|
. |
Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần III
Phật giáo và các vấn đề thời đại
--- o0o
---
PHẬT GIÁO VÀ CÁC VẤN ĐỀ THỜI ĐẠI
Tiến sĩ G. P. Malalasekera
Lệ Tâm dịch
Phật giáo đặt sự giải
thoát hay Niết-bàn trong tầm tay của con người. Điều này quan trọng, vì
giải thoát không phải là một món quà ở bên ngoài đưa tới, mà chính do sự
nỗ lực của bản thân. Không ai có thể tu tập và loại trừ phiền não giùm
cho ai được, ngoại trừ chính mình. Nói cách khác, trong Phật giáo vị trí
của đấng cứu rỗi phán xét tội lỗi hay ban ơn cho người khác, hoàn toàn
không có chỗ đứng.
1. CHƯ THIÊN
Phật giáo thừa nhận có
nhiều chư thiên (Devas). Tuy nhiên không ai trong số chư thiên này có
thọ mạng thường hằng vĩnh viễn. Các chư thiên cư trú ở nhiều cõi, có
nhiều loại chư thiên có thọ mạng dài hơn các hàng chư thiên khác. Mặc dù
không ai trong số họ là tối cao nhưng có một số vị có những năng lực
siêu nhiên đặc biệt và luôn ban phát lòng từ mặc dù chúng ta không có
cầu nguyện hay tế lễ các vị ấy. Theo Phật giáo, Phật tử có thể hồi hướng
công đức và ban rãi lòng từ tới những người cầu mong sự che chở.
Chư thiên ở cõi trời có
thể kéo dài tuổi thọ của họ tùy theo nghiệp thiê? mà họ đã làm trong
kiếp trước và khi họ tích tụ được nhiều công đức, họ sẽ được an trú
trong cõi trời và được sanh vào một thế giới nhất định. Hầu hết chư
thiên là những đệ tử của Đức Phật. Dù sao chăng nữa, chư thiên thì không
may mắn bằng loài người, bởi vì chỉ có con người mới có nhiều cơ hội tạo
thiện nghiệp hơn ở những chúng sanh sống ở cõi trời. Và ngay cả con
người có thể hồi hướng công đức do thiện nghiệp mà họ có được đến chư
thiên.
2. HỒI HƯỚNG CÔNG
ĐỨC
Hồi hướng công đức là một
phần lời dạy của Đức Phật. Người làm việc thiện hồi hướng và mong ước
rằng: "kính mong người nầy hay chúng sanh nầy… hưởng được công đức của
những việc làm từ thiện của chúng tôi." Việc hồi hướng thực sự trở nên
hiệu quả khi người nhận biết việc tốt và hoan hỷ theo đó. Đây gọi là tùy
hỷ (Anumodana). Chúng ta có thể tùy hỷ việc thiện, ngay cả không
cần biết đến ai là người làm việc thiệ? đó. Nói cách khác, khi một người
tùy hỷ việc thiện của một người khác hoặc biết hoặc không biết ai là
người làm thiện thì tâm của người này được trong sáng thanh tịnh và phát
sanh ra nhiều công đức cho chính người đó. Lòng tùy hỷ luôn được phát
sanh từ người có thiện chí. Do đó việc hồi hướng công đức chính là một
thiện nghiệp và làm tăng thêm năng lực "công đức" cho các thiện nghiệp
đã thực hiện. Bằng cách này, người hồi hướng công đức thực sự không mất
gì cả mà ngược lại còn tăng thêm công đức.
Có nhiều chư thiên có năng
lực lớn, và được xem là những vị hộ pháp trong Phật giáo. Mỗi Phật quốc
có các chư thiên riêng biệt, vốn có ảnh hưởng lớn và trong đó có một số
chư thiên có thể ứng hiện bất cứ nơi nào. Nhiều chư thiên địa phương
được vay mượn từ những tôn giáo khác, chủ yếu là từ Ấn giáo. Trong các
nước theo Phật giáo Nguyên thủy như ở Miến Điện, Phật tử đã cho rằng
Ngài Nát là vị thần hộ mạng của người dân Miến. Mặt khác, ở Nhật Bản
người ta cũng cầu khẩn rất nhiều vị Bồ-tát.
Có nhiều đền miếu để thờ
cúng những chư thiên này. Ở đó người mộ đạo dâng cúng hoa quả, bày tỏ
tâm tôn kính, tán tụng, cầu nguyện để được chư thiên gia hộ. Người ta
không đem súc vật để tế lễ. Hình thức thờ cúng này đã ảnh hưởng rất lớn
từ đa thần giáo của Ấn Độ. Điều này tương ứng với những gì Đức Phật đã
dạy khi Ngài tuyên bố rằng trong lúc căng thẳng, lo sợ, người ta nghĩ
đến đi đâu đó thiêng liêng để tìm sự che chở. Nhưng phần lớn sự mong cầu
che chở gia hộ đều liên quan tới các công việc thế tục. Tuy nhiên người
Phật tử chân chánh không tin vào sự thờ cúng chư thiên vì họ tin vào
năng lực tự thăng tiến tâm linh của mình.
3. NIỀM TIN
Câu hỏi thường đặt ra là
niềm tin (Saddha) trong Phật giáo như thế nào? Điều này có lẽ hữu
ích để chúng ta nhớ đến trong kinh gốc Pali không có từ tương đương với
thuật từ "Buddhist." Có nhiều hạng người được phân chia tùy theo cấp độ
phát triển tâm linh của họ. Như trong kinh nói có bốn hạng người:
- Người bình thường (puthujjana)
- Người tốt (kdyanajjana)
- Người cao thượng (ariya)
- Người hoàn hảo (arahat)
Nhiều bản kinh đã giới
thiệu về những Phật tử đã quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Trong Phật
giáo, không có các hình thức nghi lễ "Baptism" mặc dù có những thể thức
rập khuôn do các Phật tử dùng để bày tỏ việc quy y của mình với ý nghĩa
đơn thuần rằng người mộ đạo chấp nhận Đức Phật là bậc đạo sư của mình,
Pháp là chân lý sống của mình và Tăng là bậc mô phạm của đời sống thánh
thiện, là gương mẫu cho nhân gian.
Phẩm chất "niềm tin" của
người Phật tử là sự chấp nhận hay tin tưởng bằng trí tuệ rằng quy y Tam
Bảo là nơi đáng nương tựa. Khái niệm "đức tin mù quáng" không hề có
trong Phật giáo. Đức Phật đồng ý rằng có những đạo sư, có phương pháp tu
tập do bậc đạo sư đó thuyết giảng và có nhiều đệ tử theo để sống theo
phương pháp đó. Mỗi người hoàn toàn tự do để lựa chọn, và không có hạn
chế trong sự lựa chọn. Thật ra, có những trường hợp khi những tín đồ của
các bậc đạo sư khác khước từ họ và mong mỏi quay về với Phật nhưng Đức
Phật thường khuyên ngăn họ phải suy nghĩ kỹ lưỡng. Ngay cả khi trường
hợp họ quá xác quyết, đức Phật vẫn khuyên họ tiếp tục cung kính những
bậc thầy trước của họ. Đây là tính khoan dung thông cảm sâu xa của Đức
Phật.
Đoạn kinh nổi tiếng trong
bài kinh Kalama đã chứng minh sự kiện tự do lựa chọn này. Điều này tuyên
bố dứt khoát rằng không có điều gì được chấp nhận chỉ vì các duyên cớ
truyền thống hoặc uy quyền của bậc đạo sư, hoặc vì đó là quan điểm của
số đông, của người thông thái hoặc người khác. Mọi điều phải được cân
nhắc xem xét và đánh giá xem đúng hay sai. Nếu đã thấy rõ là sai thì họ
từ bỏ triệt để. Sự hoài nghi không được xem là một tội lỗi mà trái lại
còn được khuyến khích trong Phật giáo.
4. CHÁNH KIẾN VÀ
TÀ KIẾN
Phật giáo không có định
nghĩa đặc biệt cho hai thuật từ chánh kiến (sammaditthi) và tà kiến
(micchadithi). Hai từ này chỉ cho quan điểm đúng hay sai về bản chất của
các sự vật hiện tượng. Không có quan điểm nào được coi là quan trọng hơn
hoặc tối ưu hơn. Tự do tư tưởng là chân giá trị của con người. Ngay cả
giá trị của những lời do chính Đức Phật tuyên bố cũng có thể bị đặt
thành vấn đề. Đức Phật tuyên bố không có thẩm quyền trong giáo lý của
Ngài, ngoại trừ chính kinh nghiệm bản thân của Ngài. Quyền uy chỉ thực
sự là quyền uy khi chính chân lý sở hữu, chân lý tự xác nhận chân giá
trị của nó. Chân lý như vậy có năng lực lớn, năng lực thần thông
(saccakiriya), như trong các Truyện Bổn Sanh đã nói. Đây là một
phần di sản văn hóa của Phật giáo cống hiến cho nhân loại. Vì vậy, từ
"saddha" nên được dịch là tự tin, tin tưởng, tin chắc, hơn là ý nghĩa
trung thành, bởi vì trong khái niệm saddha không có ý nghĩa trung thành
nào cả.
5. HẠNH PHÚC CỦA
CHÚNG SANH
Phương thức sống do Đức
Phật chỉ dạy không mang ý nghĩa riêng biệt chỉ dành cho người sống đời
sống tu viện. Sự thật là khi người xuất gia tu tập tâm không chấp thủ
ngã pháp để đạt đến Niết-bàn thì dĩ nhiên họ sẽ chứng đạt nhanh hơn
người cư sĩ. Song hoàn toàn sai nếu nói rằng chỉ có người xuất gia mới
có thể giải thoát hoàn toàn, còn người cư sĩ tại gia thì không có thể
đạt được như vậy. Các pháp thoại của Đức Phật bao gồm phần lớn các chỉ
dẫn mà Đức Phật dạy cho các thầy Tỳ-kheo bởi vì chúng Tỳ-kheo là đối
tượng chính của Đức Phật. Nhưng cũng có vô số các pháp thoại khác dạy
cho giới cư sĩ. Đôi khi đối tượng nghe pháp chỉ là một người mà thôi
nhưng Đức Phật vẫn từ bi ban bố.
Pháp thoại của Đức Phật
được gọi là thiết lập quy tắc chân chánh. Ngài đã nâng cao khái niệm về
sự an lạc và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh, mà không có bất kỳ sự phân
biệt thiên vị nào cả. Tất cả "vì lòng thương tưởng đối với đời."
Như chúng ta biết, đó chính là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, ý
tưởng khái quát về điều thiện được đưa ra, đã làm xúc động không chỉ
những con người trên thế giới này mà còn chung cho tất cả chúng sanh ở
khắp vũ trụ. Điều đó cũng được mô tả như là một bài học mang đến kết quả
trong đời sống, không bị trì hoãn , có thể hiểu và áp dụng được ở mọi
lúc.
6. ĐẶC TÍNH CHUNG
CỦA NHÂN LOẠI
Đức Phật dạy các điều
thiết yế? không chỉ cho việc tu tập nội tâm của từng cá nhân vì hạnh
phúc của nhân loại mà còn cho sự cải thiện đời sống xã hội. Vì vậy, Ngài
thuyết giảng về đặc tánh chung nhất của nhân loại, bất kể màu da chủng
tộc hoặc các đặc tính sinh lý khác (ngay cả trong trường hợp của loài
vật) và tạo ra một cuộc cách mạng loại bỏ các hệ thống giai cấp mà đang
rất thịnh hành tại Ấn Độ thời bấy giờ. Để biểu lộ khái niệm đồng nhất
của nhân loại, Đức Phật đã khơi dậy mối đồng cảm không những của giai
cấp vua chúa, quý tộc, thương gia, mà còn với giai cấp cùng đinh, người
xin ăn, kẻ cướp và gái mãi dâm.
Đức Phật thiết lập tăng
đoàn cho mọi tầng lớp xã hội, bất kể nguồn gốc xuất thân của họ. Đức
Phật hoan nghênh mọi người gia nhập tăng đoàn. Ngài chăm sóc người bịnh
và kẻ nghèo túng, an ủi người bất hạnh và mang hạnh phúc đến cho người
khốn khổ. Người ta đã nói rằng bệnh viện đầu tiên trong lịch sử được
tổ chức dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Đức Phật. [Điều đó hoàn toàn
đúng]. Ngài không rời bỏ thế gian sau khi giác ngộ, sống 45 năm trong
cộng đồng và giúp đỡ mọi người không ngừng nghỉ.
7. DÂN CHỦ
Đức Phật đánh giá cao sự
tự do cá nhân, tự do tư tưởng và tự do bày tỏ ý kiến một cách dân chủ.
Phật giáo không mâu thuẫn với những gì đã phơi bày (giữa giáo lý và thực
hành). Tăng đoàn được xem là thể chế dân chủ xưa nhất trên thế giới và
đã được thành lập làm kiểu mẫu cho các tổ chức xã hội bao gồm các thể
chế chính trị. Xã hội lý tưởng mà Phật giáo đã vạch ra hoàn toàn dân
chủ, làm việc vì lợi ích tinh thần lẫn vật chất cho mọi người, bảo đảm
tự do cá nhân, tôn giáo, chính trị cũng như ổn định và phát triển kinh
tế.
8. LỢI NHUẬN KINH
TẾ
Kế hoạch lợi ích kinh tế
được nhấn mạnh rõ ràng như một phần trách nhiệm của những người lãnh đạo
quốc gia. Đức Phật nói rằng "khi mà lợi ích kinh tế được áp dụng thích
hợp thì dân chúng sẽ răm rắp tuân thủ và sẽ không còn lo lắng về mặt này
nữa, thu nhập quốc gia sẽ gia tăng, đất nước sẽ hoàn toàn thanh bình và
phồn thịnh. Mọi người chung hưởng hạnh phúc, ca múa với trẻ con, và khi
ngủ không cần phải đóng cửa."
Trong Mahavastu Đức
Phật dạy: "Thế gian dựa trên hai nền tảng: sự đạt được giàu có và giữ
gìn những gì đã đạt được. Vì vậy, để có được sự giàu có và để bảo tồn
những gì đã có, vị ấy phải nỗ lực kiên trì trong phạm vi chân chính."
9. LÀM CHỦ TÀI SẢN
Quyền sở hữu công cộng
được ban phát trong nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt trong các
nước có tự do dân chủ. Như chúng ta biết, đây là tính nhất quán đầu tiên
và xuyên suốt trong việc ứng dụng nguyên lý sở hữu công cộng trong một
cộng đồng hoặc xã hội cụ thể. Điều này trong luật tạng có đề cập và luật
tạng chỉ đạo tăng đoàn Phật giáo. Ở đó? các động sản và bất động sản có
giá trị đều được giữ gìn trong sự giao phó chung, quyền lợi chung mà
không có bất kỳ sự ép buộc nào. Đời sống trong tăng-già là đời sống đoàn
thể dựa trên nguyên lý đồng tự nguyện, tự giác.
10. PHẬT GIÁO VÀ
NHÂN LOẠI
Từ những gì đã nói ở trên
cho thấy rằng Phật giáo rất gần gũi với đời sống con người trên thế giới
này. Đạo Phật thật sự là tôn giáo của cuộc đời. Đức Phật mô tả lời dạy
của mình như là sanditthika nghĩa là chủ yếu liên quan với cuộc
đời và thế gian này. Ngay cả trạng thái hạnh phúc cao nhất là Niết-bàn,
cũng có thể thực hiện được chính ngay trong đời này. Điều này nhấn mạnh
vào sự cần thiết để biến đổi hiện tại trở nên tốt đẹp hơn. Quá khứ đã
qua, tương lai chưa đến, chỉ có hiện tại là hiện hữu. Hiện tại và tương
lai sắp đến đều chỉ tùy thuộc hoàn toàn vào giây phút này của chúng ta.
Phật giáo không coi thế
gian này như một nhà tù mà trong đó con người phải tìm cách thoát ra để
lên cõi trời. Tốt hơn hết là nên xây thiên đàng ở trên mặt đất. Người
Phật tử không phải là một nhà duy vật, cũng không coi thường những tiến
bộ của văn minh vật chất. Vấn đề của người Phật tử không phải là việc
chọn lựa giữa những ý thức và tinh thần mà là việc làm chủ tinh thần. Lý
tưởng Phật giáo nhằm thiết lập sự thăng bằng giữa trong và ngoài, giữa
bên ngoài thiên nhiên, thế giới xung quanh, và tiến trình tâm linh ngang
qua việc chế ngự lòng ích kỷ-tự ngã. Đối với vị ấy, đời sống là một cuộc
phiêu lưu lớn, một cuộc mạo hiểm và một cuộc dạo chơi. Vấn đề chính yếu
là làm thế nào để biến cái thú vị lớn lao nhất của cuộc dạo chơi đó
thành hạnh phúc hay dẫn đến hạnh phúc tối hậu.
11. HOÀN THIỆN
Lý tưởng Phật giáo là lý
tưởng của A-la-hán, nghĩa là sự hoàn thiện. Để đạt đến lý tưởng này, tất
cả các yếu tố ngăn cản lợi ích đó phải được gỡ bỏ, không chỉ chính mình
mà còn cho tất cả chúng hữu tình. Người Phật tử không thể tìm cầu lợi
ích cá nhân, bất chấp đến lợi ích của những người khác. Lợi ích bản thân
có liên hệ mật thiết với lợi ích thế nhân. Từ đó Đức Phật đã dạy rằng:
người tốt phải là sabba-panabh‰ tahitanukampi, nghĩa là liên quan
mật thiết với các hoạt động tích cực vì an lạc hạnh phúc không chỉ cho
loài người mà còn cho tất cả chúng hữu tình.
Bất cứ ở đâu Phật giáo
cũng tìm thấy hướng đi cho mình, luôn đặt trọng tâm vào hướng phát triển
văn hóa, văn minh bằng các đức tánh tốt như lòng bao dung, nhân ái, cảm
thông và hiểu biết. Hai đức tính song đôi bi (karuna) và trí (panna)
đã hình thành nên hai nguyên tắc chủ đạo của triết lý Phật giáo.
12. THẾ GIỚI HIỆN
ĐẠI
Nét đặc trưng của thế giới
hiện đại là sự tăng tốc và độ lớn của tiến trình thay đổi. Ngày nay
chúng ta chứng kiến những thay đổi kinh ngạc trong cuộc cách mạng hoàn
toàn của tất cả những thể chế nhân sự thuộc mọi lãnh vực hoạt động của
con người. Sự toàn cầu hóa đang phát triển nhanh đến chóng mặt.
Những thuận lợi này đã
mang đến sự giải phóng cho con người trong nhiều phương diện. Chúng đã
tạo cho chúng ta lợi ích trí thức và xã hội to lớn và từ các phương tiện
đó con người xóa trừ được nạn nghèo đói, mù chữ... Các xã hội liên kết
chặt chẻ với nhau hơn trước và tạo mối tương quan nhiều hơn cho nhu cầu
đòi hỏi của con người...
Trong mọi trường hợp chúng
ta không thể ngăn chặn nổi sự phát triển của thế giới. Nó sẽ luôn luôn
thay đổi. Đức Phật nói vì sự thay đổi là yếu tố căn bản của cuộc sống.
Không có cuộc cách mạng nào có thể dập tắt chính sự thay đổi này. Thay
đổi là một nét đẹp thẩm mỹ vì nếu không có sự chuyển đổi liên tục thì
cuộc cách mạng hôm qua sẽ trở thành quy ước của ngày nay, và quy ước
ngày nay sẽ trở thành chuyên chế của ngày mai.
Toàn bộ sự tồn tại của con
người gắn chặt với sự thay đổi. Đây là nơi con người hiện đại phải tìm
đến Phật giáo. Đó là việc thích đáng nhất trong thời đại này. Phật giáo
chấp nhận sự thay đổi. Thật ra điều này được xây dựng trên chân lý về sự
vận động thay đổi liên tục. Chúng ta phải biết để vượt qua các dòng sông
đang chảy. Chúng ta phải trau dồi phẩm chất của sự thích nghi, khả năng
thích ứng và uyển chuyển. Một sát-na mà chúng ta đi đến kết luận cứng
nhắc và phủ nhận các quan điểm khác là một sát-na chúng ta đã ngăn chặn
sự thông minh của mình. Quan điểm của chúng ta sẽ trở nên chấp chặt
trong giáo điều; và giáo điều làm cho ta ngoan cố bướng bỉnh. Rồi thách
thức mới sẽ kêu gọi các đáp ứng mới, cho nên nếu mỗi cá nhân khéo léo
uyển chuyển trong các giáo điều của mình thì toàn bộ cộng đồng sẽ trở
thành một xã hội mở mang và làm cho đời sống tốt đẹp hơn.
13. CÁC VẤN ĐỀ NHÂN LOẠI ĐANG ĐỐI MẶT
Các vấn đề mà nhân loại
đang đối mặt thì rất nhiều như: lương thực, kinh doanh, lao động, tiền
lương, thất nghiệp, cơ hội không đồng đều, khoảng trống giữa có và không
có … Chúng dường như rất phức tạp như chúng thực sự đang phức tạp nhưng
khát vọng của người bình thường thật ra chỉ là một điều giản dị. Vị ấy
chỉ ứơc ao được sống trong an bình và hạnh phúc trong sự tự do kiến tạo
một thế giới nhỏ bé của riêng mình và trong khả năng của mình.
Vị ấy cũng cần tình bằng
hữu, yêu thương và hiểu biết; và điều gì đó mang đến hy vọng cho chính
họ và con cái của họ, cho cả đời sống này và đời sống kế tiếp. Trong
nhiều quốc gia trên thế giới ngay cả những nhu cầu căn bản này cũng chưa
có thì làm sao có đến những nhu cầu khác. Khắp nơi đầy dẫy sự bất công
và nguy hiểm. Sự không bảo đảm và an toàn đã trở thành tai họa cực kỳ
phổ biến cả trong giới giàu sang và nghèo hèn, thỉnh thoảng phát sinh sự
lãnh đạm thờ ơ, lo âu căng thẳng và quay cuồng. Khoa học đã thất vọng để
tìm ra bí quyết của hạnh phúc. "Sự chinh phục thiên nhiên" đã không
thành công trong việc đem đến thịnh vượng hay hòa bình. Điều này không
ngạc nhiên đối với chúng ta, bởi vì Đức Phật đã từng dạy rằng hạnh phúc
được tìm thấy trong đời sống hòa hợp với "các pháp" nghĩa là với thiên
nhiên, với vẻ đẹp và với sự cao quý của nó. Thế nhưng toàn thể nhân loại
ngày nay thì bất hạnh và khốn khổ.
Tình trạng này ngày càng
trở nên càng phức tạp hơn và hầu như không có giải pháp. Nhưng nếu chúng
ta xem xét vấn đề một cách cẩn thận kỹ lưỡng, với kiến thức và hiểu
biết, chúng ta sẽ nhận thức rằng các rắc rối hiện đại này, trên căn bản,
không khác với những rắc rối triền miên (sanh, lão, bịnh, tử) đã làm khổ
sở con người ở mọi thời và mọi nơi. So với những rắc rối của người xưa
thì những rắc rối hiệ? đại của chúng ta thật sự gia tăng về số lượng và
phạm vi hơn.
Như chúng ta đã biết Đức
Phật dạy không có điều gì xảy ra mà không có nguyên nhân. Một khi nguyên
nhân đã được nghiên cứu và nhận dạng, thì các giải pháp có thể được tìm
thấy. Người ta thường cho rằng những lời dạy của bậc thánh xưa như Đức
Phật thì quá đơn giản không thể đủ hiệu quả giúp chúng ta giải quyết
những vấn đề cực kỳ rắc rối mà ảnh hưởng cá nhân và xã hội đương thời.
Thật ra thông điệp của Đức Phật giảng về các tình huống cơ bản của con
người và điều này khiến cho thông điệp của Đức Phật rất hợp thời và bất
diệt. Đây là kim chỉ nam cho mọi hành động của ba nghiệp thân khẩu ý.
Mỗi thế hệ kế tiếp có thể và phải phát hiện lại sự thích hợp của thông
tin để giải quyết các vấn đề của chính thời đại mình.
14. HẠNH PHÚC TỐI
THƯỢNG
Đức Phật dạy rằng hạnh
phúc tối thượng là an lạc, và không thể có hạnh phúc chân thật nếu không
có an lạc. Thế gian đang điên cuồng với sợ hãi và đe dọa của chiến
tranh. Nhiều quốc gia bị lôi cuốn vào chiến tranh đã trở thành những kho
vũ khí kinh khủng, để duy trì sự thương mại và lợi nhuận từ việc mua bán
sự chết chóc và diệt chủng. Do ý thức hệ đối lập, không chỉ binh sĩ mà
còn hàng ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ con vô tội đã bị thảm sát và thiệt
hại về nhân mạng, vật chất và tinh thần không thể tính được. Không có
điều gì có thể tránh khỏi sự điên cuồng kinh khiếp của chiến tranh và
rồi cuối cùng sẽ là gì? Đức Phật dạy rằng: "Sân hận không bao giờ được
dập tắt bởi sân hận, mà chỉ bởi lòng từ bi mà thôi." Hơn nữa, "Chiến
thắng phát sanh hận thù, vì xâm lăng mang đến đau khổ." Trong nhiều quốc
gia khác trên thế giới hiện nay, mây đen chiến tranh bao phủ gần kề.
Không gian tràn đầy bạo lực của thân khẩu ý.
Đây là công việc của tôn
giáo – tất cả tôn giáo. Chỉ có tôn giáo mới có tác động thiết thực làm
thay đổi lòng người. Tôn giáo không phải là hình thức tín ngưỡng và
những bài giảng pháp suông mà đời sống thánh thiện và định tĩnh nội tâm
bên trong đều là kết quả từ tâm buông xả hoàn toàn. Chính điều này mới
có tác động chính đến lòng người.
15. NGUỒN GỐC CỦA
CHIẾN TRANH
Đức Phật dạy rằng cách duy
nhất để đạt an lạc là loại trừ nguồn gốc chiến tranh – tham, sân, si.
Ngày nay thế giới đã phân chia con người thành những ý thức hệ khác
nhau, với khối ý thức hệ của mình thì người ta đã cống hiến tất cả tâm
và lực vào việc mua bán thô bạo, độc ác, tiêu cực chết chóc của chiến
tranh. Thế giới sẽ có hòa bình nếu các dân tộc và quốc gia từ bỏ lòng
tham ích kỷ, từ bỏ tính kiêu ngạo về chủng tộc và làm trong sạch tâm
tham muốn về quyền sở hữu và sức mạnh. Sự phân chia ý thức hệ thường gây
ra mâu thuẫn. Ý?thức hệ có nhiều hình thức khác nhau – chính trị, kinh
tế, tôn giáo, xã hội và giáo dục. Ý thức hệ trốn tránh thực tại. Nó
khiến con người hung ác và nó cột chặt con người vào sự nô lệ trong điên
cuồng và bạo động.
Sự mâu thuẫn ý thức hệ
được sanh ra trong tâm con người là kết qủa của sự căng thẳng và chiến
tranh. Nếu các xung đột này được loại bỏ thì nhân loại có thể tràn đầy
tư tưởng hòa hợp và hòa bình. Đức Phật tuyên bố rằng tâm là cội nguồn,
là yếu tố chủ đạo tất cả, thiện hoặc ác. Khi tâm được thanh lọc các điều
xấu, an lạc hạnh phúc sẽ ngự trị khắp nơi.
Tôn giáo, nếu là tôn giáo
thực sự, sẽ lấy toàn bộ con người làm trung tâm chứ không chỉ ở một vài
khía cạnh nào đó của đời sống. Một con người tốt nghĩa là một người có
tôn giáo, biết rằng sẽ không có hạnh phúc, hòa bình trên trái đất sự
nghèo đói, bất công, đàn áp, luật pháp không minh bạch, sự phân biệt
chủng tộc, sự bất lực của xã hội, nỗi sợ đang gặm nhắm, sự nghi ngờ lẫn
nhau đang còn ngự trị tồn tại. Lòng tự trọng rất cần thiết cho hạnh phúc
cũng giống như thức ăn, bởi lẽ không có lòng tự trọng thì không có cơ
hội để đạt tới sự phát triển hoàn thiện của nhân cách.
16. VẤN ĐỀ CỦA THẾ GIỚI
Những vấn đề đối mặt nhân
loại hôm nay và đe dọa cơ cấu con người là những vấn đề toàn cầu. Vấn đề
này không cô lập riêng biệ? ở vùng, miền nào mà là chung của toàn thế
giới. Vì vậy giải pháp phải tìm kiếm phải hướng đến phạm vi thế giới.
Điều này bao gồm các khái niệm mới về chúng ta- mối quan hệ thuộc con
người, không những chỉ có trong gia đình, nhà, làng, thành phố, quốc gia
mà là rộng ra trong bối cảnh của toàn thế giới. Cần giáo dục nam nữ về
các vấn đề xấu xa của chủ nghĩa hẹp hòi, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,
màu da và tín ngưỡng. Tính không bao dung, kiêu ngạo và sự cố chấp mù
quáng chỉ nhằm để chống đối, dèm pha các dân tộc, các văn hóa, tôn giáo
và các cách sống khác với mình. Những điều này phải được loại bỏ nếu
chúng ta mong muốn hòa bình chung cho toàn thế giới.
17. QUÁ KHỨ XẤU XA
Trong nhiều phương diện,
phải thừa nhận rằng tôn giáo có những quá khứ tội lỗi mà cần phải được
chuộc tội. Sự thuyết giảng của tôn giáo thường trình bày các tình trạng
khẩn cấp của chính trị quốc gia và địa phương cũng như những kế hoạch
bất chính cho sự bành trướng và xâm lược. Trong thời đại trước đây, phần
lớn nội chiến cũng là chiến tranh tôn giáo (thánh chiến). Tôn giáo cũng
thường xuyên tự giấu nhẹm nó với các chi tiết của giáo điều và nghi lễ,
các vấn đề về tổ chức giáo hội và tính hoàn hảo của các thánh kinh và
tăng lữ. Chính tính hẹp hòi này đã làm giảm đi số lượng của tăng lữ, đền
thờ và đang trông chờ các đầu tư để thành lập lại.
18. THẾ TỤC HÓA
Con người hiện đại có
quyền yêu cầu những gì tôn giáo có thể giúp đỡ nhân loại trong thời đại
này. Họ đã khẳng định rằng tôn giáo nào phục vụ cho mục đích riêng thì
hãy để tôn giáo đó chết. Đây là nguyên nhân chính cho sự thế tục hóa mà
tôn giáo ở khắp mọi nơi phải đối mặt. Vì những vấn đề này nảy sinh từ sự
thế tục thì ít nhiều sẽ phổ biến tới toàn thể tôn giáo trên thế giới
Tuy nhiên việc đáng quan
tâm là những vấn đề có liên quan tới giới trẻ trên thế giới đang có
nhiều mối nghi ngờ về các thế?hệ cha anh và những nhà lãnh đạo của các
tôn giáo. Mối hoài nghi này đặt trọng tâm chính yếu xung quanh các bạo
lực phổ biến trong nhiều hoạt động của giới trẻ và sự kiện thanh niên
với thiếu nữ dùng chất kích thích và ma túy. Cả hai yếu tố này dường như
là triệu chứng của căn bịnh trầm kha. Cũng giống như tất cả các bịnh
khác phải là kết quả của những nguyên nhân nào. Chúng ta phải tìm ra cho
được nguyên nhân này khi trước khi chúng ta nghĩ cách điều trị thế nào.
19. GIAI TẦNG VĂN HÓA
Hầu hết các quốc gia trong
thế giới hiện đại dường như có ba giai tầng văn hóa rõ ràng:
(i) Văn hóa truyền thống
trong quan điểm bảo tồn đạo đức mà cũng được gọi là nền văn hóa tiêu
chuẩn cố gắng để duy trì các giá trị cổ xưa đã được trắc nghiệm bằng
thực tế.
(ii) Văn hóa hiện đại
trong quan điểm tự do, xã hội kỹ thuật hiện đại phát triển, văn hóa này
cố gắng thích nghi với những thay đổi đang xảy ra quanh nó với tốc độ
nhanh khủng khiếp.
(iii) Tạm gọi là văn hóa
đối lập, đại diện cho tâm tưởng của một số thanh niên hip-pi tóc dài bù
sù đang đặt vấn đề về lòng tin và giá trị, với thiên hướng thích nhạc
Rock, quan hệ tình dục tự do, đắm mình trong ma túy, trở lại kiểu sống
cộng đồng bộ lạc, sống với tự nhiên mà chúng gọi là "vẻ đẹp tuyệt đối."
Nhóm văn hóa đối lập này
nói chung bị hai nhóm văn hóa trên kinh sợ và ghê tởm. Tuy nhiên, có
những người sau khi đã nghiên cứu tỉ mỉ về nhóm văn hóa đối lập này, vẫn
cho rằng quan niệm phổ biến ưa thích này là sai lầm, thiển cận và hành
vi phi chính thống của chúng chỉ là một phương tiện phản đối mà hoàn
toàn do định kiến và sự tự hưởng thụ thúc đẩy.
Vì vậy như những gì đã
được trình bày ở trên, cái gì nên được coi là quan điểm tôn giáo đối với
con người ở thời hiện đại? Ai là người được tìm thấy ở mọi nơi trong
phạm vi lớn hoặc nhỏ? Chắc chắn rằng, đó phải là thái độ bao dung và
thông cảm, nhưng trên hết có lẽ là thái độ hiểu biết, uyển chuyển và
thích nghi.
Chúng ta nên nhớ rằng một
số nhà lãnh đạo tôn giáo đã có cuộc cải tổ nội bộ. Chẳng hạn Đức Phật là
một trong những nhà đại cách mạng trong lịch sử nhân loại. Ngài đã phủ
nhận mọi sự nhân danh mà cac?tôn giáo dựa vào và đã đề ra một định hướng
tôn giáo hoàn toàn mới. Ngài đã phủ nhận tính thẩm quyền của các kinh
Vệ-đà và quyền năng của giáo hội Ấn Giáo. Ngài đã bác bỏ ảo tưởng cho
rằng các vấn đề nhân loại có thể được giải quyết bởi việc tế lễ và bùa
chú. Ngài là kẻ thù của hệ thống giai cấp mà trên đó toàn bộ cấu trúc xã
hội Ấn Độ dựa vào. Ngài bị bôi nhọ, khủng bố. Mọi thứ đều nhắm vào Ngài,
bởi vì ngài đã đứng trên lẽ phải, công bằng mà cải tổ cách mạng tại toàn
bộ hệ thống phân chia giai cấp đó.
20. CÁC ĐẶC TÍNH NỔI
BẬT
Suốt 2500 năm lịch sử,
Phật giáo đã liên tục đối mặt với nhiều thách thức. Tính uyển chuyển và
bao dung là một trong những đặc tính nổi bật của Phật giáo. Phật giáo
không có phân chia giai cấp và giáo điều khắc khe. Các nền văn hóa và
văn minh đã chứng minh ảnh hưởng tính nhân bản của Phật giáo đối với
nhân loại và Phật giáo ngày càng phát triển trên thế giới. Thông điệp
Phật giáo cho con người hiện đại vẫn còn hiệu nghiệm như lúc Đức Phật
còn tại thế. Phật giáo không có hứa hẹn rằng có thể làm giảm hết bịnh
khổ của nhân sinh trong những phương cách nền tảng nào đó với các tổ
chức xã hội rộng lớn. Trong sự phủ nhận bất kỳ tội lỗi vốn có của con
người, Phật giáo tuyên bố rằng sự giải thoát là công việc cá nhân và chỉ
có thể đạt được do đức hạnh và sự tu dưỡng tâm linh. Toàn bộ lời dạy của
Đức Phật đã được Ngài tóm tắt như sau:
"Tránh làm các điều ác,
Vâng giữ các điều lành,
Làm thanh tịnh tâm ý,
Đây là
lời Phật dạy."
21. CHỦ NGHĨA
THỰC DÂN
Suốt 4 và 5 thế kỷ vừa
qua, Phật giáo ở các nước thuộc địa châu Á đã bị khổ đau bởi các cuộc
chiến tranh cả trong lẫn ngoài và bởi những người đi theo tôn giáo khác
tìm cách phá hoại Phật giáo. Tăng đoàn Phật giáo đã cố gắng giữ sự sống
còn của giáo lý và đã được sự ủng hộ của những người có quyền thế thì
nay đã bị yếu kém và rối loạn như là kết quả của những thế lực đàn áp
Phật giáo.
Nhưng nhìn chung tình hình
Phật giáo ngày một sáng sủa hơn. Cộng đồng Phật giáo đã thành lập những
tổ chức như: Hội Hữu Nghị Phật Giáo Thế Giới (WFB), Hội Đồng
Tăng Già Thế Giới (WSC), đã kết hợp đại thừa và nguyên thủy Phật
giáo để cùng chung một chương trình hành động. Vấn đề lớn của nạn thất
học và nghèo đói trong quần chúng Phật giáo cũng được vượt qua phần nào.
Tăng đoàn cũng được giáo dục để tiếp thu những nhu cầu hiện đại. Phật
giáo không bao giờ là một tôn giáo thụ động và cứng nhắc mà Phật giáo là
một trong những năng lực văn hóa vĩ đại nhất của thế giới.
***
[Dịch từ nguyên tác
tiếng Anh "Buddhism and Problems of the Modern Age", của giáo
sự tiến sĩ G.P.Malalasekera đăng trong tuyển tập Gems of Buddhist
Wisdom (Những Viên Ngọc Trí Tuệ của Phật Giáo), do CBBEF
xuất bản tại Đài Loan, năm 1997, trang 69-88].
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|
|