|
. |
Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần I
Bản chất và con đường Giác Ngộ
--- o0o ---
QUẢ VỊ GIÁC NGỘ: SỰ GIẢI THÍCH
CỦA THƯỢNG TỌA BỘ VÀ ĐẠI THỪA
Thích Hiển Chánh
Đức Phật là vị A-la-hán
đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát
ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại thoát khỏi
khối đau khổ của sanh tử luân hồi. Do đó, các cáo buộc cho rằng A-la-hán
là tiêu cực, là ích kỷ, là tiểu thừa chỉ phản ảnh một sự hiểu biết phiến
diện về lời Phật dạy nói chung, về các bậc A-la-hán nói riêng.
I. GIẢI THÍCH CỦA THƯỢNG TOẠ BỘ
Có hai khuynh hướng giải
thích về vị trí của A-la-hán, Bồ-tát và Phật trong văn học Phật giáo.
Theo văn học P li, cả ba không có sự khác biệt về quả vị nhưng khác
nhau về tình trạng. Khái niệm Bồ-tát là thuật ngữ chỉ cho Gautama Sidd
rtha trong suốt thời gian gá vào thai mẹ cho đến lúc trước khi chứng đạt
quả vị giác ngộ dưới cội bồ-đề.
Đức Phật được biết đến với
mười danh hiệu: "bậc A-la-hán (arahaị , ứng cúng), bậc Giác ngộ
viên mãn (samm sambuddho, chánh biến tri), bậc đầy đủ trí tuệ và
đạo hạnh (vijj -cara?asampanno, minh hạnh túc), bậc đã vượt qua
luân hồi (sugato, thiện thệ), bậc tuệ tri thế giới (loka-vid‰
, thế gian giải), bậc huấn luyện loài người một cách tuyệt vời (Anuttara
purisa damma s rath? , điều ngự trượng phu), bậc thầy của thần linh
và loài người (setth deva-manuss naị , thiên nhân sư), bậc giác
ngộ (buddho, Phật) và bậc tôn quý trên đời (bhagav , thế tôn)."
Trong mô-típ mười danh hiệu tôn xưng Phật này chúng ta thấy khái niệm
"Phật" kéo theo khái niệm "A-la-hán," và trên thực tế đức Phật tự xác
nhận mình một bậc A-la-hán, như danh hiệu thứ nhất của ngài là arahaị
. Các trường phái dịch thuật của Trung Quốc có lẽ do vì ảnh hưởng dòng
văn học Đại thừa nên đã dịch nghĩa từ "arahaị " thành "Ứng Cúng"
một từ dịch nghĩa bóng, để tránh dùng phiên âm A-la-hán, vì theo Đại
thừa, quả A-la-hán chưa phải là quả vị cuối cùng của con đường thực
nghiệm tâm linh trong Phật giáo. Vấn đề đặt ra là quả Phật và quả
A-la-hán là một hay khác nhau? Câu trả lời dựa theo kinh điển P li là
Phật và A-la-hán không khác nhau ở cấp độ chứng đắc tâm linh, nhưng chỉ
khác nhau ở phương diện trước sau.
Khi được hỏi rằng có ai
khác đã chứng được ba thần thông (p ỉ ih riya), đức Phật đã trả
lời rằng "các vị tỳ-kheo chứng được ba thần thông không phải chỉ một mà
còn hơn số 500 vị và thực tế còn hơn số đó nữa." Ba thần thông đó là
thần thông biến hoá (iddhi-p ỉ ih riya, thần túc thông), thần
thông biết tâm người (
desan -p ỉ ih riya, tha tâm thông) và thần thông giáo hoá (anus
san? -p ỉ ih riya). Về cách thức chứng đạt ba loại thần thông này,
đức Phật xác chứng rằng các đệ tử của Như Lai cũng đã hành theo chính
con đường mà Như Lai đã khám phá và chỉ dẫn và đã đạt được cùng một mục
đích "giải thoát" vượt khỏi thế gian (anuttar vimutti). Phương
pháp đó được biết đến là cách ứng dụng tâm một cách thích hợp (yoniso
manasik r , như lý tác ý) và nỗ lực chân chánh toàn diện (yoniso
sammappadh n ). Với cùng một phương pháp và sự chứng đắc như nhau
này mà ranh giới giữa Phật và A-la-hán đã không còn nữa.
Một bằng chứng quan trọng
khác trong kinh điển nguyên thủy là các chứng đắc về các trạng thái
thiền (jh na) và trí tuệ siêu tuyệt (abhi– – ). Đức
Phật xác nhận trong kinh rằng tôn giả Đại Ca-diếp (Mah Kassapa) đã
chứng được cùng một quả vị tâm linh mà ngài đã đạt được. Các chứng đạt
của tôn giả A-la-hán Ca-diếp được ghi nhận trong kinh là trạng thái
thiền thứ nhất (paỉ hama-jh na, sơ thiền), trạng thái thiền thứ
hai (dutiya-jh na, nhị thiền), trạng thái thiền thứ ba (tatiya-jh
na, tam thiền), trạng thái thiền thứ tư (catuttha-jh na, tứ
thiền), không vô biên xứ ( k sana– c yatana), thức vô biên
xứ (vi– – ?a– c yatana), vô sở hữu xứ (aki– ca– – yatana),
phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasa– – n sa– – yatana), định
không còn cảm giác và nhận thức (vedan nirodho), thần thông biến
hoá (iddhi-p ỉ ih riya, thần túc thông), thần thông biết rõ tâm
người khác ( desan -p ỉ ih riya, tha tâm thông), thần thông
nghe hiểu được các loại âm thanh (dibbasota-– ?a, thiên nhĩ thông),
thần thông biết về đời sống quá khứ của chúng sanh (pubbeniv s
nussati-– ?a-vijj , túc mạng thông), trí tuệ biết về sự sống chết
của chúng sanh (cut‰ pap ta-– ?a-vijj , sanh tử trí), trí tuệ
biết sự chấm dứt toàn bộ các lậu hoặc ( savakkhaya-– ? a-vijj ,
lậu tận thông). Ở cuối bài kinh này, đức Phật kết luận như sau:
Này các tỳ-kheo, ta đã
thật sự an trụ và chứng đắc được trí tuệ siêu tuyệt [abhi– – ],
tâm ta đã giải thoát và giải thoát bằng trí tuệ. Này các Tỳ-kheo,
Ca-diếp cũng đã an trụ và chứng đắc trí tuệ siêu việt đó, tâm đã giải
thoát và giải thoát bằng trí tuệ.
Cũng như thuật ngữ
"a-la-hán" (arahant) là một trong mười danh hiệu của Phật, thuật
ngữ "Phật" (Buddha) cũng là một danh hiệu của tất cả các bậc A-la-hán,
những bậc đã giác ngộ đã thấy biết được đời quá khứ, tuệ tri được sự
chấm dứt sanh tử, đạt được trí tuệ tuyệt đối (abhi– – ); và đã
nhận biết tâm mình được thanh tịnh và giải thoát khỏi các dòng chảy của
lậu hoặc và đã vượt qua được sanh và tử.
Trong mười danh hiệu của
đức Phật, thuật ngữ "Chánh biến tri" (sambuddha) thường chỉ được
dùng để mô tả trí tuệ của đức Phật, chứ không dùng chung cho các vị
A-la-hán. Có nghĩa là, như tiến sĩ Katz đã phát biểu rất chính xác
"trong khi bậc A-la-hán có thể là một vị Phật và ngược lại nhưng có thể
rằng danh hiệu "chánh đẳng giác" vốn chỉ áp dụng cho Phật của mỗi kiếp,
có hàm nghĩa khác hơn và rộng hơn thuật ngữ "giác" (phật) đơn thuần."
Về sự khác biệt giữa Phật
và A-la-hán trên phương diện trước và sau, đoạn kinh dưới đây chỉ ra
rằng đức Phật là người đầu tiên phát hiện và chỉ ra con đường mà trước
đây chưa ai đề cập đến (maggakkhayin).
Này brahman, Như Lai là
người đã mở ra con đường mà trước đây chưa ai mở, đã mang lại con đường
mà trước đây chưa ai mang lại, là bậc tuệ tri được con đường, là bậc
thấu hiểu con đường, là bậc thiện xảo về con đường. Những vị thánh đệ tử
là những người đi theo con đường của Như Lai.
Theo nội dung của đoạn
kinh này, đức Phật khác với các vị A-la-hán ở chỗ Phật đã khám phá và
chỉ ra con đường dẫn đến sự chứng ngộ, trong khi các bậc A-la-hán là
những bậc giác ngộ do đi theo con đường đó. Nói khác đi, đức Phật là bậc
đạo sư (satth ) về con đường, là người tuyên bố con đường trong
khi các vị A-la-hán là người đệ tử (s vak ) của ngài, do đi
theo con đường đó nên đã giác ngộ như Phật, mà thuật ngữ P li thường
dùng là "buddh nubuddh " có nghĩa là "người đạt được giác ngộ
sau bậc giác ngộ viên mãn." Một đoạn kinh khác trong kinh Trung Bộ
(Majjhama Nik ya) cũng ghi nhận một cách tương tự: "Niết-bàn
có hiện hữu, con đường dẫn đến niết-bàn cũng có hiện hữu và Như
Lai hiện hữu với tư cách là người chỉ con đường niết-bàn đó. Như
Lai là bậc chỉ đường."
Ở một đoạn kinh khác, đức
Phật cũng tuyên bố rằng ngài là người đầu tiên chứng ngộ trên thế giới
này (loke paỉ hamo), trong khi các bậc Thanh Văn đứng thứ hai (s
vako bh vitatto) và các bậc đang còn huấn luyện tâm linh, bậc hữu
học (sekho) đứng sau cùng.
Như Lai là bậc đại thánh
đầu tiên trên đời như là một bậc đạo sư (satth ); kế ngài là các
bậc Thanh Văn (s vako bh vitatto); và đứng thứ ba là các bậc
hữu học (sekho) những bậc đa văn (bahussuto) phát triển
đạo đức. Ba hạng người này là thầy của loài trời và người, là người cầm
đuốc soi đường (pabhaị kar ), là những bậc tuyên bố chân lý,
những người mở toang cánh cửa bất tử (amata) và giải thoát chúng
sanh khỏi mọi trói buộc. Bất cứ ai đi theo con đường được Như Lai chỉ
dạy nhất định sẽ chấm dứt đau khổ ngay trong đời này.
Câu mở đầu của đoạn kinh
trên cho thấy rằng không chỉ có đức Phật mà các bậc Thanh Văn (s
vaka) và thậm chí các bậc hữu học (sekha) xuất hiện trong đời
này để đem lại hạnh phúc cho số đông do vì lòng thương tưởng thế gian,
vì lợi ích và hạnh phúc loài thần và loài người. Tính cách đầu tiên khám
phá và tuyên bố con đường giác ngộ của đức Phật được mô tả trong kinh
Tương Ưng (đặc biệt ở Nid na Saị yutta). Ở đây đức Phật được
mô tả như một người đi vào trong rừng sâu nhìn thấy con đường xa xưa (pur
?aị a– jasaị ), mà những người đời trước đã đi qua. Đi lần theo con
đường, vị ấy nhìn thấy thành phố cổ mà người xưa đã từng sinh sống, rồi
liền vào đó cư ngụ. Sau khi tự mình cư ngụ và sinh sống, vị ấy liền trở
về nguyên quán, loan báo cho dân chúng biết về sự hiện hữu của thành phố
cổ trong rừng sâu đó và khuyên mọi người nên tự mình đi theo con đường
có làm dấu mà mình đã đi qua, để tự họ tận mắt nhìn thấy. Kinh cũng giải
thích rõ thêm rằng con đường xa xưa ấy chính là con đường thánh gồm tám
yếu tố; thành phố cổ ấy ám chỉ cho niết-bàn;
người xưa chỉ cho các đức Phật quá khứ, và người đi vào rừng sâu và
phát hiện ra con đường đó là đức Phật Thích-ca, bậc đạo sư sau khi tự
mình phát hiện ra con đường thánh đã không dấu diếm mà còn công bố rộng
rãi cho quần chúng để giúp họ cùng chứng đạt niết-bàn. Như vậy,
đức Phật được biết đến như người chỉ đường (maggassa akkh t ),
bậc đạo sư (satth ) người đã vì tình thương chỉ dẫn lại cho hàng
đệ tử (s vak ) mình để cùng đạt được những gì mình được. Nói
đơn giản hơn, đức Phật trong kinh điển nguyên thủy là vị A-la-hán đầu
tiên và năm anh em Kiều-trần-như (pa– ca vaggiya) là năm vị
A-la-hán sau ngài. Có lẽ vì lý do này mà kinh mô tả không hề có trong hệ
thống thế giới trong một kiếp có hai đức Phật cùng ra đời, dù khác thời
có vị trước và vị sau. Nhận xét về lý do tại sao chỉ có một đức Phật ra
đời trong một kiếp trong cùng một hệ thống thế giới, tiến sĩ Katz đã
viết rằng:
"Một lý do đơn giản là nếu
một vị Phật được đặc cách là người khám phá ra con đường mà trước đây
chưa được khám phá thì thật là đơn giản không thể có hai người "đầu
tiên" trong cùng một hệ thống thế giới."
Trong Phật Nói Như Vậy
(Itivuttaka), các khái niệm A-la-hán, Như Lai và Phật được sử
dụng đồng nghĩa với nhau nhằm chỉ cho bậc giác ngộ nói chung. Nguyên văn
của đoạn đó là: "Người đã nhổ lên tham, sân và si được gọi là người với
tâm đã được thăng hóa, hay người đã trở thành Phạm Thiên, là Như Lai, là
Phật, là người đã không còn sợ hãi và sầu ưu, và là người đã diệt sạch
các bất thiện."
Cần lưu ý rằng từ "Phật"
được sử dụng đồng nghĩa với từ "A-la-hán" trong ý nghĩa rằng cả hai đều
là bậc đã giác ngộ. Nhưng ngược lại, từ "A-la-hán" lại không được dùng
để chỉ cho "Phật" bởi lý do "Phật" là người tìm ra và chỉ con đường giác
ngộ, trong khi "A-la-hán" là người đi theo và đạt được con đường giác
ngộ đó. Đây có thể là lý do các nhà Đại thừa đã tận dụng để tách biệt
hai khác niệm vốn khác nhau về tình trạng chứ không ở quả vị tu chứng,
trở thành hai khái niệm chỉ cho hai cấp độ tiến hóa và giác ngộ tâm linh
hoàn toàn khác nhau.
II. GIẢI THÍCH CỦA ĐẠI THỪA
Sau khi đức Phật diệt độ,
khi Phật giáo Đại thừa (Mah y na) càng phát triển, từ
"A-la-hán" đã được thay thế bằng hai từ "Thanh Văn" (Ư ravaka) hay
"Duyên Giác" (Prayekabuddha) tùy thuộc theo ngữ cảnh. Theo Đại thừa, có
ba loại giác ngộ (bodhi), đó là giác ngộ của hàng Thanh Văn
(Ư r vaka-bodhi), giác ngộ của hàng Độc Giác (Prayekabuddha-bodhi)
và giác ngộ tối thượng của Phật (anuttara-samyak-sambodhi / mah
-bodhi). Hai loại giác ngộ đầu được xem là thấp hơn loại giác ngộ
thứ ba, cấp bậc tiến hóa tâm linh cao nhất mà chỉ có đức Phật chứng
được. Sự giác ngộ tuyệt đối (samyak-sambodhi), còn được gọi là
tuệ giác của Phật (buddha-j– na), là mục tiêu tu tập duy nhất
của các hàng Bồ-tát (Bodhisattva). Tương ứng với ba loại giác ngộ
này là hệ thống ba thừa (y na) dẫn đến mục tiêu giải thoát trong
Phật giáo Đại thừa. Ba thừa là thừa Thanh Văn (Ư r vaka-y na),
thừa Độc Giác (Prayekabuddha-y na) và thừa Bồ-tát (Bodhisattva-y
na).
Trong văn học Đại thừa, sự
chứng đắc tâm linh của hàng Thanh Văn và Duyên Giác được mô tả chỉ là
nửa chặng đường đến Phật quả. Nói khác đi, quả vị A-la-hán chỉ là bước
đường ban đầu hướng đến đích chứng đắc gồm ba thềm bậc. Sự chứng đắc gồm
ba thềm bậc được mô tả trong kinh điển Đại thừa là chứng đắc của Thanh
Văn, chứng đắc của Duyên Giác và chứng đắc của Phật. Sự chứng đắc của
Phật còn gọi là Phật thừa là tiêu chí phấn đấu và tu tập của các hàng
Bồ-tát. Sự giác ngộ hay niết-bàn của Thanh Văn không được xem là
giải thoát cuối cùng mà người tu tập chân lý mong mỏi. Sự khác nhau đã
hình thành nên lý tưởng Bồ-tát và lý tưởng A-la-hán. Theo các nhà Đại
thừa, lý tưởng Đại thừa là nhắm hướng đến sự giác ngộ viên mãn (anuttara-samyak-sambodhi).
Kinh Đại thừa tiêu biểu cho học thuyết này là kinh Hoa Sen Chánh Pháp
(Saddharmapu?? ar? ka S‰ tra). Theo kinh này, đức Phật vì
phương tiện nên đã tuyên thuyết có ba thừa đó là Thanh Văn thừa, Duyên
Giác thừa và Phật thừa, nhưng mục đích chính là nhằm dẫn dụ để xiển
dương một Phật thừa mà thôi. Nghĩa là khi trình bày Thanh Văn thừa và
Duyên Giác thừa không có nghĩa cho rằng đây là giác ngộ hay giải thoát
tối hậu, mà chỉ nhằm dùng nó như một phương tiện hướng dẫn chúng sanh
nhận ra Phật thừa cao siêu một cách tiệm tiến có hiệu quả.
Trong kinh Hoa Sen
Chánh Pháp, tất cả các vị đệ tử quan trọng của đức Phật như
Xá-lợi-phất (Sarip‰ tra), Ca-diếp (K ? yapa), Ca-chiên-diên (Mah k
ty yana), Mục-kiền-liên (Maudgaly yana), A-nan-đa (€ nanda) v.v. . .
đều tiếp tục trau dồi tâm linh cho đến lúc chứng đạt quả Phật. Một đoạn
kinh trong phẩm thứ VII, phẩm Hóa Thành Dụ ghi như sau:
Này các tỳ-kheo, đức Như
Lai như người chỉ huy biết được tình trạng của con đường xấu, dài xa
chứa đầy các nguy hiểm của sanh, già, bệnh, chết và vô minh, mà tất cả
chúng sanh phải một lần vượt qua. Nếu Như Lai chỉ nói có một thừa thì
các vị đã không có lòng mong mỏi để tiếp nhận mà đi trọn con đường đó.
Các vị đã có thể suy nghĩ rằng con đường đến quả Phật thật là dài, lâu
và khó đạt đến được đối với phàm phu chúng ta.
Như Lai biết rằng các vị
mau mỏi mệt và dễ chán nản. Để cho các vị được nghỉ mệt nửa đường, Như
Lai đã phương tiện trình bày niết-bàn bằng hai thừa. Khi ai đã
chứng được hai thừa này rồi thì Như Lai sẽ bảo rằng các vị vẫn chưa làm
xong những gì cần làm. Các vị chỉ mới gần đến quả Phật mà thôi.
Niết-bàn mà các vị đạt được chưa phải là cứu cánh. Từ một thừa Như
Lai đã vì phương tiện nói thành ra ba thừa.
Khái niệm một thừa mà kinh
này nói là Phật thừa. Khi đề cập đến Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa,
đức Phật chỉ vì phương tiện giúp cho hành giả ngơi nghỉ trên đoạn đường
tâm linh quá dài và đầy mệt mỏi. Cũng như một vị lãnh đạo linh động để
giúp cho các bạn đồng hành được nghỉ ngơi trên một hành trình dài đã tạo
ra một thành phố giả. Sau khi những người đồng hành đã khỏe, người lãnh
đạo liền nói với họ rằng đó chỉ là một thành phố giả. Cũng vậy, hai thừa
Thanh Văn và Duyên Giác lập lên như những thành phố giả giữa đường, để
giúp sức lực cho hành giả đi trọn con đường phát triển tâm linh và giác
ngộ, đạt được Phật quả. Điều mà các nhà Đại thừa muốn nhắn nhủ là hành
giả Phật giáo không nên dừng chân lại ở giai đoạn của hai thừa vốn chỉ
là nửa đường của quả Phật.
Trong chương 8 của kinh
Hoa Sen Chánh Pháp, phẩm thọ ký quả Phật cho 500 đệ tử A-la-hán,
có đoạn xác quyết rằng niết-bàn mà các vị A-la-hán đạt được không
phải là sự giác ngộ cuối cùng. Nó chỉ là nửa giai đoạn của Phật quả. 500
vị A-la-hán đã thừa nhận rằng từ lâu nay họ đã lầm nhận niết-bàn
của Thanh Văn thành niết-bàn của Phật, đều đồng thanh bạch Phật
rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Chúng
con đã nghĩ rằng chúng con đã chứng được niết-bàn tối hậu. Nay
chúng con mới biết rằng mình chẳng khác nào người không có trí tuệ, bởi
vì chỉ thoả mãn với trí tuệ của tiểu thừa mặc dù chúng con có thể chứng
đắc trí tuệ của Phật.
Đức Phật đã dạy rằng:
Này các tỳ-kheo, những gì
các vị đạt được chưa phải là niết-bàn tối hậu. Như Lai đã giúp
các vị gieo trồng hạt giống Phật từ lâu. [Các vị đã quên đi]. Nên nay
Như Lai tuyên bố giáo pháp niết-bàn như là một phương tiện. Các
vị nghĩ rằng các vị đã chứng đạt quả niết-bàn thật trong khi các
vị chỉ chứng đạt được niết-bàn phương tiện mà thôi.
Theo kinh Hoa Sen Chánh
Pháp, sau khi nhổ tận gốc rễ của các lậu hoặc ( ? rava), bậc
A-la-hán phải thực hành các cấp độ tâm linh (bhum? ) cao hơn của
hàng Bồ-tát, để có thể chứng đạt sự giác ngộ tối thượng (anuttara-samyak-sambodhi)
của Phật.
Trong quá trình phát triển
học thuyết Bồ-tát, nhiều kinh điển Đại thừa đã đặc cách hóa rằng những
ai chỉ nhắm tới sự chứng đạt niết-bàn của hành Thanh Văn và Duyên
Giác là những người ích kỷ, những người bị dán nhãn hiệu tiểu thừa. Lời
cáo buộc đó gồm hai dụng ý: phủ nhận quả A-la-hán như quả vị cuối cùng
và các vị Thượng toạ là những người của chủ nghĩa vị kỷ, chỉ giải thoát
luân hồi cho chính mình, mà không màng đến đau khổ của chúng sanh trong
sanh tử luân hồi. Lời cáo buộc này cần xét lại.
Nếu lời cáo buộc đó nhắm
đến các vị A-la-hán như là những người ích kỷ, đối lập với tính vị tha
của các vị Bồ-tát trong việc phục vụ nhân sanh thì đó hoàn toàn là một
sự hiểu sai, giải thích sai và ít nhất là không phản ánh trung thực với
sự kiện. Chúng ta biết rằng trong văn học P li, từ "Bồ-tát" được sử
dụng không quan trọng bằng từ "A-la-hán" vì từ Bồ-tát chỉ dùng để chỉ
cho tình trạng và điều kiện của Cồ-đàm Tất-đạt-đa (Gautama Sidd rtha)
trước khi giác ngộ thành Phật hay là một vị A-la-hán đầu tiên trên thế
giới này dưới cội Bồ-đề. Trong khi đó, từ "A-la-hán" là một trong mười
danh hiệu của Phật. Trong ngữ cảnh này, từ A-la-hán được dùng đồng nghĩa
với Phật, trong khi từ Bồ-tát không thể dùng đồng nghĩa được. Nói cách
khác, theo các nhà Thượng toạ, để trở thành một vị A-la-hán trước tiên
hành giả phải là một vị Bồ-tát. Kế đến, sẽ là một điều sai lầm khi cho
rằng các vị A-la-hán không thể chăm lo đến sự giải thoát của chúng sanh
trong ba cõi, như các vị Bồ-tát đã làm. Kế đến, về mặt từ nguyên, từ
A-la-hán có nghĩa là "bậc có giá trị về đạo đức và trí tuệ" (the
intellectually-cum-ethically worthy)." Giá trị đạo đức và trí tuệ
của các A-la-hán là những giá trị cao thượng vượt khỏi tính bản ngã, vị
kỷ, chủ nghĩa tự ngã trung tâm, dưới bất kỳ hình thức nào. Không có
người ích kỷ nào trong lịch sử Phật giáo là một vị A-la-hán. Nói cách
khác, không thể có một vị A-la-hán ích kỷ, từ lịch sử cũng như trong ý
nghĩa thực tiễn. A-la-hán được định nghĩa là người đã vượt qua khỏi thác
lũ và qua đến bờ bên kia (p ragata), nhổ lên tận gốc của tham
ái, diệt trừ toàn bộ các lậu hoặc ( sava), thành tựu trọn vẹn ba
mươi bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ và chứng đạt niết-bàn. Quả
A-la-hán luôn kéo theo sự diệt trừ toàn bộ các dòng chảy bất thiện và
bất tịnh của tâm, trong đó có tính ích kỷ hay vị kỷ. Các ngài luôn dấn
thân phục vụ chúng sanh một cách vô điều kiện. Do đó không thể cáo buộc
các ngài là vị kỷ hay tiểu thừa.
Như vậy, sự cáo buộc còn
lại có thể nhắm đến các tỳ-kheo theo truyền thống Thượng Toạ bộ, những
người đã có thể đã phát hoạ ra những quả A-la-hán với một lý tưởng ích
kỷ. Lời cáo buộc nhắm tới các vị ích kỷ trong truyền thống Thượng Toạ bộ
chứ không phải bản thân của các vị A-la-hán. Bằng giảng dạy và hành trì,
các vị A-la-hán trong lịch sử nhân loại đã trở thành những nhân vật đạo
đức mẫu mực cho đời về tinh thần phục vụ nhân sinh, vì lợi ích của số
đông, vị lợi ích cho loài trời và loài người. Phái đoàn hoằng pháp đầu
tiên được đức Phật phái đi bao gồm 60 vị A-la-hán, đã tình nguyện ra đi
nhiều phương hướng khác nhau để tuyên bố con đường giác ngộ đó cho tha
nhân, để chánh pháp mới để làm lợi lạc cho số đông. Điều các vị A-la-hán
làm là trước tiên giác ngộ bản thân, sau đó truyền bá giúp chúng sanh
cùng thoát khỏi vòng sanh tử. Các bậc A-la-hán như Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên, A-nan, Ca-diếp và Ca-chiên-diên và nhiều vị A-la-hán khác
nữa đã noi gương theo đức Phật, dấn thân vào con đường phát triển đạo
đức, trí tuệ và vun bồi đời sống tâm linh cho quần chúng. Các vị
A-la-hán đó không khác gì các vị Bồ-tát trong kinh Đại thừa. Đức Phật là
vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và
các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân
loại thoát khỏi khối đau khổ của sanh tử luân hồi. Do đó, các cáo buộc
cho rằng A-la-hán là tiêu cực, là ích kỷ, là tiểu thừa chỉ phản ảnh một
sự hiểu biết phiến diện về lời Phật dạy nói chung về các bậc A-la-hán
nói riêng.
Chú thích:
D. I. 49; S. I. 219.
S.
II. 210-14; S. IV. 105; A. I. 172; A. III. 61.
A.
I. 172.
S.
IV. 105.
Nathan
Katz, Buddhist Images of Human Perfection. (Delhi: Motilal
Banarsidass Publications, 1989; 1st
Ed. 1982), p. 124.
S.
II. 210-14.
S.
II. 214: Aha– ca bhikkhave sav naị khay an savanaị cetovimuttiị
pa– – vimuttiị diỉ ỉ heva dhamme sayam abhi– – sacchikatv
upasampajja vihar mi. Kassapo pi bhikkhave sav naị khay an savanaị
cetovimuttiị pa– – vimuttiị diỉ ỉ heva dhamme sayam abhi– –
sacchikatv viharat? ti.
M.
II. 144: pubbeniv saị yo vedi / sagg p ya– ca passati / atho j
tikkhaya– patto / abhi– – vosito muni / cittaị visuddhaị j n ti /
muttaị r gehi sabbaso / pah? naj timara?o / brahmacariyassa keval? /
p rag‰ sabbadhamm naị / Buddho t di pavuccat? ti //.
M.
III. 8; MLS. III. 58-9. Xem thêm M. II. 8; S. III.
65-66.
Thag. v. 1246: buddh nubuddho yo thero ko?? a– – o
tibbanikkhamo, l bhi sukhavih r naị vivek naị abhinhaso, vị tôn
giả được giải thoát kế theo sau đức Phật là Kiều-trần-như, là một vị có
năng lực khoẻ mạnh đã đạt được sự an trú trong hạnh phúc và xả ly.
M.
III. 6; MLS. III. 56.
It.
79-80.
It.
78. Nên lưu ý rằng ở A. I. 22 and M. I. 110, lời tuyên bố
chỉ ám chỉ cho đức Phật chứ không cho hai hạng còn lại. Điểm này đã làm
bối rối các học giả.
S.
II. 105-6.
S.
III. 66.
D.
xix. 14: aỉ ỉ h naị kho etaị m ris anavak so yaị ekiss lokadh
tuy dve arahanto samm -sambuddh apubbaị acarimaị upajjeyyuị . Netaị ỉ
h naị vijjati. So sánh. D. xxviii. 19; M. III. 65.
N.
Katz, Sách đã dẫn (1989): 130: One very simple reason for this
is that if a Buddha is characterized as one who discovers a way which
had not been discovered before, then there simply cannot be two ‘firsts’
in the same world-system.
It.
57: Yassa r go ca doso ca avijj ca vir jit / taị bh vitatta– –
ataraị brahmabh‰ taị tath gataị / buddhaị verabhay t? taị hu
sabbapah yinan ti//
H. Dayal.
The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature. (Delhi:
Motilal Banarsidass, 1931), p. 10.
The
Lotus S‰ tra, tr. from the Chinese by Senchu Murano. (Kyoto:
Nichiren Shu Headquaters, 1974), p. 132.
Sách đã dẫn, p. 147-8.
S.
I. 33; A. II. 39.
Encyclopedia of Buddhism.
III. 230b. So sánh Sn. pp. 6-12.
Vin. I. 19-21.
Chẳng
hạn như trong phẩm C p la Vagga thuộc kinh Tương Ưng (S.
V. 257) đức Phật nói rằng Như Lai được gọi là bậc A-la-hán, bậc Giác ngộ
viên mãn. Trong Vin. I. 14, sau khi nhóm năm anh em Kiều-trần-như
(pa– cavaggiya) thành A-la-hán, đức Phật tuyên bố rằng lúc đó chỉ
có 6 vị A-la-hán trên đời, trong đó đức Phật là một, nhưng là người đầu
tiên. Cũng xin nói thêm trong kinh điển nguyên thủy tất cả các bậc
A-la-hán đều được mô tả là các bậc giác ngộ sau sự giác ngộ của đức Phật
(buddh nubuddh ). Thag. p. 111.
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|
|