|
. |
Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần I
Bản chất và con đường Giác Ngộ
--- o0o ---
THÁNH NHÂN TRONG KINH ĐIỂN PALI
Thích Nhật Từ
Con đường giác
ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư
sĩ. Bất kỳ ai sống đời đạo đức và trí tuệ theo tinh thần Phật dạy, giải
thoát tâm mình khỏi các thác lũ lậu hoặc, chuyển hóa đời sống trở nên
toàn diện sẽ có thể chứng đạt giác ngộ ngay đời này và tại thế gian này.
I. DẪN NHẬP
Lội ngược dòng với cuộc
đời hay tình trạng của thế giới được gọi là "thánh" (ariy ),
trạng thái sống siêu vượt hơn các điều kiện của người phàm phu (assutavant
puthujjana). Dòng họ thánh nhân trong Phật giáo nguyên thủy bao gồm
những ai đã gia nhập vào gia đình của bậc giác ngộ (gotrabh‰
). Tất cả những gì được đức Phật giảng dạy chỉ hướng đến sự chấm dứt
của thế giới (ti??loke visattikan ti), sự chứng ngộ và giải
thoát.
II. PHÂN LOẠI CÁC
LOẠI THÁNH NHÂN
Thánh nhân (ariyapuggala
/ ariyas vaka) được định nghĩa là người đã chuyển hóa hoàn toàn
trạng thái của người phàm (puthujjana / anariyapuggala), đã chứng
đắc được bốn con đường siêu thế (lokuttaramagga) và bốn quả siêu
việt (lokuttaraphala).
Trong một phân loại phổ
biến nhất của kinh điển P li, có bốn loại thánh nhân, đó là, bậc vào
dòng (Sot panna, dự lưu), bậc trở lại thế gian một lần (Sakad
g m? , nhất lai), bậc không còn trở lại (An g m? , bất lai)
và bậc A-la-hán (Arahanta). Nếu phân loại chi tiết hơn, số lượng
thánh nhân lên đến bảy, tám và chín tùy theo các bản văn khác nhau.
Gia phả bảy thánh nhân bao
gồm (1) bậc giải thoát bằng hai cách (ubhatobh gavimutta), (2)
bậc giải thoát nhờ trí tuệ (pa– – vimutto), (3) bậc thân chứng
(k yasakkh? ), (4) bậc chứng đạt chánh kiến (diỉ ỉ hippatta),
(5) bậc giải thoát nhờ chánh tín (saddh nus r? ), (6) bậc theo
đuổi chân lý (dhamm nus r? ) và (7) bậc thành tín (saddh
nus r? ).
Gia phả tám thánh nhân
thường được gọi là bốn đôi, tám chúng bao gồm: (1) bậc tuệ tri con đường
ngược dòng (sot patti-magga), (2) bậc chứng đắc quả ngược dòng (sot
patti-phala) hay bậc dự vào dòng thánh (sot panna), (3) bậc
tuệ tri được con đường trở lại một lần (sakad g mi-magga), (4)
bậc chứng được quả trở lại một lần (sakad g mi-phala) cũng còn
gọi là bậc trở lại một lần (sakad g min), (5) bậc tuệ tri con
đường không trở lại (an g mi-magga), (6) bậc chứng được quả
không trở lại (an g mi-phala) cũng còn gọi là bậc không trở lại
(an g min), (7) bậc tuệ tri con đường A-la-hán (arahatta-magga),
và (8) bậc chứng được quả A-la-hán (arahatta-phala) hoặc còn gọi
là quả thánh nhân.
Gia phả chín thánh nhân
bao gồm tám bậc giác ngộ vừa nêu cộng với bậc đã gia nhập vào gia phả
thánh (gotrabh‰ ).
Mức độ diệt trừ các trói
buộc của tâm (saị yojana) được xem là tiêu chí xác định sự chứng
đắc hay gia nhập vào gia phả của các bậc thánh trong Phật giáo. Có mười
loại trói buộc (saị yojan ni, kiết sử), đó là, j quan niệm sai
lầm về nhân tính (sakk ya-diỉ ỉ hi, thân kiến), k nghi hoặc (vicikicch
), l chấp các giáo điều và nghi thức như là phương tiện giải thoát (s?
labbata-par m sa, giới cấm thủ), m khao khát khoái lạc giác quan (k
ma-r ga, tham dục), hiềm hận (vy p da), o tham ái cảnh
hiện hữu vật chất (r‰ pa-r ga, sắc ái), p tham ái cảnh hiện hữu
phi vật chất (ar‰ pa-r ga, vô sắc ái), q cống cao, tự phụ (m
na, mạn), r không an định (uddhacca) và s vô minh (avijj
). Năm trói buộc đầu được gọi là "các trói buộc thấp" (hạ phần kiết sử,
pancam ni orambh giy ni saị yojan ni), trong khi năm cái sau
được gọi là "các trói buộc cao" (thượng phần kiết sử, pancam ni
uddhambh giy ni saị yojan ni). Gọi là các trói buộc thấp là vì
năm cái đầu trói buộc chúng sanh vào các thế giới thấp kém, như thế giới
của khoái lạc giác quan (k ma-loka). Tương tự, gọi là các trói
buộc cao là vì năm cái sau trói buộc chúng sanh vào thế giới cao hơn đó
là thế giới sắc thể (r‰ pa-loka) và thế giới vô sắc thể (ar‰
pa-loka). Trong các trói buộc này, khoái lạc giác quan (k
macchanda), hiềm hận (vy p da), không an định và mê muội (uddhacca-kukkucca),
nghi hoặc (vicikicch ), cộng với hôn trầm và thuỳ miên (th?
na-middha) tạo thành năm phiền não (n? vara?a).
Tuỳ theo mức độ toàn thiện
đạo đức, có hai loại thánh nhân chính (ariyapuggala / ariyas vaka),
đó là, bậc còn phải huấn luyện tâm linh (sekha, hữu học) và bậc
đã hoàn tất huấn luyện tâm linh (asekha, vô học). Bậc còn huấn
luyện tâm linh (sekha) là những hành giả còn phải trau gồi đạo
đức, thiền định và trí tuệ, để đạt được quả A-la-hán, trong khi bậc đã
hoàn tất sự huấn luyện (asekha) đã đạt được mức độ toàn thiện về
ba huấn luyện này (t? su sikkh su sikkhit ). Phối hợp với gia
phả bốn thánh nhân, bậc còn phải huấn luyện tâm linh (sekha) bao
gồm ba hạng đầu, trong khi trong gia phả tám thánh nhân, bậc còn phải
huấn luyện tâm linh bao gồm bảy hạng đầu. Tương tự, bậc đã hoàn tất huấn
luyện tâm (asekha) là bậc A-la-hán, bậc thánh theo đúng nghĩa, cả
trong gia phả bốn thánh nhân và tám thánh nhân. Đối với bậc A-la-hán,
"sanh đã bị phá vỡ, đời sống thánh đã hoàn thành, những gì cần làm đã
làm xong và không còn tái sanh nữa."
Do diệt trừ ba trói buộc
đầu thông qua con đường của bậc dự vào dòng thánh (Sot patti magga),
vị hành giả được gọi là bậc vào dòng thánh nhân (Sot panna), và
sự chứng đắc của vị ấy được gọi là quả vào dòng thánh (Sot
patti-phala). Tương tự, do diệt trừ ba trói buộc đầu và một vài mức
độ của hai trói buộc kế, đó là, khoái lạc giác quan và hiềm hận, thông
qua con đường của bậc chỉ trở lại một lần (Sakad g m? magga),
vị hành giả trở thành bậc trở lại một lần (Sakad g m? ), và sự
chứng đắc của vị ấy được gọi là quả trở lại một lần (sakad g
mi-phala). Nhờ diệt trừ toàn bộ năm trói buộc thấp (pancam ni
orambh giy ni saị yojan ni), thông qua con đường của bậc không
còn trở lại (An g m? magga), vị hành giả trở thành bậc không
còn trở lại (An g m? ), và sự chứng đắc của vị ấy được gọi là
quả không còn trở lại (An g mi-phala). Nhờ diệt trừ năm trói
buộc cao (pancam ni uddhambh giy ni saị yojan ni), tức năm
trói buộc cuối cùng, thông qua con đường của bậc A-la-hán (Arahantta
magga), vị hành giả trở thành bậc giác ngộ hay bậc A-la-hán (Arahant),
và quả chứng đắc của vị ấy được gọi là quả giác ngộ hay quả A-la-hán
(Arahatta-phala). Như vậy gia phả của tám thánh nhân được phân
thành bốn cặp: đó là bốn quả và bốn hướng. Trong một ẩn dụ đặc biệt, đức
Phật đã so sánh bốn bậc thánh với hình ảnh của hoa sen và hành giả. Bậc
dự vào dòng thánh được ví với vị hành giả bất động, bậc trở lại một lần
với hành giả hoa sen xanh, bậc không trở lại với hoa sen trắng và bậc
A-la-hán là bậc thánh cao nhất.
III. BẬC DỰ VÀO DÒNG
THÁNH (SOT€ PANNA)
Tình trạng của bậc dự vào
dòng thánh
Trong ý nghĩa giải thoát,
có hai loại dòng (sota): đó là dòng luân hồi (saị s ra)
và dòng niết-bàn
(nibb na). Dòng luân hồi còn được gọi trong kinh điển Phật
giáo là thác lũ (ogha) của khoái lạc giác quan (k mogha, dục
lậu), của tái hiện hữu (bhavogha, hữu lậu), của quan điểm sai
lạc (diỉ ỉ hogha, kiến lậu) và thác lũ vô minh (avijjogha, vô
minh lậu). Dòng luân hồi sẽ chảy vào các cảnh giới ma quỷ, thú vật
và đọa xứ, trong khi dòng pháp (dhammasota) sẽ đưa hành
giả thực nghiệm tâm linh đến bờ bên kia (p raị / p raơ gata),
hay chảy vào niết-bàn, cũng như nước của trăm sông tuôn về biển
cả. Bậc dự vào dòng thánh (Sot panna) là bậc bắt đầu lội vào
dòng niết-bàn, lội ngược dòng luân hồi, và được định nghĩa như là
bậc đã diệt trừ ba trói buộc đầu, đó là, quan niệm sai lầm về nhân tính
(sakk ya-diỉ ỉ hi, thân kiến), nghi hoặc (vicikicch ),
và chấp vào giáo điều và nghi thức như là phương tiện giải thoát (s?
labbata-par m sa, giới cấm thủ). Nhờ nhổ sạch gốc rễ của ba trói
buộc này, vị ấy đã đứng vững trên con đường của bậc thánh, không bao giờ
bị thối chuyển, và đã đóng bít các cánh cửa tái sanh vào ngạ quỷ, thú
vật, đoạ xứ hay những cảnh giới hiện hữu thấp kém, và chắc chắn sẽ chứng
đắc giải thoát.
Quan điểm sai lầm về nhân
tính (sakk ya-diỉ ỉ hi) là những chủ trương cho rằng năm nhóm
nhân tính tâm vật lý (pa– cakkhandh ), như thân thể (r‰ pa),
cảm giác (vedan ), ý niệm hóa (sa– – ), hoạt động tâm (saơ
kh r ) và thức phân biệt (vi– – ?a), là đồng nhất với một
thực tại bản ngã thường hằng, hay cho rằng chúng chứa đựng, hoặc được
chứa đựng trong thực tại bản ngã đó. Quan điểm sai lầm này dẫn đến ba
hình thái lầm nhận bản ngã khác, đó là, "cái này là của tôi" (etaị
mama), "cái này là tôi" (eso’ ham asmi) và "cái này là bản
ngã của tôi" (eso me att ). Quan niệm nhân tính sai lầm này bám
rễ ở nhận thức đi ngược lại các chân lý "tất cả những gì duyên khởi
tương thuộc là không thường còn" (sabbe saơ kh r anicc , chư hành
vô thường), "tất cả những gì duyên khởi tương thuộc dẫn đến không
thỏa mãn hay đau khổ" (sabbe saơ kh r dukkh , chư hành thị
khổ) và "tất cả mọi sự vật hiện tượng là không thực thể, vô ngã" (sabbe
dhamm anatt , chư pháp vô ngã).
Nghi hoặc (vicikicch
) bao gồm năm thái độ hoài nghi về đức Phật, giáo pháp giải thoát của
Phật, đoàn thể tu sĩ Phật giáo, đời sống đạo đức và sự độ lượng. Chúng
được gọi là năm trói buộc hay chướng vật của tâm. Nghi hoặc về đức Phật
là thái độ hoài nghi về sự toàn thiện của đức Phật về đạo đức và trí
tuệ. Người sống với nghi hoặc này sẽ không tin rằng đức Phật không còn
các khổ đau nội tại, đã diệt trừ sạch các dòng chảy bất thiện và bất
tịnh của tâm, luôn phát triển tối đa các hành vi thiện ích cho đời, sống
với trí tuệ không chấp trước. Hoài nghi về con đường giải thoát của Phật
là một thái độ không nhìn thấy được bản chất giải thoát, thiết thực hiện
tại, sâu kín thâm diệu của những lời Phật dạy. Hoài nghi về đoàn thể tu
sĩ Phật giáo là thái độ không tin vào sự chuyển hóa về đời sống đạo đức
và trí tuệ của các hành giả tu sĩ Phật giáo. Hoài nghi về đời sống đạo
đức là thái độ cho rằng luân lý và đạo đức không thể hướng đến đời sống
thánh thiện hay ý nghĩa. Và hoài nghi về sự độ lượng là thái độ không
thừa nhận giá trị đạo đức và xã hội của các hành vi bố thí, cúng dường,
giúp đỡ hay ban tặng, nói chung giá trị của các hành vi công đức hay từ
thiện xã hội. Nhìn chung các nghi hoặc này không có lợi cho đời sống đạo
đức, và ngăn bít con đường phát triển tâm linh và chứng đắc giải thoát.
Phân loại bậc dự vào
dòng thánh
Có ba bậc dự vào dòng
thánh, đó là, bậc phải trải qua tối đa là bảy lần tái sanh (sattakkhattuị
parama), bậc chỉ tái sanh hai ba lần (kolaị kola) và bậc chỉ
trở lại một lần rồi chứng thánh quả (ekab? j? ). Có nghĩa
là mức độ và cấp bậc phát triển đạo đức, thiền định và trí tuệ trong
tỉnh thức và diệt trừ các trói buộc (saị yojaya) sẽ làm cho giai
đoạn tu tập trở nên ngắn hay dài. Kinh điển nguyên thủy ghi chép rằng
thời gian bảy lần tái sanh không phải là thời gian cố định cần thiết.
Tuỳ thuộc vào mức độ nỗ lực và hành trì của hành giả mà thời gian tu tập
có thể rút ngắn lại ngay trong đời sống hiện tại này, để chứng được quả
A-la-hán. Đó là lý do mà kinh điển ghi bằng cách diệt trừ ba trói buộc,
bậc dự vào dòng thánh chỉ phải tái sanh "tối đa" bảy lần trong thế giới
chư thiên và loài người để chận đứng hoàn toàn dòng luân hồi. Trong phần
lớn các trường hợp, nhờ diệt trừ ba trói buộc, bậc dự vào dòng thánh sẽ
tái sanh trong gia đình thiện (kolaị kolo) và chỉ tái sanh một
hai lần là có thể chấm dứt toàn bộ đau khổ. Trong các trường hợp khác,
bậc dự vào dòng thánh chỉ tái sanh làm người một lần thôi là có thể
chứng quả A-la-hán, từ giả vĩnh viễn mọi khổ đau. Nói cách khác, thời
gian không phải là yếu tố quyết định sự chứng ngộ. Thay vào đó, nỗ lực
thực nghiệm tâm linh qua thiền định là yếu tố chủ não của con đường giải
thoát và giác ngộ.
Vị trí đạo đức và trí
tuệ của bậc dự vào dòng thánh
Bậc dự vào dòng thánh đã
hoàn toàn dứt được năm sợ hãi và sầu bi phát sanh từ các hành vi bất
thiện như giết hại mạng sống, trộm cướp, đời sống tình dục, lời nói sai
sự thật và rượu cũng như các kích thích tố có hại cho tâm trí và thể
chất. Bậc dự vào dòng thánh là người tuệ tri được nguồn gốc duyên khởi
và tương thuộc (paỉ iccasamupp da) của thế giới (loka).
Có bốn niềm tin bất động
của bậc dự vào dòng thánh (catt ri sot pattiyaơ g ni). Đó là j
niềm tin bất động vào đức Phật, k niềm tin bất động vào con đường giải
thoát của Phật, l niềm tin bất động vào thánh tăng m niềm tin bất động
vào đời sống đạo đức sẽ dẫn đến thiền định (sam dhi). Bốn niềm
tin chân chánh này còn được gọi là tấm gương của đạo đức hay chân lý (dhamm
d sa). Về đức Phật, bậc dự vào dòng thánh tin tưởng với trí tuệ
rằng đức Phật là chủ đề của thiền quán (buddhagu? ramma? a). Bậc
dự vào dòng thánh tin đức Phật là j Như Lai (Tath gata), k Bậc
A-la-hán đáng tôn kính (arahati) do đã bẻ gẫy (hanati) các
gộng (ar ) của bánh xe tái sanh, l bậc giác ngộ viên mãn (Samm
sambuddha), m bậc trí tuệ và đạo đức trọn vẹn (Vijj cara?a
sampanna), n bậc đã chấm dứt luân hồi (Sugata), o bậc tuệ tri
được thế giới (Lokavid‰ ), p bậc huấn luyện loài người (Anuttara
purisa damma s rathi), q bậc thầy của thần linh và con người (satth
devamanuss naị ), r bậc giác ngộ (Buddha), và s bậc Thế Tôn
(Bhagavant).
Về con đường giải thoát
của đức Phật, bậc dự vào dòng thánh tin rằng đó là giáo pháp j được
giảng dạy một cách thiện xảo (sv kkh ta), k mang lại kết quả
thiết thực trong đời (sandiỉ ỉ hika), có giá trị siêu thời gian (ak
lika), m mời gọi sự đến và thấy (ehipassika), n hướng đến cao
thượng (opanayika), và o và được bậc trí đã kinh nghiệm và công
nhận (paccattaị veditabbo vi– – ‰ hi). Bậc dự vào dòng thánh nhận
thức được rằng giáo pháp của Phật (dhamma) rất thâm sâu, khó
thấy, khó hiểu, siêu tuyệt, vượt khỏi logic, vi diệu, thù thắng.
Giáo pháp của đức Phật
được tóm gọn trong 37 yếu tố hướng đến giác ngộ (bodhipakkhiyadhamma),
bao gồm 4 cơ sở chánh niệm (catt ro-satipaỉ ỉ h n ), 4 nỗ lực
chân chánh (catt ro sammappadh na), 4 thần túc (catt ro
iddhip d ), 5 căn (pa– cindriy ni), 5 năng lực (pa–
cabal ni), 7 yếu tố giác ngộ (sattabojjhanga) và 8 đường
thánh (ariyo atthangiko maggo). Về cộng đồng tu sĩ thánh, bậc dự
vào dòng thánh tin rằng đó là cộng đồng có đời sống đạo đức, hành vi trí
tuệ, đi trên đường chân chánh, bao gồm tám thánh nhân, xứng đáng được
tôn kính và quy ngưỡng và là ruộng phước của đời. Về bản chất của đời
sống đạo đức, bậc dự vào dòng thánh tin rằng đạo đức (s? la),
không tỳ vết, không gián đoạn chắc chắn sẽ dẫn đến thiền định và trí tuệ
và luôn được bậc trí khen ngợi. Về sự độ lượng (c ga), bậc dự
vào dòng thánh tin rằng đó là hành vi giúp cho con người cởi bỏ được
thái độ tham lam, bỏn xẻn, vị kỷ, hướng đến tâm vị tha, không chấp thủ
sở hữu, sẵn sàng ban tặng, giúp đỡ và chia xẻ sở hữu của mình cho người
khác. Với những niềm tin (saddh ) đầy trí tuệ này, bậc dự vào
dòng thánh (sot panna) được mô tả là bậc đã nắm vững chánh pháp
(diỉ ỉ hadhammo pattadhammo viditadhammo pariyog ?hadhammo),
vượt khỏi hoài nghi và thiếu niềm tin (ti– – avicikccho vigatakathaị
katho) và chắc chắn không còn lui sụt trên đường giác ngộ (niyato
sambodhipar ya?o). Trong các bài kinh khác, bốn điều kiện này được
lập lại với vài thay đổi, nhất là điều kiện sau cùng. Ở đây, niềm tin về
đời sống đạo đức được thay thế bằng sự độ lượng.
Có vài điều kiện nhất định
mà bậc dự vào dòng thánh phải thực hiện để dự vào dòng niết-bàn.
Đó là thân cận các bạn tri thức thiện (kaly ? amittat ), ứng
dụng tâm vào các chủ đề thiền quán liên hệ đến giáo pháp (dhamm
nudhamma-paỉ ipatti) và thực hành đường thánh gồm tám yếu tố (ariya-aỉ
ỉ haơ gika-magga), như quan niệm chân chánh (samm diỉ ỉ hi),
tư duy chân chánh (samm saơ kappa), lời nói chân chánh (samm
v c ), hành vi chân chánh (samm kammanta), nghề nghiệp
chân chánh (samm - j? va), nỗ lực chân chánh (samm -v y
ma), chánh niệm (samm sati) và chánh định (samm -sam
dhi).
Ngoài ra, bậc dự vào dòng
thánh đang trên đường hoàn thiện đời sống đạo đức và trí tuệ bằng thiền
định. Vị ấy tuệ tri nguyên lý duyên khởi tương thuộc (paticcasamupp
da) của mọi sự vật (dhamm ). Vị ấy nhận chân rõ bốn chân lý
thánh. Vị ấy được gọi là hành giả bất động, một trong tám thành viên của
gia phả thánh. Vị ấy làm chủ và không bao giờ vi phạm các nghiệp giết
hại, nói láo, trộm cướp, hoạt động tình dục, và rượu chè hút sách.
Bậc dự vào dòng thánh
thường thực hiện sáu loại thiền quán (sa– – a) tạo thành trí tuệ
(cha vijj bh giye dhamme). Đó là quán tưởng về vô thường (anicca)
của các vật hữu vi (saơ kh r ), quán tưởng về khổ (dukkha)
trong sự vô thường, quán về sự không thực thể hay vô ngã (anatta),
quán về sự từ bỏ, quán về sự xả ly, ly tham và niết-bàn.
Như là kết của sự chứng
đắc, bậc dự vào dòng thánh (sot panna) đã vĩnh viễn khép lại các
cánh cửa tái sanh vào ma quỷ, thú vật, đoạ xứ, hay các cảnh giới bất
thiện. Vị ấy không bao giờ bị thối thất trong con đường giác ngộ, chắc
chắn đạt được sự giác ngộ và giải thoát ở đời này hay tương lai. Vị ấy
không còn sợ hãi cái chết. Vị ấy chỉ phải tái sanh tối đa 7 lần (sattakkhattu-parama)
trong các cảnh giới thiện. Vị ấy được mệnh danh là người được liệt vào
gia phả thánh (kolaơ kola) chỉ phải sanh đôi ba lần. Vị ấy chỉ
phải tái sanh một lần (ekab? j? ) để chấm dứt mọi đau khổ. Giá
trị của quả dự vào dòng thánh là "hơn hẳn các bậc trị vì trái đất, hơn
hẳn được sanh về cõi trời và hơn hẳn các bậc chúa tể của các thế giới."
Cần nói thêm rằng giai
đoạn tiền dự lưu trong tiến trình chuyển hóa tâm linh dẫn đến
niết-bàn được gọi là thành viên của gia phả thánh (gotrabh‰
). Thành viên của gia phả thánh có thể là người cư sĩ hay vị tu sĩ, sống
đời không đam mê khoái lạc thế gian (puthujjana) và đã
hoà nhập vào đời sống của các bậc thánh (ariya). Người phàm (puthujjana),
có thể trở thành thành viên thánh, nếu vị ấy chịu phát huy các đức tánh
đạo đức thiện. Nói cách khác quả vị giác ngộ không phải là đặc ân dành
cho đệ tử Phật, mà là thành quả của những ai nỗ lực chân chánh để thành
Phật.
IV. BẬC TRỞ LẠI MỘT
LẦN (SAKAD€ G€ M… )
Bậc trở lại một lần (Sakad
g m? ) được định nghĩa là thành viên thánh, người đã chấm dứt trọn
vẹn ba trói buộc đầu (saị yojan ni) và giảm thiểu tối đa hai
trói buộc kế tiếp, đó là, đam mê khoái lạc giác quan (k ma-r ga)
và hiềm hận (vy p da), và là vị chỉ phải sanh lại đời này một
lần nữa là có thể tạ từ sanh tử và khổ đau.
Vị ấy huấn luyện mình
trong các nguyên tắc đạo đức. Người như vậy do diệt trừ ba trói buộc sẽ
chỉ phải tái sanh tối đa bảy lần nữa trong cõi trời và người và sau cùng
sẽ dứt sạch đau khổ. Hoặc người như vậy sau khi diệt trừ bao trói buộc
sẽ trở thành người chỉ phải tái sanh một lần [ekab? j? ] là có
thể diệt hết đau khổ. Vị ấy nhờ diệt trừ ba trói buộc và làm giảm thiểu
tầm hoạt động của tham dục [rago], sân hận [dosa] và vô
minh [moha], trở thành vị trở lại một lần để chấm dứt các đau
khổ.
Theo đoạn kinh trên, con
đường của bậc trở lại một lần bắt đầu bằng sự diệt trừ trọn vẹn ba trói
buộc và có những tiến bộ tâm linh và đạo đức nhất định về đam mê khoái
lạc giác quan (k mar go) và hiềm hận
(vy p do).
Trong quá trình chứng đắc
của ba con đường giác ngộ cao hơn, tiến triển và sự tiến hóa tâm linh
cũng khởi đầu giống như người chứng được quả dự vào dòng thánh này.
Nghĩa là mỗi con đường chứng ngộ cao hơn có thể đạt được một cách thứ tự
từ thấp đến cao, để trở thành một bậc thánh thật sự.
V. BẬC KHÔNG CÒN TRỞ
LẠI (AN€ G€ M… )
Tình trạng của bậc không
còn trở lại
Quả vị thánh thứ ba là bậc
không trở lại sanh tử (An g m? ), được định nghĩa như là người
đã nhổ sạch gốc rễ của năm trói buộc thấp (pancam ni orambh giy ni
saị yojan ni), đó là, quan niệm sai lầm về nhân tính (sakk
ya-diỉ ỉ hi), hoài nghi (vicikicch ), cho rằng giáo điều và
nghi lễ là phương tiện của giải thoát (s? labbata-par m sa),
đam mê khoái lạc giác quan (k ma-r ga), hiềm hận (vy p da).
Năm kiết sử này là những phiền não trói buộc con người vào những thế
giới thấp kém. Thoát khỏi chúng, vị hành giả sẽ có thể tái sanh cõi trời
tịnh cư (suddh v sa) và khi qua đời tại đó, không còn sanh tử
trên cõi đời này nữa. Nói cách khác, vị không trở lại sanh tử là bậc
thánh không còn trở lại đời sống của thế giới khoái lạc giác quan (k
madh tu), giải phóng mình khỏi các đam mê sắc dục (k mayoga)
và gần kề với cứu cánh của sự chứng ngộ quả A-la-hán. Sau khi mãn phần ở
cõi đời, vị ấy có thể tái sanh vào một trong những cõi trời cao nhất và
chứng đắc đạo quả A-la-hán tại đây. Tuy nhiên, bậc không trở lại này vẫn
còn phải chịu sự hiện hữu (bhavayoga) do sự diệt trừ phiền não (
sav ) chưa đến mức rốt ráo.
Sự trói buộc của dục lạc (k
mayoga) còn gọi là sự đam mê khoái lạc thân xác (k macchanda)
là sự đam mê về năm dục lạc của đời (pa– ca k magu?a), đó là,
vật thể đẹp do mắt nhận thức, âm thanh hay do tai nhận thức, mùi dễ chịu
cho mũi ngửi, vị ngon do lưỡi nếm, vật êm ái do thân xúc chạm. Hàng phàm
phu xem những thứ này là khả lạc, khả ái, khả hỷ và thậm chí như những
hình thái hạnh phúc cao nhất mà con người có thể đạt được trên đời này.
Nhưng trên thực tế, đó là thứ hạnh phúc thấp nhất, so với hạnh phúc của
thiền định và niết-bàn. Sợi dây trói buộc của khoái lạc giác quan là một
thể hiện của tham (lobha / r ga) và hình thức khác của tham ái (taơ
h ), đóng chức năng như là phiền não chính của tâm và gây ra đau
khổ. Cũng như các hiện tượng khác, các dục lạc đều mang tính chất của
điều kiện nhân quả. Chúng được ba nhóm hành vi bất thiện của thân, miệng
và ý điều khiển và chi phối. Các hành vi bất thiện này phát sanh từ sự
không kềm chế và làm chủ hoạt động của các quan năng cảm giác. Sự không
làm chủ các giác quan lại do thiếu chánh niệm và tỉnh giác. Mất chánh
niệm và tỉnh giác trong cuộc sống là thiếu thái độ nhận thức sự vật như
chúng là. Tiến trình duyên khởi của các bất thiện này được mô tả trong
kinh Tương Ưng (Saị yutta-Nik ya) rằng thực phẩm cho sự phát
sanh các trói buộc của khoái lạc giác quan chưa sanh và làm lớn mạnh các
trói buộc đã sanh là "đặc điểm đẹp của các sự vật và thái độ quan sát sự
vật không đúng với bản chất của chúng (ayoniso manasik ra, không như
lý tác ý). Nói cách khác, do vắng mặt thái độ nhận thức sự vật như
chúng là (yoniso manasik ra), con người đánh mất tự chủ tâm mình
trước các vẻ đẹp quyến rũ của các sự vật, đã làm cho các giác quan chạy
theo và vướng mắc vào các đối tượng của chúng, tìm kiếm khoái lạc qua
thân, lời nói và ý tưởng.
Hiềm hận (vy p da)
thường được thể hiện qua các thái độ và hành động chống trả, bức chế,
đàn áp, tranh chấp, đấu tranh, tiêu diệt các sự vật không khả ái, khả
lạc và khả hỷ. Nó là một hình thái của sân (dosa) vốn là một
trong ba gốc rễ của các động cơ và hành vi bất thiện. Cũng như trói buộc
các khoái lạc giác quan, như đức Phật trình bày, đặc tính không đẹp của
sự vật và thái độ nhận thức không phù hợp với bản chất của sự vật như
chúng là, là hai thực phẩm nuôi sống sự sanh khởi của các hiềm hận chưa
sanh, và phát triển các hiềm hận đã sanh.
Đức Phật đã so sánh trói
buộc của khoái lạc giác quan với con nợ và hiềm hận với con bệnh và giải
thoát khỏi trói buộc khoái lạc giác quan và giải thoát khỏi hiềm hận
được ví như hết nợ và hết bệnh. Trong kinh Tương Ưng, đức Phật đã
sánh ví trói buộc của khoái lạc giác quan với tô nước bẩn trong khi hiềm
hận như tô nước đang sôi. Người nhìn vào đó không thể thấy rõ được gương
mặt của mình. Nói khác đi, khi tâm con người bị các trói buộc của khoái
lạc giác quan và hiềm hận chi phối và ám ảnh sẽ không có thể nhận biết
và tuệ tri được các đặc tính tốt của mình, của người và của cả hai.
Theo đức Phật, trói buộc
khoái lạc giác quan sẽ bị diệt trừ nhờ vào sự phát triển thái độ nhận sự
vật đúng với bản chất của chúng (yoniso manasik ra) và sự giải
thoát nội tại nhờ vào lòng từ bi (mett cetovimutti). Khi chi
tiết hoá, các trói buộc này được diệt trừ bằng cách phát triển đời sống
ẩn dật (viveka) của thân (k yaviveka), của tâm ý (cittaviveka)
và ẩn dật kiềm chế (vikkhambha? aviveka). Yếu tố đầu tiên của
tiến trình tu tập phát triển đời sống tâm linh là rút lui các căn khỏi
sự vướng bận của chúng đối với các đối tượng thế giới. Kế đến là sự rút
lui của các hoạt động nội tâm về các phiền não và lậu hoặc. Thứ ba là
phát triển thái độ từ bỏ (pah na), chẳng hạn như từ bỏ nhờ khống
chế (vikkhambhanappah naị ), từ bỏ nhờ thay thế các phương tiện
đối lập (tadaơ gappah naị ), từ bỏ bằng cách chặt đứt (samucchedappah
naị ), từ bỏ nhờ đời sống an tĩnh (paỉ ippassaddhippah naị )
và từ bỏ bằng sự giải thoát (nissaranappah naị ).
Trình bày một cách khác
là, các trói buộc của khoái lạc giác quan có thể được đoạn trừ bằng cách
thực hành thiền định về các chủ đề bất lợi và xấu xa của thân xác, về
thiền định làm chủ các quan năng cảm giác, về sự huân bình trong các nhu
cầu, trong khi đó, hiềm hận có thể được trừ diệt bằng cách hành trì
thiền định về các chủ đề từ bi, thông cảm, tuỳ hỷ, ủng hộ người tốt việc
tốt, gần gủi người thiện v.v. . . Nói chung, chúng ta có thể vượt qua
hai trói buộc này bằng cách thực hành bốn cơ sở của chánh niệm (samm
sati), đó là chánh niệm về các hoạt động của thân (k y
nupassan ), của các cảm giác (vedan nupassan ), của tư
tưởng (citt nupassan ) và của những ý niệm của tâm (dhamm
nupassan ).
Phân loại bậc không trở
lại sanh tử
Trong kinh điển nguyên
thủy, có tất cả năm loại hình các bậc không trở lại sanh tử là:
j Người đã chặt đứt dòng
hoạt động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn trong nửa
đời người đầu (antar parinibb y? ),
k Người đã chặt đứt dòng
hoạt động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn trong nửa
đời người sau (upahacca parinibb y? ),
l Người đã chặt đứt dòng
hoạt động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn một cách
không cần dụng công (asaơ kh ra parinibb y? ). Kinh Tăng Chi
(Aơ guttara Nik ya) đề cập hạng hành giả này do ý thức và
quán chiếu về sự bất tịnh của thân, sự vô ngã của các sự vật, sự vô
thường của thế giới, sự giả tạm của cuộc đời, và tất cả phải chết, nên
đã phát triển được năm năng lực và năm căn.
m Người đã chặt đứt dòng
hoạt động của năm trói buộc cao và chứng đắc niết-bàn với nhiều
nỗ lực và khó khăn (sasaơ kh ra parinibb y? ), và
n Người đã lội ngược dòng
để chứng đạt trạng thái [giải thoát] cao nhất (uddhaị soto akaniỉ ỉ
hag m? ).
VI. BẬC A-LA-HÁN
Tình
trạng đạo đức và trí tuệ của A-la-hán
Bậc A-la-hán được định
nghĩa là người không còn các trói buộc khoái lạc giác quan (k mayoga)
trói buộc tái hiện hữu (bhavayoga) và các dòng chảy lậu hoặc của
tâm đã khô cạn ( sav naị khaya). Sự chấm dứt hoàn toàn các lậu
hoặc ( sav naị khaya) hay giải thoát lậu hoặc (an sava)
sẽ dẫn đến sự chứng đạt giải thoát tâm (cetovimutti), và giải
thoát bằng trí tuệ (pa– – vimutti) và chứng đạt được trí tuệ
siêu việt (abhi– – ) ngay trong đời hiện tại này (diỉ ỉ
hevadhamme).
Bậc A-la-hán đã hoàn tất
ba huấn luyện cao cấp về tâm linh (t? su sikkh su sikkhit ) đó
là sự huấn luận về đạo đức cao thượng (adhis? la), thiền định cao
thượng (adhicitta) và trí tuệ siêu việt (adhipa– – ).
Bậc A-la-hán đã hoàn thành đời sống thánh thiện (yo s ro
brahmacariyassa tasmim aparapaccay ) và không còn bị tái sanh trong
tương lai (vippamutt punabbhav )." A-la-hán là bậc không còn bị
dao động (akopya) trong các biến cố của đời. A-la-hán là bậc
chiến thắng (vijit vino) tất cả các khuynh hướng bất thiện và
xấu ác (anusay ).
A-la-hán là người
đã đạt được lý tưởng hoàn thiện đạo đức và trí tuệ trong Phật giáo
nguyên thủy. Do hoàn thiện đạo đức, bậc A-la-hán sẽ không còn các hoạt
động cố ý giết hại, lấy của không cho, nói sai sự thật, quan hệ tình dục
và uống rượu hút sách.
Trong suốt cuộc đời vị A-la-hán đã vĩnh viễn từ bỏ nghiệp sát hại chúng
sanh, đã từ bỏ các loại vũ khí, là người tràn đầy tình thương, trí tuệ,
chân thành và làm lợi ích cho đời. Hoạt động của bậc A-la-hán luôn mang
lại hạnh phúc và lợi ích cho con người và các loài hữu tình khác, phù
hợp với luật đạo đức.
Bậc A-la-hán là người đã
chặt đứt hoàn toàn các trói buộc của hiện hữu (parikkh? ?abhava-saị
yojana). Có tất cả mười trói buộc của hiện hữu như đã đề cập bên
trên. A-la-hán không còn dòng chảy của các lậu hoặc (kh? ? savo)
như khoái lạc giác quan (k m savo // k m srava), tái hiện hữu
(bhav savo // bhav srava), quan điểm sai lầm (diỉ ỉ h sava
// d??ỉ srava), và vô minh (avijj savo // avidy srava).
Các lậu hoặc này là những thác lũ (ogha). Đức Phật cũng được định
nghĩa là người chỉ con người vượt thoát các thác lũ (oghassa
nitthara?aị pa– – penti), một con đường vượt xa giáo pháp của các
sa-môn (sama?a) và bà-la-môn (brahma?a) thời bấy giờ. Ngay
thời Phật còn sống, sự thanh tịnh đạo đức (s? la) và khổ hạnh ép
xác (tapo-jiguccha) là hai cách để vượt qua (pat reti)
thác lũ (ogha) của các hành giả Bà-la-môn. Đức Phật không tán
thành lối hành trì này, bởi lẽ theo ngài, đời sống đạo đức đơn thuần
không thể làm cho con người trở thành thánh, mặc dù đây là yếu tố quan
trọng trong tiến trình thánh hóa bản thân. Đời sống đạo đức phải được
song hành với sự phát triển thiền định chân chánh (samm sam dhi),
tuệ trí chân chánh (samm -– ?a) và giải thoát chân chánh (samm
-vimutti). Trong khi đó, phương pháp khổ hạnh hành xác (tapo-jiguccha)
không thể nào giúp hành giả vượt thoát khỏi thác lũ của tâm, và càng
không thể giúp ta đạt được trí tuệ hay tuệ giác, ngoại trừ làm cho thân
thể ngày càng yếu đi và tinh thần ngày càng mê loạn.
Bậc A-la-hán đã chứng đạt
được mục đích giải thoát tối hậu. Vô minh, tái sanh, tham ái, các trói
buộc, sợ hãi, sầu lo và thái độ "tôi-là" đã hoàn toàn không còn sự sống
trong bậc A-la-hán. Trong mọi tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, co duỗi, ăn
mặc, xem nhìn, thức và ngủ v.v. . . vị A-la-hán luôn thể hiện tỉnh giác.
A-la-hán được gọi là vị có tâm kim cương và là bậc đã chứng đạt
niết-bàn, một trạng thái an lạc tuyệt đối của tâm. Có thể nói rằng,
trong bậc A-la-hán, sự giác ngộ (bodhi), giải thoát (vimutti)
và niết-bàn
(nibb na) là một. Cần lưu ý rằng giải thoát khỏi đau khổ không
có nghĩa là sự chấm dứt vĩnh viễn sự sống. Giải thoát là thoát khỏi đau
khổ trong vòng sanh tử triền miên. Niết-bàn
là trạng thái an lạc siêu thời gian của tâm, do tâm đã vắng mặt hoàn
toàn các đau khổ.
Phân loại bậc A-la-hán
Có nhiều
loại A-la-hán cũng như có nhiều con đường dẫn đến sự chứng đắc giác ngộ.
Do có hai cách thức mà một hành giả chứng đắc được quả A-la-hán nên có
hai loại A-la-hán chính được biết đến là bậc giải thoát bằng hai cách (ubhatobh
gavimutta) và bậc giải thoát nhờ trí tuệ (pa– – vimutta).
Loại A-la-hán đầu là vị đã diệt trừ toàn bộ các phiền não lậu hoặc của
tâm thông qua tám giải thoát (vimokkh ) và chứng đạt được trí
tuệ (pa– – ), trong khi loại A-la-hán sau là người chứng thánh
do thực hành con đường bốn cấp độ thiền định đầu (jh na) mà
không cần vận dụng đến các cấp độ thiền định kế và tám giải thoát (vimokkh
).
Giáo sư N. Dutt trình bày
rất rõ ràng rằng sau giai đoạn quả dự vào dòng thánh (Sot panna),
một vị thành tín (saddh nus r? ) sẽ được tôn xưng là bậc giải
thoát nhờ chánh tín (saddh nus r? ) hay bậc thân chứng (k
yasakkh? ) vì khi thực hành thiền định cao hơn vị ấy nhận ra được
trạng thái định tĩnh nội tại bằng hai cách tâm linh và vật lý, và bắt
đầu tiến trình giải thoát tâm linh với tâm giải thoát (cetovimutti)
và kết thúc bằng tuệ giải thoát (pa– – vimutti) và bấy giờ vị
ấy được gọi là bậc giải thoát bằng hai cách (ubhatobh gavimutta).
Bậc theo đuổi chân lý (dhamm nus r? ) còn được gọi là vị bậc
chứng đạt chánh kiến (diỉ ỉ hippatta) bởi do sự tiếp tục dấn thân
vào học hỏi triết lý hơn là thiền định cao cấp, bắt đầu con đường giải
thoát bằng tuệ giải thoát và kết thúc bằng tâm giải thoát và do vậy được
gọi là vị chứng đắc giác ngộ nhờ trí tuệ (Pa– – vimutta).
Như vậy, A-la-hán có thể là người chứng đắc giác ngộ bằng trí tuệ (pa–
– vimutta), nếu vị ấy không trải qua giai đoạn an trú và thọ hưởng
8 giải thoát (vimokkh ) và không kinh qua các cấp độ thiền định
vô sắc giới (ar‰ pa-jh na); và cũng có thể là người giải thoát
bằng hai cách (ubhatobh gavimutta) nếu vị ấy an trụ và thọ hưởng
8 giải thoát (vimokkh ).
Cần nói
thêm rằng tiến trình và cách thức mà một hành giả trở thành bậc A-la-hán
luôn luôn khác nhau tuỳ thuộc vào căn cơ của từng người. Có nhiều vị
chứng quả A-la-hán sau khi hoàn tất sự huấn luyện về đạo đức và trí tuệ
mà thuật ngữ Phật giáo thường gọi là bậc vô học (asekha).
Có nhiều vị do có niềm tin bất động về Ba Ngôi Báu và nhờ vào trí tuệ
hân hoan và trí tuệ năng hoạt (h supa– – a và javanapa– – a)
mà chứng đắc giác ngộ. Có nhiều vị chứng A-la-hán do liên tục thực hành
thiền định về bản chất của năm nhóm nhân tính tâm vật lý là không thường
còn, không có thật thể và đau khổ. Cũng có hạng A-la-hán chứng ngộ đạo
quả giải thoát bằng đốn ngộ sau khi nghe một bài kinh của Phật dạy, như
trong kinh Trung Bộ: "và sau khi nghe kinh này, có hơn 60 vị
chứng đắc, giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc phiền não và không còn chấp
thủ ở đời." Điều này cũng từng xảy ra với các vị đệ tử tại gia của Phật,
chẳng hạn như Da-xá (Yasa), một thiện nam và Khem , một tín nữ đã chứng
đắc giác ngộ sau khi nhận được sự chỉ dạy của đức Phật.
Điều này cho thấy rằng con
đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc,
tu sĩ hay cư sĩ. Bất kỳ ai sống đời đạo đức và trí tuệ theo tinh thần
Phật dạy, giải thoát tâm mình khỏi các thác lũ lậu hoặc, chuyển hóa đời
sống trở nên toàn diện sẽ có thể chứng đạt giác ngộ ngay đời này và tại
thế gian này. Một trong những bằng chứng đó là kinh Tương Ưng ghi
chép có 50 đệ tử tại gia chứng quả không còn trở lại sanh tử, và 25 vị
chứng đạt niết-bàn,
được ghi trong kinh Tăng Chi.
VII. A-LA-HÁN VÀ
THÁI ĐỘ VÔ NGÃ
Thái độ "tôi là" chỉ là sự
ngộ nhận do dựa vào các nỗ lực đồng nhất bản ngã (asmim no) với
năm nhóm nhân tính tâm vật lý và đây là đầu mối của lưới bãy vô minh (mohaj
la), đã hoàn toàn vắng mặt trong bậc A-la-hán. Sự hoàn thiện và
chứng đắc mục đích (attha) giác ngộ (bodhi) của bậc
A-la-hán không có liên hệ đến chủ nghĩa tự ngã trung tâm dưới ba hình
thái: hơn, bằng và thua.
Bạch đức Thế Tôn, vị
Tỳ-kheo chứng A-la-hán đã vượt qua các lậu hoặc của tâm ( sav
), đã hoàn tất đời sống thành, đã làm xong việc cần làm, đã đặt gánh
nặng xuống, đã diệt trừ các trói buộc của sanh tử, đã giải thoát nhờ trí
tuệ, thì đối với vị ấy thái độ sau đây sẽ không còn: "có người hơn tôi,"
hay "có người bằng tôi," hay "có người thua tôi."
Theo đức Phật, một bậc
A-la-hán thật chứng được thánh quả sẽ không bao giờ phát ngôn liên hệ
đến thái độ "Tôi-là." Thái độ nhận thức đặt trên bản ngã hay hướng về
bản ngã chỉ có thể có trong tâm trí của kẻ phàm người tục, do chưa nhổ
lên được vô minh, và do vậy vẫn còn phải chịu đau khổ do các phản ứng
cảm xúc và chấp thủ gây ra. Nói cách khác, đối với người thật sự chứng
đắc đạo quả, mọi so sánh và tham chiếu về một thực thể bản ngã thường
hằng (att ) hoàn toàn không còn nữa. Ngài Phật Âm (Buddhaghosa)
trình bày sự kiện vô ngã này rất rõ khi cho rằng chỉ có hạnh phúc và khổ
đau nhưng không có tác nhân để kinh nghiệm cảm giác hạnh phúc và đau khổ
đó; chỉ có các sự kiện về hoạt động nhưng không có một tác nhân để điều
khiển các hoạt động đó; chỉ có sự kiện trên con đường giải thoát nhưng
không có tác nhân du hành trên đó; chỉ có sự kiện về chấm dứt các lậu
hoặc nhưng không có tác nhân để chấm dứt. Câu phát biểu của ngài như
sau: "Có đau khổ nhưng không có người chịu khổ; có hành vi nhưng không
có người thực hiện; có sự chấm dứt nhưng không có người chấm dứt; có con
đường nhưng không có người du hành."
VIII. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH BẬC A-LA-HÁN
Kinh điển nguyên thủy cũng
còn đề cập đến tiêu chí xác định đâu là môt vị chứng đắc quả A-la-hán
thật sự. Có năm tiêu chí được ghi lại trong bài kinh
Chabbisodhana-Sutta, thuộc kinh Trung Bộ. Trước nhất là, bốn
phán đoán (voh ra) về bản chất của sự thấy, nghe, kinh nghiệm và
nhận thức được sử dụng để kiểm chứng sự chứng đắc giác ngộ. Đối với vị
A-la-hán thật, khi những gì được thấy chỉ đơn thuần quan niệm là thấy,
những gì được nghe chỉ quan niệm đơn thuần là nghe; những gì được kinh
nghiệm chỉ đơn thuần quan niệm là kinh nghiệm và những gì được nhận thức
chỉ quan niệm đơn thuần là nhận thức. Nhờ quan niệm đơn thuần sự thấy,
sự nghe, sự kinh nghiệm và sự nhận thức mà bậc A-la-hán thoát khỏi các
phản ứng và chấp mắc vào sự vật được thấy, được nghe, được kinh qua và
được thấy. Tâm của vị A-la-hán sẽ hoàn toàn giải thoát. Nói cách khác ai
vẫn còn chấp mắc vào những cái thấy, nghe, kinh nghiệm và nhận thức khi
sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng của chúng không thể được gọi là
bậc đã chứng đắc A-la-hán.
Thứ hai là, về phương diện
của năm nhóm nhân tính chấp thủ (pa– cup d nakkhandh ), như là
thân thể (r‰ pa), cảm giác (vedan ), ý niệm hóa (sa– –
), khuynh hướng tâm (saơ kh r ) và thức phân biệt (vi–
– ?a), bậc A-la-hán "thiệt" không còn những thái độ xem đồng hóa
chúng với bản ngã, chúng nằm trong bản ngã hay bản ngã nằm trong chúng.
Thái độ bản ngã hay xem sự vật có một thực thể bản ngã thường hằng hoàn
toàn không còn chân đứng trong nhận thức của bậc A-la-hán. Do đó mọi
thái độ chấp trước về bản ngã hoàn toàn không còn.
Thứ ba là, đối với sáu yếu
tố hình thành nên thế giới, như là yếu tố ngoại diên hay chất rắn (paỉ
hav? -dh tu // p?thiv? -dh tu), yếu tố chất lỏng ( po-dh tu
// pa-dh tu), yếu tố nhiệt lượng (P = S tejo-dh tu), yếu
tố vận động (P = S v yo-dh tu), yếu tố không gian ( k
sadh tu) và yếu tố nhận thức (vi– – ?adh tu // vij– nadh
tu), vị A-la-hán thật không bao giờ quan niệm rằng chúng là thực
thể, bản ngã, linh hồn, hay cho rằng bản ngã không tuỳ thuộc vào chúng.
Nói chung ý thức về các nhóm vật thể và tâm lý như là bản ngã đã không
còn trong vị A-la-hán.
Thứ tư là đối với sáu quan
năng cảm giác (?a? -indriy ?i // ajjhattik yatana) và sáu đối
tượng giác quan (?a? - yatan ni // b hir yatana), như con mắt
(cakkhu // cak?ur-indriya) và vật nhận thức (r‰ pa // r‰ pa);
lỗ tai (sota // ? rotrendriya) và âm thanh (sadda // ? abda?
); lỗ mũi (gh na // ghr ?edriya) và mùi (gandha // gandha?
); lưỡi (jivh , jihvendriya) và vị (rasa // ras? ); thân
thể (k ya // k yendriya) và vật xúc chạm (phoỉ ỉ habba //
spar? a? ); tâm (mano // manendriya) ý tưởng (dhamma //
dharma), bậc A-la-hán sẽ tuệ tri rõ rằng cái gì có đam mê, cái đó có
chấp thủ, cái gì có chấp thủ cái đó có tham ái, cái gì có tham ái cái đó
tạo thành tín điều, thành kiến, khuynh hướng của tâm, và bậc A-la-hán
luôn chặn đứng tiến trình của chúng, để không bị chấp thủ.
Và thứ năm là, các phán
đoán hay thái độ "tôi-là" chẳng hạn như "tôi là người làm," "người làm
là của tôi," v.v. . . đối với bản thân và thế giới, không còn xuất hiện
trong vị A-la-hán nữa. Lý do là khi nhìn thấy sự giới hạn của đời sống
tại gia, vị ấy theo đuổi đời sống không gia đình, từ bỏ các nghiệp sát
hại, trộm cướp, đời sống tình dục, lời nói sai sự thật, lời nói gây chia
rẽ, lời nói hung dữ và ác độc, lời nói vô nghĩa, rượu chè hút sách; vị
ấy cũng từ bỏ các thái độ tham dục, sân hận và si mê. Vị ấy khi quan sát
con người và thế giới, không nắm giữ các đặc điểm chung và riêng của
chúng, hoàn toàn làm chủ các giác quan. Vị ấy sống trong chánh niệm và
tỉnh giác, trong mọi tư thế của thân như đi, đứng, nằm, ngồi, co duỗi,
mặc áo quần, ăn uống, soi gương, nói chuyện, im lặng, ngủ hay thức v.v.
. . Vị ấy sống trong tình trạng tâm không còn tham lam, sân hận và si
mê, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, hoài nghi. Nhận chân rõ về các khoái
lạc giác quan là khổ nhiều hạnh phúc ít, và các trạng thái bất thiện của
tâm gây ra đau khổ, vị ấy thiền định và an trú vào các cấp thiền thứ
nhất, hai, ba, bốn và bốn cấp thiền định thuộc vô sắc giới (không vô
biên, thức vô biên, vô sở hữu và phi tưởng phi phi tưởng), và định không
còn cảm giác và nhận thức. Tại đây, vị ấy hướng tâm về tuệ tri sự chấm
dứt các phiền não và lậu hoặc.
Tương truyền rằng tôn giả
A-nan cũng trình bày bốn yếu tố (aơ gehi) để xác định ai là vị
A-la-hán thật sự. Theo tôn giả, nếu ai không có được một trong bốn yếu
tố tu tập sau đây mà tự xưng mình đã chứng quả A-la-hán thì biết đó chỉ
là sự ngộ nhận hay cống cao mà thôi. Bốn yếu tố xác định đó là:
Ở đây này các vị pháp hữu,
vị tỳ-kheo phát triển tuệ quán (vipassan ) rồi đến sự an chỉ (samatha)
. . . hay phát triển sự an chỉ rồi tuệ quán (vipassan pubbaơ gamaị
samatha? bh veti) . . . hay phát triễn song hành tuệ quán và sự an
chỉ (samathavipassanaị yuganaddhaị bh veti) . . . và khi tâm đã
thật sự rõ về pháp (dhammuddhacciggah? taman hoti) vị ấy đạt
được tâm chuyên nhất nhờ vậy con đường (magga) giác ngộ phát
sanh. Vị ấy theo con đường ấy và phát triển thêm. Nhờ sự phát triển tối
đa con đường ấy, tất cả các trói buộc của tâm tan rã, các khuynh hướng (anusay
) bất thiện (akusala) hoàn toàn chấm dứt.
Theo đoạn kinh trên, tuệ
quán (vipassan
) và an chỉ (samatha) là hai yếu tố quan trọng giúp hành giả
chứng đạt được sự giác ngộ và giải thoát. Phát triển tuệ quán và an chỉ
hay cả hai là các phương pháp chính yếu để chứng đắc quả A-la-hán. Nói
cách khác, tiêu chí xác định A-la-hán nằm ở chỗ "kiểm chứng" sự có mặt
của 4 yếu tố thực nghiệm này hay không. Nếu câu trả lời là không thì các
tuyên bố chứng quả A-la-hán là không có cơ sở và trở nên sai lầm. Nếu
câu trả lời là có thì sự chứng đắc A-la-hán ở người đó có thể tin được.
Do đó, các tranh luận cho rằng tuệ quán (vipassan
) siêu việt hơn an chỉ (samatha) hay ngược lại, không chỉ trở
nên vô nghĩa về phương diện thực tiễn mà còn trở nên không thích hợp.
Tuệ quán và an chỉ được xem là hai phương pháp bổ xung mật thiết cho
nhau, trên tiến trình giúp cho hành giả đạt ngộ và giải thoát, do đó,
thiếu một thì cái kia không tồn tại.
Chú thích:
S. I. 60.
D. I. 156.
D. III.
105, 254; M. I. 439, 477; A. I. 118; Ps. II. 52;
Vism. 659. Về các bậc giải thoát nhờ chánh tín (saddh nus r?
) và bậc theo đuổi chân lý (dhamm nus r? ), xem S. V.
200f; M. I. 142.
A. II. 56;
GS. II. 65: "Tăng đoàn của đức Phật gồm bốn đôi, tám chúng." Tham
khảo thêm Sn. v. 227, D. III. 227; DB. III. 219;
A. IV. 372.
A. IV.
292; GS. IV. 193.
A. IV.
373; A. V. 25.
D. III.
234; S. V. 61.
D. III.
234.
A. V. 13;
S. V. 61; Vbh.
377.
A. I. 4;
A. III. 62; A.
IV. 457; A. V. 193; D. I. 246; S. V. 96; Vbh.
378.
A. I. 62.
A. III. 376:
Kh? ? j ti vusitaị brahmacariyaị kataị kara?? yaị n paraị itthatt y
ti. Công thức này cũng tái xuất hiện ở các kinh luật sau đây Vin.
I. 14, 35, 183; D. I. 84, 177, 203; M. I. 139; M.
II. 39; S. I. 140; S. II. 51, 82, 95, 120, 245; S.
III. 21, 45, 55, 68, 71, 90, 195, 223; S.
IV. 2, 20, 35, 45, 86, 107, 151, 383: S. V. 72, 90, 144, 222;
A. I. 165;
A. II. 211; A. III. 93; A. IV. 88, 179, 302; A.
V. 155, 162.
D. I.
156-7.
D. I. 156;
S. I. 220; A.
II. 56; Sn. 227; Dhs. 74-5.
A. II.
87-8.
S. V. 59.
S. V.
347-78.
D. I. 156;
S. V. 357;
S. II. 68.
M. I. 300.
S. III.
66-8; S. IV. 2ff.
A. I. 286;
S. III. 133; Dhp.
277-9.
M. I.
101-3; D. III. 237;
A. III. 248; A. IV. 460; A. V. 17.
D. III.
237.
A. I. 233;
A. IV. 380; A.
V. 120; S. V. 205.
A. I. 233.
S. II. 69.
S. V.
345-8, 355-6, 361, 364-5, 367, 370; A. IV. 405. So sánh D.
III. 250.
D. III.
227, M. I. 37; S.
I. 219; A. II. 56. So sánh D. II. 93; S. II. 68;
S. V. 357; A. III. 211.
Hãy tham khảo
chẳng hạn như D.
III. 76; M. I. 37; S. V. 197; A. III. 285.
D. III.
236; S.II. 69, V. 197; A. III. 284-5.
M. I. 37;
A. III. 285.
M. I. 487:
ghambh? ro h’ayam . . . dhammo duddaso duranubodho santo pa?? to atakk
vacaro nipu?o pa?? itavedan? yo.
D. III.
102; Vbh. 249.
M. I. 37;
D. III. 227; S.
II. 69; S. IV. 271; A. I. 222; A. III. 285.
A. III.
285-6.
A. III.
286, 312.
S. V.
351-2.
S. V. 352.
Tham khảo về vấn
đề này ở các kinh S. V. 2-30; A. I. 14-8; It. 10.
S. V. 348.
A. I. 232,
233; GS. I. 211f, 213. Xem thêm A. IV. 381; GS. IV.
253f.
S. II. 70;
KS. II. 49. Cf. A. III. 441; GS. III. 307.
S. III.
203; KS. III. 165.
A. II. 86;
GS. II. 96.
A. II. 89;
GS. II. 99.
A. IV.
405; GS. IV. 273f. Tham khảo thêm S. II. 68; KS.
II. 48.
S. V. 346.
A. IV.
407; GS. IV. 274; S. II. 68; KS. II. 47; Tương
II. 126.
S. V. 386;
KS. V. 333; Tương
V. 563.
A. IV.
381; GS. IV. 253f. Xem thêm A. I. 233; GS. I. 213 và S. V.
205; KS. V. 180; A. V. 120; GS. V. 82; Vism.
709; pp. 833f; TTĐL. III. 456).
Dhp. 178.
A. IV.
373; GS. IV. 247; Tăng
IV. 95.
Majjhima Nik
ya (I. pp. 7,239): người phàm phu tục tử (puthujjana) được
định nghĩa là người sống và làm việc trong sự ngộ nhận về một bản tính
ngã (I-ness) và bản tính ngã sở hữu (mine-ness) và luôn cho rằng mình có
thân thể, cảm giác, ý tưởng hoá, hoạt động tâm và thức phân biệt. Do
không biết được bản chất vô ngã của các pháp vị ấy nuôi lớn lòng chấp
thủ vào các sự vật và do đó làm tăng trưởng các lậu hoặc ( savas)
về dục lạc thấm kém, về tái hiện hữu và vô minh (k ma, bhava and
avijj taì h ). Tham khảo N. Dutt (1981), Early Monastic
Buddhism, Calcutta: Firma KLM Private Ltd., p. 253).
KS. IV.
247, ghi chú 3.
D. I. 156;
S. V. 357, 379;
A. I. 233:
Idha bhikkhave s? lesu parip‰ rak r? hoti sam dhismiị mattasok r? pa–
– ya mattaso k r? . So y ni t ni khudd nukkaddak ni sikkh pad
ni t ni pajjati pi vuỉ ỉ h ti pi. Taị kissa hetu. Na hi mettha
bhikkhave abhabbat vutt . Y ni ca kho t ni sikkh pad ni
dibrahamacariyak ni brahmacariyas rupp ni tattha dhuvas? lo ca hoti ỉ
hitas? lo ca sam d ya sikkhati sikkh padesu. So ti??aị saị yojan naị
parikkhay sattakkhattuparamo hoti sattakkhattuparamaị deve ca m nuse
ca sandh vitv saị s ritv dukkhassa antaị karoti. So ti??aị saị
yojan naị parikkhay r gadosamoh naị tanutt sakad g m? hoti sakid
eva imaị gantv dukkhassa antaị karoti. Tham khảo bản dịch tiếng
Anh của F.L. Woodward, SG. I. 213.
D. I. 156; M. I.
141; S. V. 357: yesaị bhikkh‰ naị pa– corambh giy ni saị
yojan ni pah? n hi sabbe te opap tik ta
D. I. 156;
M. I. 141; S.
V. 357: yesaị bhikkh‰ naị pa– corambh giy ni saị yojan ni pah?
n hi sabbe te opap tik tattha parinibb yino an vattidhamm tasm
lok . Bởi vì ba trói buộc đầu đã được bậc dự vào dòng thánh (sot
panna) và bậc trở lại một lần (sakad g mi) diệt sạch. Đối
tượng diệt trừ của bậc không còn trở lại (an g mi) hai trói
buộc sau trong nhóm năm trói buộc thấp.
M. I. 85,
92, 398, 454.
M. I. 85.
Ud. 11.
A. V. 113.
S. V. 64.
S. V. 64.
D. I. 72.
S. V.
121-2. Xem thêm A. III. 230ff.
S. V. 105.
Vism. pp.
113, 596-7.
Vism. pp.
113, 596-7.
M. I. 56;
D. II. 300-1.
Buddhaghosa (Vism.
p. 612) giải thích các thuật từ này như sau: bậc antar -parinibb y?
đạt ngộ được niết-bàn sau khi tái sanh về trời Tịnh Cư (suddh v
sa) trước nửa đời người. Bậc upahacca-parinibb y? chứng đạt
niết-bàn sau nửa đời người. Bậc asaơ kh ra-parinibb y? tiến
trên đường cao thượng không cần nhiều dụng công. Bậc sasaơ kh
ra-parinibb y? tiến trên đường cao thượng không cần dụng công gì
cả. Bậc akaniỉ hag m? càng thăng tiến từ nơi thọ sanh (trong
trời Tịnh Cư) đến cảnh giới chư thiên cao nhất (akaniỉ ỉ habbava)
và chứng đạt giải thoát tại đây.
A. II.
156; GS. II. 161.
D. III.
237; A. I. 233; A.
IV. 14, 70, 380; A. V. 120. Về giải thích của năm bậc không còn
trở lại sanh tử trong A-tỳ-đạt-ma-câu-xá (Abhidharmako? a),
xem N. Dutt (sách đã dẫn: 1980: 264-5). Dutt cho rằng thuật ngữ "parinibb
y" nên dịch là "người thực hành con đường diệt trừ các trói buộc
cao" (those who practise the path to destroy the higher fetter).
It. 95-6.
D. I. 157.
A. I. 232.
S. III.
161; KS. III. 137.
M. I. 523;
MLS. II. 201f. Xem D. III. 235; DB. III. 225. So sánh
D. III. 133; DB. III. 125; và A. IV. 370; GS.
IV. 24.
A. I. 211;
GS. I. 190f.
M. I. 4.
D. III.
230, 276; M. I. 9; S. IV. 257; Vbh. 373; Dhs.
1448.
S. V. 59.
Thag.
1243.
At M. III.
76, hai yếu tố sau làm con đường thánh gồm tám yếu tố trở thành con
đường toàn thiện gồm mười yếu tố (dasaơ gasamann gata-arah hoti).
A. II.
189-202.
M. I. 139;
MLS. I. 178f. So sánh S. III. 83; KS. III. 69f.
M. I. 175;
MLS. I. 219.
A. I. 124;
GS. I. 107.
Bậc A-la-hán là
người đã đạt ngộ niết-bàn và có thể được xem từ ngữ cảnh của câu
trích dẫn sau cùng ở S. IV. 252; KS. IV. 170f. Tại đây,
quả A-la-hán (arahatta phala) được đánh đồng với niết-bàn: "Này
quý pháp hữu, sự diệt trừ tham, sân và si được gọi là niết-bàn và
sự diệt trừ tham sân và si cũng được gọi là quả A-la-hán (The
destruction of lust, the destruction of hatred, the destruction of
illusion, friend, is called Nibb na" and "The destruction of lust,
friend, the destruction of hatred, the destruction of illusion, Đ that
is called Arahantship")
M. I. 477;
MLS. II. 151f: Kinh này định nghĩa bậc giải thoát bằng hai cách (ubhatobh
gavimutta) như sau: "Và này các tỳ-kheo thể nào là người giải thoát
bằng hai cách? Có một số người an trú và kinh nghiệm qua chính mình với
tám giải thoát thù diệu và siêu việt, và sau khi nhận chân bằng trí tuệ
các phiền não và lậu hoặc của vị ấy hoàn toàn bị tiêu diệt." So sánh
A. IV. 453; GS. IV. 297.
D. II. 70f; DB. II.
68-70: Giải thoát 4-7 trong Tám giải thoát (vimokkha) chính là
bốn cấp độ thiền vô sắc giới (€ ruppa Jh na): (1) Với hình thái
ngoại diên của chính mình, vị ấy nhận thức được các hình thể. (2) Không
ý thức về hình thái ngoại diên của chính mình, vị ấy thấy được các hình
thái bên ngoài mình. (3) "thật tuyệt đẹp" và với tư tưởng này, vị ấy trở
nên có chủ tâm. (4) Do vượt khỏi trọn vẹn các nhận thức về hình thể mà
các nhận thức về phản ứng của giác quan được diệt trừ; không ý thức về
các nhận thức về sự đa dạng mà chỉ ý thức về không gian vô biên,
vị ấy bước vào và
an trú vào cảnh giới không vô biên xứ (5) Do vượt khỏi trọn vẹn cảnh
giới không vô biên và chỉ ý thức về thức vô biên, vị ấy bước vào và an
trú cảnh giới thức vô biên xứ. (6) Do vượt khỏi trọn vẹn cảnh giới thức
vô biên xứ và chỉ ý thức về cái không có gì cả, vị ấy bước vào và an trú
vào cảnh giới vô sở hữu xứ. (7) Do vượt khỏi trọn vẹn cảnh giới vô sở
hữu xứ, vị ấy bước vào và an trú vào cảnh giới
phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ. (8) Do vượt khỏi trọn vẹn cảnh giới phi
tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy bước vào và an trú ở trạng thái không còn
cảm giác và nhận thức. Tham khảo thêm M. II. 12f; MLS. II.
213f và D. III. 261f; DB. III. 242f.
D. II. 71;
DB. II. 70. Các bản sớ giải đều giải thích rằng ubhatobh
gavimutta có nghĩa là "thông qua sự chứng đạt vô sắc thể vị ấy được
giải thoát khỏi thân thể vật chất và thông qua con đường của quả
A-la-hán vị ấy giải thoát khỏi thân thể nội tâm. Tham khảo H. Gunaratana
(1996), The Path of Serenity and Insight, Delhi: Motilal
Banarsidass Publishers, p. 195.
M. I.
477f; MLS. I. 152: Đức Phật mô tả vị giải thoát bằng trí tuệ (pa–
– vimutta) như sau: "Và này các tỳ-kheo, thế nào là người giải
thoát bằng trí tuệ? Ở đây có vài vị an trú nhưng không nhận thức được
tám giải thoát siêu việt và vượt khỏi các vật thể nhưng nhờ nhận thức
bằng trí tuệ tất cả các lậu hoặc của vị được đoạn tận." Hãy đối chiếu
D. II. 68-70; DB. II. 66-68; và A. IV. 453; GS.
IV. 297, ở đây người giải thoát bằng trí tuệ phải trải qua chín cấp độ
thiền định (Jh na). Lưu ý thêm ở kinh Trường Bộ (D. II.
71; DB. II. 70; Trường
I. 537) bậc giải thoát bằng trí được xem là vượt hơn chín cấp độ thiền
định.
Nalinaksha Dutt,
sách đã dẫn (1981): 270f.
A. II. 87;
GS. II. 97: Hai loại A-la-hán "hành giả hoa sen xanh" và "hành giả
hoa sen trắng" được mô tả như sau: "Thế nào là người được gọi là hành
giả hoa sen trắng? Ai diệt trừ các lậu hoặc và đạt được sự giải thoát
tâm và giải thoát bằng trí tuệ rằng các lậu hoặc đã đoạn tận và an trú
vào sự chứng đạt đó. Nhưng vị ấy chưa an trú sự kinh nghiệm về tám giải
thoát. Đó là hạng người hành giả hoa sen xanh." Đ "Và thế nào là hành
giả hoa sen trắng? Bằng cách diệt trừ các lậu hoặc (như trên) … an trú
vào đó, và an trú với kinh nghiệm về tam giải thoát."
S. V.
376; KS. V. 324.
S. III.
83; KS. III. 68f;
Tương III. 1555.
M. II. 20;
MLS. II. 70.
Vin. I.
15-20. Yasa chứng quả A-la-hán khi còn là cư sĩ nhưng ngài đã gia nhập
tăng đoàn ngay sau đó (DPPN. vol. II. mục từ Yasa Thera,
p. 685). Khem , vị đệ tử đứng đầu trong số các đệ tử nữ đã chứng quả
A-la-hán trước khi gia nhập ni đoàn và bà gia nhập tăng đoàn với sự đồng
ý của chồng là vua Tần-bà-sa-la (DPPN. vol. I, mục từ Khem
Ther? , p. 727).
Trưởng Lão Tăng
Kệ (Ther g th ) và Trưởng Lão Ni Kệ (Ther? g th ) có
nhiều sự kiện tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni chứng quả A-la-hán. Cơ hội phát
triển đời sống tâm linh của người xuất gia thường nhiều hơn so với người
tại gia, tại vì các tu sĩ không còn phải vướng bận các trách nhiệm gia
đình như làm ăn để sanh tồn cho bản thân, cho hôn nhân và con cái. Quả
A-la-hán do đó ít xuất hiện ngoài tăng đoàn (Saơ gha). Tuy nhiên,
nếu vị A-na-hàm an g m? không chứng quả A-la-hán trong đời hiện
tại, vị ấy sẽ tái sanh về cõi trời Tịnh Cư, và tại đó vị ấy sẽ chấm dứt
con đường sanh từ luân hồi.
M. II.
197; MLS. II. 38: Đức Phật nói với bà-la-môn trẻ Subha: "Nếu một
người tại gia hay xuất gia thực hành pháp đúng cách vị ấy đạt được con
đường chân chánh."
S. V.
358-360; KS. IV. 313f.
A. III.
451; GS. III. 314. Cha của đức Phật, đức vua Tịnh Phạn
(Suddhodana) chứng quả A-la-hán và chết với tư cách là một A-la-hán cư
sĩ (DPPN. vol II, mục từ Suddhodana, p. 1200, xem thêm
Trưởng Lão Ni Kệ, Mah paj pati Gotami , p. 225).
A. III.
359: Yo so bhante bhikkhu arahaị kh? ? savo ohitabh ro
anuppattasadattho parakkh? ? abhavasa– – ojano sammada– – vimutto,
tassa na evaị hoti "atthi me seyyyo" ti v "atthi me sadiso" ti v
"atthi me h? no" ti v . So sánh Vin. I. 185; A. I.
218.
A. III.
359: Evaị kho bhikkhave kulaputt a– – aị vy karonto. Attha ca vutto
att ca anupan? to. Atha ca pana idhekacce moghapuris hasm mak ma– –
e a– – aị vy karonti, te pacch vigh taị pajjant? ỉ i.
Vism.
(PTS) II. 602: Dukkham eva hi, na koci dukkhito / k rako na, kiriy
va vijjati / atthi nibbuti, na nibutto pum / maggam atthi, gamako na
vijjat? ti. //
M. III.
29-36.
So sánh A.
II. 246; A. IV. 307; D. III. 232; Vin. IV. 2;
Vbh. 376.
M. III.
30.
M. III.
30-1.
Danh sách bốn đại
còn tái xuất hiện ở A. IV. 394f; năm đại ở M. I. 423 f.;
và sáu đại ở D. III. 247; M. III. 62, 249; S. II.
248; A. I. 176; Vbh. 82ff.
M. III.
31.
M. III.
32.
M. III.
33-6.
A. II.
156-7.
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|
|