng biết ơn những
loài thực vật cho mình bóng mát, rau quả, không được hủy hoại mầm sống
dù ở hình thức nào. Có thể nói, người tu theo tinh thần đạo Phật không
những tôn trọng sinh mạng của con người và loài vật, mà còn biết bảo vệ
môi trường sống, biết tạo khung cảnh yên lành thanh lương cho tất cả
chúng sanh.
Chúng ta nguyện noi gương Ngài, nỗ lực tu hành để phát huy trí tuệ và từ
bi, tích cực đem Ðạo vào đời để chan rải niềm an lạc hạnh phúc cho tất
cả mọi loài. Một ngày nào đó, chúng ta viên thành công hạnh tư lợi ố lợi
tha, đó mới thật là đền đáp được ơn sâu dày của Ðức Bổn Sư, mới không cô
phụ bản hoài của chư Phật Bồ tát. Tu hành theo tinh thần ấy, chúng ta
mới xứng đáng là môn đệ trong nhà Phật, và dù đã xa Ðức Phật một khoảng
cách không gian và thời gian, chúng ta vẫn ở trong Pháp hội Linh Sơn,
vẫn được tắm gội trong hào quang vi diệu của Ngài, vẫn tận hưởng khoảnh
khắc thiên thu của cành sen Ðức Phật và nụ cười Ca Diếp.
Tịnh thất Viên Thông - Phật Ðản 2546
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật ngày: 01-07-2002