Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần III
Phật giáo và các vấn đề hiện tại
--- o0o
---
TẢN MẠN VỀ NHÂN BẢN TRONG PHẬT GIÁO
Thích Đức Trường
Chủ
nghĩa nhân bản Phật giáo có phải chăng là hồi chuông thức tỉnh trầm lắng
sâu vào nguồn tâm kêu gọi con người hãy nhận rõ những gì ảo vọng, tạm
bợ, chóng tàn, tự mở ra cánh cửa bất tử vượt thoát khỏi sanh, già, bệnh,
chếT, tìm đến con đường an vui hạnh phúc.
Chủ nghĩa nhân bản ở phương Tây ra đời trong thời kỳ được gọi là phục
hưng và phát triển mạnh mẽ cùng với thời đại khoa học nhằm giải quyết
vấn đề đời sống con người và những giá trị liên quan các hiện tượng trên
hành tinh.
Trong khi đo,?ách đây hơn 2500 năm chủ nghĩa nhân bản Phật giáo đã xuất
hiện ở Ấn Độ và lan truyền rộng khắp phương Đông, khác hẳn với các tôn
giáo như Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Hindu Giáo, Lão Giáo…. Phật giáo
không chủ trương tin tưởng vào thần quyền hay đấng sáng tạo nào làm chủ
điều khiển con người và vũ trụ; cũng không tin vào một truyền thống hay
một tập tục lâu đời nào.
Phật giáo thuyết phục con người nên tin vào chính mình bằng sự xem xét
của nội tâm, không tin tưởng một cách mù quáng vào lời tuyên bố của ai
khác.
Trong Aơ guttara Nik ya, Đức Phật đã cho lời khuyên đến K l
ma: Này K l ma, đừng chấp nhận chỉ vì nó được đồn đãi, bởi vì nó được
lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, bởi vì nó phù hợp với kinh
Thánh, với luân lý, bởi điều đó thú vị để nghe, hoặc người nói có trách
nhiệm, có nhân cách, hoặc người đó đáng kính trọng. Bản thân ông bằng
kinh nghiệm của chính mình, xét xem điều đó có phải là điều thiện
(kusala) không lỗi lầm , có thể chấp nhận và khâm phục bởi người trí, có
cách cư xử và thái độ phù hợp mang lại điều hạnh phúc. Này K l ma, ông
nên theo những điều đó".
Những dòng kệ từ Jn nas ra Samuchchaya, Đức Phật dạy:
Như người thợ thử vàng
Đốt mài trong lửa đỏ
Cũng vậy lời của ta
Nên hướng thượng chấp nhận
Bằng tư duy quán chiếu.
Đức Phật Gotama (563-483), vị Thầy vĩ đại trong số các nhà thành lập tôn
giáo, được tuyên bố là nhà thực chứng đạt được quả Bồ-đề, giải thoát, ra
khỏi ba cõi. Ngài thôi thúc và mong mỏi những người theo Ngài bước lên
con đường tu tập tâm linh và giới hạnh đạo đức đã được khám phá trong
quá trình kinh nghiệm tinh thần của Ngài.
Trong ba minh mà Đức phật đã chứng đạt, hai minh đầu phản ánh các phương
diện nghiệp báo, luân hồi và tái sanh. Minh thứ ba hình thành bản chất
của đạo phật, sự vắng mặt các phiền não lậu hoặc; sự thành tựu giác ngộ
và giải thoát. Điều chú ý ở đây, con đường giải thoát và chứng ngộ của
Đức Phật mang tính siêu việt vượt thoát qua những giới hạn của luật
nghiệp báo, luân hồi.
Bằng kinh nghiệm tinh thần của nội tâm, Ngài đả phá những hình thức nghi
lễ, tôn thờ, cúng tế và ngay cả sự suy xét vô ích của tư tưởng siêu hình
truyền thống.
Lời tuyên bố cô đọng mang khuynh hướng chống đối siêu hình gắn liền với
bốn sự thật tối thượng của Đức Phật. Sự thật về khổ, về nguyên nhân của
khổ, sự thật về sự chấm dứt khổ và sự thật về con đường dẫn đến sự diệt
tận của khổ. Con đường dẫn đến sự diệt tận của khổ là con đường Thánh
đạo tám nghành hướng đến trạng thái giải thoát Niết-bàn. Những lời dạy
đơn giản này được Đức Phật trình bày trong nhiều dịp trước các thiện
nam, tín nữ và đại chúng Tỳ-kheo nhằm mang lại những lợi ích thiết thực.
Đức Phật từ chối trả lời những câu hỏi siêu hình và những cặp phạm trù
đưa đến sự nhầm lẫn, không nhổ hết gốc rễ khổ đau trong đời sống con
người và tâm linh. Như thế giới thường hằng hay thế giới không thường
hằng, thân thể và linh hồn là một hay thân thể và linh hồn là khác; Như
Lai tồn tại sau khi chết hay Như Lai không tồn tại sau khi chết; Như Lai
tồn tại và không tồn tại sau khi chết hay Như Lai không tồn tại và cũng
không không tồn tại sau khi chết. (Trung Bộ kinh)
Tuy thế, không có nghĩa là trong Phật giáo không có những quan điểm siêu
hình. Hai quan điểm căn bản siêu hình Phật giáo là học thuyết vô ngã (anatt
) và duyên khởi (prat? tya-Samutp da). Quan điểm vô ngã nhấn
mạnh mọi sự vật hiện tượng giới thì không có "ngã" hoặc "linh hồn" mà
mọi sự tồn tại chỉ là sự tạm bợ , có thể bị diệt vong và chứa đựng đầy
đau khổ hoặc sầu muộn. Các hiện tượng giới đều theo quan niệm duyên khởi
được hình thành đều do nhân, do duyên. Sự vận động của nhân duyên này
dẫn đến sự sanh khởi của các nhân duyên khác.
Phật giáo tuyên bố rằng không có những sự vật thật sự. Sự vật mà ta gọi
đơn thuần chỉ là sự kết hợp của các nguyên tử tạm thời. Không có cái
"ngã" vĩnh cữu trong chủ thể "tâm vật lý" được biết như con người. Chủ
thể con người nếu được phân tích sẽ không có gì còn lại trong thân năm
uẩn (skandha). Mọi sự chấp thủ vào năm uẩn này được coi là gốc rễ
của sự luân hồi (saị s ra) mà bản thân chúng xuất phát từ vô
minh (avidya). Đó là đặc điểm triết học Phật giáo của các trường
phái Thượng Toạ Bộ, Nhứt Thiết Hữu Bộ, Phân Tích Bộ.
Các nhà tư tưởng Mah y na cũng nhằm mục đích thanh lọc bản thân
hướng đến sự giải thoát khỏi các lậu hoặc. Đặc biệt hơn, trường phái
Trung Quán (M dhyamika) của Mah y na thiết lập học
thuyết Tánh không (Ư unyat ) mà khái niệm căn bản của nó thì
không chỉ dựa trên chuỗi nguyên nhân mà còn trên tính tương đối. Các sự
vật mà chúng đang hiện hữu có những đặc tính dường như phô bày trong mối
quan hệ với các sự vật khác. Sự vận động bên trong các hiện tượng mang
tính tạm bợ vô thường.
Điều quan trọng hơn hết là Phật giáo đã xây dựng con người nhân bản
xuyên qua giới luật và đức hạnh Phật giáo. Đó cũng là mục đích tối
thượng của đời sống để chứng đạt Niết-bàn. Bên cạnh đó, Đức Phật cũng
quan tâm đến những nguyên tắc, những lời dạy đức hạnh cho hàng cận sự
nam, cận sự nữ. Những nguyên tắc chính được chứa đựng trong sự phác hoạ
của con đường thánh đạo tám nghành (ashỉ n ơ ga-m rga).
Ở đây chúng ta chỉ nêu một vài đặc điểm nổi bật trong lời dạy của Đức
Phật. Đối thoại với vị trưởng làng ở Nalanda, Đức Phật đã hỏi: Ông có
nghĩ một người thích thú trong việc giết những con thú vô tội, trộm cắp,
tà hạnh, nói dối... và nói những lời lỗ mãng gay gắt hoặc những câu
chuyện tầm phào vô bổ, người như thế có thể đến cõi trời qua cầu nguyện
không? Đức Phật kết luận rằng con người đạt đến cõi trời bởi hành động
tạo tác (karma) mà không do sự cầu nguyện. (Kinh Tập)
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy rằng:
"Chỉ tội
lỗi đã tạo
Mới làm nhơ uế người
Thanh tịnh và nhơ uế
Do hành động cá nhân
Chẳng phải ngoài ai khác
Làm thanh
tịnh con người."
Đó
cũng là điều mà tại sao Đức Phật không chấp nhận bốn đẳng cấp xã hội Ấn
Độ đương thời. Ngài thiết lập mối quan hệ con người với con người trong
xã hội xuyên qua sự nhấn mạnh một vài đức hạnh về sự thân thiện, lòng
khoan dung và tình thương.
Kinh điển Phật giáo đề cập đến bốn đức hạnh hay bốn tâm vô lượng con
người sẽ đạt năng lực tinh thần cao nhất khi thực tập những điều này.
Bốn đức hạnh Từ (Maitri), Bi (KaruϠ ), Hỷ (Mudit
), Xả (Upeksh ) có ý nghĩa đặc biệt trong trái tim nhân hậu của
vị Bồ-tát trong Phật giáo Mah y na, những vị thực hành hoàn mỹ sáu đức
hạnh Ba-la-mật (Paramit ): Bố thí (d na), trì giới (S?
la), Nhẫn nhục (ksh nti), tinh tấn (v? rya), thiền
định (dhy na) và trí tuệ (Praj– ).
Đời sống đức hạnh và giới luật hoàn hảo đã làm giảm đi dục tham, sân
hận, cuồng si trong mỗi cá nhân. Điều này dẫn đến việc xây dựng một xã
hội an vui, một quốc gia hoà hợp, một thế giới hoà bình.
Chủ nghĩa nhân bản Phật giáo có phải chăng là hồi chuông thức tỉnh trầm
lắng sâu vào nguồn tâm kêu gọi con người hãy nhận rõ những gì ảo vọng,
tạm bợ, chóng tàn, tự mở ra cánh cửa bất tử vượt thoát khỏi sanh, già,
bệnh, chết, tìm đến con đường an vui hạnh phúc.
Phật giáo đứng ngoài 62 tà kiến với cái nhìn tri kiến siêu thoát về hiện
tượng giới và con người. Phật giáo có thể nói là đạo chân thật, đạo trí
tuệ như nhà bác học Einstein từng tuyên bố: "Nếu trên thế giới này có
một tôn giáo để tin tưởng thì tôn giáo đó chính là Phật giáo."
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|