|
. |
Tuyển tập
Phật Thành Đạo
Nhiều tác giả
---
o0o ---
Phần I
Bản chất và con đường Giác Ngộ
--- o0o ---
KHÁI NIỆM GIÁC NGỘ TRONG ĐẠO PHẬT
S. K. Nanayakkara
Thích Nữ Liên Hòa dịch
Đức Phật là
vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục đích giải thoát,
trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài, do vậy
những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức
Phật (buddh nubuddh).
Thuật ngữ "Bodhi"
bắt nguồn từ ngữ căn "budh" (thức tĩnh)1 hàm nghĩa là trí tuệ (–
?a), giác ngộ hay trí tuệ mà Đấng Giác Ngộ, (Đức Phật) đạt được.2
Thông thường, Bồ-đề bao gồm bảy pháp tu tập đưa đến Giác ngộ (P li,
Bojhaơ ga; Skt. Bodhyaơ ga, Thất Giác chi) và sự chứng đắc
giác ngộ thông qua các nguyên lý dẫn đến sự chín muồi của tỉnh thức. (P
li, bodhipakkhik -dhamm hoặc bodhi-p can -dhamm ;
Skt. bodhi-pak?y -dharma). Bên cạnh đó, trong ý nghĩa đặc biệt
của giác ngộ, thuật ngữ "Bồ-đề" (Bodhi) còn được dùng để nói đến sự giác
ngộ của chư Độc Giác Phật.3
Đôi khi, thuật ngữ sambodhi (sự giác ngộ viên mãn) cũng
được dùng diễn đạt sự giác ngộ của Đức Phật, chư Độc Giác Phật, và các
vị A-la-hán.4
Tuy nhiên, trong trường hợp để phân biệt sự giác ngộ của chư Phật Độc
Giác và các vị A-la-hán, thuật ngữ abhisambodhi (Vô thượng đẳng
giác) và samma-sambodhi (chánh đẳng giác) được dành chỉ riêng cho
giác ngộ của Đức Phật.
Tam tạng Nik ya
cũng như văn học sớ giải đã nỗ lực giải thích ý nghĩa chuẩn xác thuật
ngữ bồ-đề (bodhi). Vì thế, theo Saị yutta-Nik ya,5 bồ-đề chính là
đạt được trí tuệ về Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu (Tứ Thánh Đế). Mặt khác,
giác ngộ là con đường6
(có nghĩa là Tám Con Đường Chân Chánh). Giác ngộ được giải thích như là sự
thấu suốt bốn điều chân thật cao quý, đó là Bốn Điều Chân Thật Vi Diệu.7
Chứng đạt giác
ngộ là thể nghiệm cá nhân và vì vậy chỉ có người đạt ngộ mới thấu triệt
bản chất và ý nghĩa của giác ngộ. Lại nữa, nhiều đoạn trong Nik ya đã
lý giải sự chứng quả giác ngộ của Đức Phật cũng như nội dung của chứng
ngộ.8
Có hai vấn đề
được đưa ra: Thứ nhất, giác ngộ được mô tả một cách bình dị chính nhờ
vào công phu thiền định đã mang lại ánh sáng chân lý sau thời gian dài
chịu thử thách và lạc lối. Thứ hai là cách trình bày sinh động về cuộc
ác chiến quyết liệt giữa Bồ-tát với Ma vương, cuối cùng Bồ-tát đã chiến
thắng Ma vương và chứng quả Chánh Đẳng Giác.9
Hai cách diễn đạt
này cho thấy rõ: cách thứ nhất diễn đạt là lúc ban đầu và cách diễn đạt
thứ hai là thần thoại hoá sau này, có lẽ cách diễn đạt sau này để cố
gắng trình bày tượng trưng cuộc chiến đấu nội tâm của Bồ-tát ngay trước
giờ phút thành Chánh Giác.
Những cứ liệu văn
bản sớm nhất cho rằng thái tử Sĩ-đạt-ta (Siddhattha Gotama) thoát ly đời
sống gia đình với mục đích duy nhất là chấm dứt hiện hữu luân hồi vốn
chứa đầy đau khổ.10
Trải qua thời gian khá dài trong thử thách và đi sai đường, cuối cùng Ngài
liễu tri trọn vẹn nguyên nhân của tất cả đau khổ trong đời và thấy rõ
con đường đưa đến chấm dứt mọi đau khổ ấy. Chính sự nhận thức thấu đáo
này được gọi là giác ngộ.11
Từ các cứ liệu
kinh điển nguyên thuỷ, chúng ta hoàn toàn thấy rõ Đức Phật đạt đến đỉnh
cao nhất của trí tuệ chính là do đoạn trừ mọi lậu hoặc (
savakkhaya-– ?a).12
Hai loại tuệ giác khác đó là tuệ giác biết được nhiều kiếp trước của
mình và chúng sanh (P li, pubbeniv s nussati-– ?a; Hán-việt
dịch là túc mạng minh) và tuệ giác biết được hiện tượng sanh và
diệt của chúng sanh (P li, dibbacakkhu-– ?a; Hán-việt dịch là
thiên nhãn minh) là những bước chứng ngộ đầu tiên. Trong nhiều kinh
điển, giây phút chứng ngộ này được minh hoạ như đoạn văn dưới đây: " Với
tâm định tĩnh ta hướng tâm đến trí tuệ đoạn trừ mọi lậu hoặc ( sav
naị khaya– ? ya cittaị abhinin mesiị ).
Ta nhận chân: đây là khổ (dukkha), đây là nguyên nhân của khổ, đây
là sự đoạn diệt khổ, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt khổ. Ta nhận
chân: Đây là lậu hoặc..., đây là tiến trình đưa đến sự đoạn diệt các lậu
hoặc. Biết như vậy, thấy như vậy, tâm ta thoát khỏi mọi lậu hoặc của dục
ái (k masava), hữu ái (bhav sava) và vô minh ái (avijj
sava). Khi tâm được giải thoát, ta biết rằng ta được giải thoát, và
nhận thức: sanh đã tận (kh? ? j ti), phạm hạnh đã thành
(vusitaị bramacariyam), việc nên làm đã làm (kataị kara? ? yaị ),
không còn trở lại đời sống nầy nữa"(n paraị itthatt ya).13
Sau khi tâm giải thoát khỏi vô minh, nguồn gốc của tất cả khổ và tái sanh,
tuệ giác đoạn trừ các lậu hoặc trở nên viên mãn. Kể từ khi Bồ-tát Gotama
chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài được tôn xưng danh hiệu là Bậc
Giác Ngộ, Đức Phật.
Kinh điển Nguyên
Thủy không quan niệm rằng thuật ngữ bồ-đề (bodhi) chỉ dành riêng
cho Đức Phật. Tất cả những vị đã vượt ra ngoài cơn lốc xoáy của sanh tử,
đạt được lậu tận trí ( savakkhaya-– ?a) đều được gọi là Bậc
Giác Ngộ và cũng còn chỉ cho những vị đã đoạn trừ được các lậu hoặc
(kh? ? sava) hay còn gọi là những vị A-la-hán. Đức Phật đạt đến cực
điểm của tiến bộ tâm linh ngang qua chứng ngộ quả vị A-la-hán. Ngài là
vị A-la-hán đầu tiên và cũng được xem như những vị A-la-hán khác.14 Chứng quả giác ngộ trước những vị khác,
Ngài đi tìm lại con đường mà nó đã mất dấu quá lâu trên cõi đời.15
Vì vậy, Ngài là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục
đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của
Ngài, do đó những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác
ngộ của đức Phật (buddh nubuddh ).16
Từ thời xa xưa đã
có những nỗ lực phân biệt sự giác ngộ của Đức Phật khác với sự giác ngộ
của chúng đệ tử của Ngài. Có lẽ vì mục tiêu này mà sự giác ngộ của Đức
Phật đã được xem là sự giác ngộ viên mãn nhất (anuttara-samm
-sambodhi). Cùng với việc mở rộng khái niệm "Đức Phật," nội dung
giác ngộ của Đức Phật cũng trải qua nhiều thay đổi. Vì vậy người ta cho
rằng mặc dù Đức Phật và chư vị A-la-hán đều chứng đạt tam minh (tisso
vij ) nhưng tam minh của Đức Phật vẫn khác với chư vị A-la-hán. Tuệ
giác của Đức Phật được cho là do thành tựu từ nhiều phương diện. Ngài đã
đạt được lục thông (cha?abhi– – ), thập lực (dasabala),
tứ vô sở uý (catu-ves rajja), v.v... . Ngài đã thuần thục các
pháp đưa đến giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Sau càng về sau
Ngài được tôn là Đấng Toàn Trí (sabba– – u). Tất cả những đặc
điểm biểu trưng này được xem như phần nào về sự giác ngộ của Đức Phật.17
Chính vì nội dung
của giác ngộ thay đổi làm cho quan niệm về con đường đưa đến giác ngộ
dường như cũng có một vài biến đổi. Các cứ liệu kinh điển Nguyên Thủy mô
tả về sự chứng ngộ quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Đức Phật, sau
khi từ bỏ hai cực đoan là tham đắm ngũ dục lạc (k masukhallik
nuyoga) và khổ hạnh ép xác (attakilamth nuyoga), Ngài đi
theo con đường trung đạo (majjhim paỉ ipad
), tu tập giới (s? la), định (sam dhi) và tuệ (pa– –
); chính con đường Trung đạo này đã đưa Ngài đến giác ngộ. Cũng có
một số cứ liệu kinh điển trình bày nhiều phương tiện chứng đạt giác ngộ
theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn trong Samyutta Nik ya,18
có đoạn viết: chính do sự tu tập đạt được bốn thần thông (iddhi-p da),
Đức Như Lai được tôn xưng là một vị A-la-hán, một vị giác ngộ?viên mãn.
Ở một đoạn khác trong kinh Tương ưng, tu tập bảy pháp giác ngộ được xem
là nhân, là duyên đưa đến quả Giác Ngộ.19
Những bản kinh sớm hơn không đề cập lại các pháp tu tập căn bản hướng
đến Giác ngộ (bodhi-pakkhik -dhamm ). Về sau, số lượng các pháp
tu tập then chốt này được tăng lên ba mươi bảy hoặc bốn mươi ba. Cho đến
sau này, cùng với đà phát triển của trường phái Đại thừa, lục ba-la-mật
(p ramita) và thập địa (Bh‰ mi) cũng được xem là những
nhân tố thiết yếu đưa đến quả giác ngộ.20
Chứng đạt giác
ngộ cũng đồng với chứng đạt Niết-bàn. Đây là mục đích mà tất cả những vị
đoạn trừ hết thảy mọi lậu hoặc ( sava) dù là Chư Phật, chư Phật
Độc Giác, hay các bậc giác ngộ sau giác ngộ của Đức Phật. Phật giáo
Nguyên Thủy (Therav da) không buộc chúng ta trở thành Phật để
chứng đạt Niết bàn nhưng chủ yếu chủ trương đoạn trừ các lậu hoặc để đạt
Niết-bàn. Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng có ba bậc giác ngộ: Chư Phật,
Độc Giác Phật, các vị giác ngộ sau Đức Phật hay còn là chư vị A-la-hán.
Nhưng lý tưởng này không được xem như như ba lý tưởng khác nhau mà những
vị theo Thượng Toạ Bộ theo đuổi như là sự lựa chọn của mình. Tuy nhiên,
sau này cùng với trào lưu phát triển của Phật giáo Đại Thừa và khái niệm
Bồ-tát, các quả vị này được tuyên bố dứt khoát là ba giai đoạn tu tập
tâm linh khác nhau đưa đến ba bậc giác ngộ khác nhau là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác (anutara-samyaksambodhi), Duyên Giác
(pratyekabuddha-bodhi), và Thanh Văn Giác (? r vaka-y na)
để đối lại với ba quả vị giác ngộ này, Tam thừa đã được thành lập, đó là
Bồ-tát thừa (bodhi-satva-y na),21
Duyên Giác thừa (pratyekabuddha-y na) và Thanh Văn thừa (? r
vaka-y na). Hai thừa sau được xem như thấp hơn nhiều so với Bồ-tát
thừa.
Khi Phật giáo,
đặc biệt là Phật giáo Đại Thừa truyền bá rộng rãi đến nhiều nước khác,
các quan điểm và giáo lý đã bị thay đổi nhiều để phù hợp với niềm tin và
quan niệm riêng biệt của mỗi nước. Kết quả là nội dung và bản chất của
giác ngộ cũng thay đổi ở mức độ nào đó. Các trường phái Phật giáo ở
Trung Quốc và Nhật Bản đã trình bày thêm nhiều quan niệm khác liên quan
đến bản chất giác ngộ và con đường đạt đến giác ngộ. Ví dụ, một mặt,
Phật giáo Thiền dạy rằng giác ngộ đạt được nhờ sự tuệ tri về bản chất
của hành giả (kiến tánh thành Phật). Mặt khác Phật giáo Tịnh Độ cho rằng
đạt được giác ngộ thông qua sự tế độ của Đức Phật A-di-đà. Phật giáo
Thiên Thai kể ra năm mươi hai giai đoạn hành giả phải vượt qua trước khi
đạt giác ngộ viên mãn. Một số trường phái cho rằng chứng đạt giác ngộ
phải tu tập từng bước (tiệm ngộ), trong khi đó một số trường phái khác
lại cho rằng chứng đạt giác ngộ là sự trực ngộ nhanh chóng (đốn ngộ).
Chính sự khác nhau này đưa đến việc hình thành hai trường phái thiền
Phật giáo riêng biệt.
***
[Dịch từ
nguyên tác tiếng Anh "Bodhi" trong Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo
(Encyclopaedia of Buddhism), tập III, do giáo sư G.P. Malalasekera
làm tổng biên tập. Ceylon: The Government Press, 1971, trang
178-180]
Chú thích:
1.
Bodhin- manas: Rg – veda, v. 75. 1. viii, 82, 18.
2. Trong ngữ cảnh này ‘trí tuệ’ có nghĩa là
thấy rõ được bản chất thật của các pháp (yath bh‰ ta– ?a).
3. Xem thêm các thuật ngữ pacceka – bodhi
(J. III, tr. 348; trong SnA. tr. 73 dùng để phân biệt với
thuật ngữ samm - sambodhi) và pacceka – bodhi - – ?a (J.
IV, tr. 114). Điều đáng lưu ý là thuật ngữ s vaka – bodhi
không thấy xuất hiện trong kinh điển P li và văn học sớ giải mặc dù thuật
ngữ Sanskrit tương đương là ? ravaka – bodhi
được dùng phổ thông trong các bản văn Sanskrit Phật giáo. Ghi chú trong
DA. I, tr. 100 có liệt kê ba cấp độ trí tuệ: Trí tuệ Thanh văn (s
vaka-p ram? -– ?a), Trí tuệ Độc Giác Phật (pacceka-buddha-–
?a), Trí tuệ của Phật (sabba– – uta-– ?a). Đôi khi, thuật
ngữ bodhi cũng được dùng để chỉ cho trí tuệ cao tột của người tu
khổ hạnh (ví dụ như trong J. V, tr. 229-230).
4. Rhys Davids cho rằng thuật ngữ này tuyệt
nhiên không có nghĩa là trí tuệ của Đức Phật mà nó luôn luôn chỉ cho tuệ
quán ở trạng thái cao hơn bậc Arahant (Dialogues, I, tr. 190
vctkt). Tuy nhiên, quan điểm của ông không chấp nhận cách giải thích các
dữ kiện liên quan đến nguyên bản (xem thêm S. I, tr. 181; M.
I, tr. 17, 163; Sn. kệ. 693, 696).
5. Saị yutta Nik ya (Tương Ưng Bộ
Kinh), tập V, tr. 423.
6. Bodh? ti maggo (con đường giác ngộ):
M.A. I, tr.54; VinA. I. tr. 139.
7. Xem thêm I. B. Horner, Early Buddhist
Theory of Man Perfect, London, 1936, tr. 34 vctkt. VàVbhA. tr. 310.
8. Có nhiều đoạn trong kinh mô tả các vị đệ
tử của Đức Phật chứng quả Giác ngộ. Trong Thera and Theri - g
th (Trưởng Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ) cũng có rất nhiều đoạn
mô tả như vậy.
9. M. I., tr.160-161., 240-241;
Sn. Kệ 425- 49; xem thêm Lal. tr. 218 vctkt., Mhvu.
II, tr. 238).
10. dukkha: M. I, tr. 163; A.
I, tr. 145; S. II, tr. 104; III, tr. 65.
11. M. I, tr. 167.
12. Trong kinh Ariyapariyesana (M.I,
tr. 163) không sử dụng thuật ngữ đặc biệt này, tuy nhiên ý tưởng đã diễn
đạt ý nghĩa quan trọng của nó.
13. M. I. tr.23, 249.
14. Vin. I, tr. 14
15. S. II, tr. 105; V, tr. 160-161;
M. III, tr.8.
16. Liên quan đến sự khác nhau giữa Đức Phật
và các vị A-la-hán.
17. Xem ERE. II, tr. 740.
18. M. V, tr. 127-128.
19. S. V, tr. 127-128.
20. Liên quan đến lời giải thích Bodhi của
Mật Tông.
21.
Những quan niệm này về sau được trường phái Nguyên thủy Phật giáo
(Therav da Buddhism) công nhận. Dường như nó được giới thiệu vào Phật
giáo Tích lan trong thời kỳ Polonnaruwa, trong suốt thời gian đó, đông
đảo Phật tử của Đại thừa Phật giáo cũng đã tìm ra hướng đi cho chính họ.
--- o0o ---
| Mục Lục
|
Mục lục chi tiết
|
|Phần
I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV
|
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng
phiên bản điện tử tuyển tập này.
--- o0o ---
Vi tính: Hải Hạnh - Giác Định
Cập nhật ngày: 01-05-2002
|
|