Chúng ta không cần đi đâu
xa, ở ngay tại nhà nhìn qua trang báo hằng ngày cũng đủ cho chúng ta thấy những
tệ nạn xã hội hiện nay như thế nào. Rượu chè, cướp bóc, cờ bạc, mãi dâm... xảy
ra thường xuyên, nếu ta có thời giờ bỏ ra vài năm hay cả cuộc đời để thống kê
những sự kiện ấy cũng không thể nào hết được, vì thế mà các nhà báo chí không
thất nghiệp, nay tường thuật tệ nạn này, mai báo cáo tệ hại khác. Đề cập đến vấn
đề này các nhà lãnh đạo, các nhà giáo dục, các nhà Tôn giáo... rất quan tâm, và
đã đề xuất biết bao những biện pháp để ngăn chận, phòng ngừa, tất nhiên, dù ít
hay nhiều cũng gặt hái một số kjết quả nhất định nào đó, nhưng trên thực tế như
chúng ta trông thấy, những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng khắp mọi nơi trên
thế giới. Như vậy, nguyên nhân nào, động lực nào thúc đẩy chúng xuất hiện? Đây
là chủ đề tôi sẽ trình bày trong bài viết này.
Đối với vấn đề, hẳn nhiên, mỗi chúng ta đều có những quan
điểm, cách lập luận khác nhau, tùy theo cách nhìn của mình đối với cuộc sống, lẽ
tất nhiên tôi không dám bàn luận quan điểm của quí vị là đúng hay không đúng. Ở
đây tôi chỉ không đưa ra một quan điểm mới mẻ nào mà chỉ dựa vào những lời dạy
của đức Phật để rút ra những kinh nghiệm trong vấn đề xây dựng một xã hội lành
mạnh, có đạo đức mà thôi.
1. Tinh thần xây dựng đời sống lành mạnh có đạo đức cho người
xuất gia.
Trong hầu hết các kinh tạng Pàli, thuộc hệ tư tưởng Phật giáo
Nguyên thủy cũng như Phật giáo Đại thừa, đức Phật luôn luôn khuyên các vị đệ tử
của Ngài hãy sống trong tinh thần giới luật, lấy giới luật làm thầy, vì nó là
nền tảng để xây dựng một nếp sống cộng đồng hài hòa lành mạnh, có đạo đức, và nó
cũng là nấc thang đầu tiên để cho người xuất gia tiến sâu vào con đường tuệ
giác. Chúng ta hãy lắng nghe lờqi dặn dò tâm huyết của đức Phật trước khi Ngài
nhập Niết Bàn:
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân
trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà
được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở
đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy". (Kinh Di giáo, bản dịch của T.T
Thích Trí Quang).
Người giữ giới luật được đức Phật ví như người mù mắt được
sáng lại, người nghèo mà được vàng ngọc. Phải chăng đức Phật quá thổi phồng, để
cao giới luật? Thưa không, Ngài không bao giờ có ý định lừa dối hay gạt gẫm
chúng ta. Cuộc sống và lời dạy của Ngài đã chứng minh điều đó, sở dĩ Ngài dạy
như thế, vì Ngài muốn chúng ta giảm bớt khổ đau trong cuộc sống để được sự bình
an như Ngài. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta phải tự giác tuân thủ một số
nguyên tắc, đó là giới luật.
Hơn nữa, mục đích cuối cùng của con người là mưu cầu hạnh
phúc và bình an. Người ta chạy vạy, hì hục làm suốt ngày cũng chỉ để đổi lấy
chén cơm, manh áo hay nói cho cùng là đổi lấy những phút giây hạnh phúc khi ăn
và mặc. Lẻ trộm rình mò suốt đêm để đánh cắp một cái gì đó, rồi bán đi, lấy
tiền, cuối cùng cũng chỉ để mua những phút giây hạnh phúc bằng bữa nhậu, điếu
thuốc phiện, hay một đêm hoan lạc... Nói cho cùng, chúng ta là những người đi
tìm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ở đâu? Có ở trong những cái vật chất ấy không?
Tôi nghĩ rằng hạnh phúc không phải ở trong những thứ ấy mà hạnh phúc ở ngay
trong thái độ cư xử của chúng ta đối với sự vật ấy có đúng hay không đúng. Chẳng
hạn như con dao, chúng ta sử dụng nó ở góc độ làm các thức ăn, thì nó đem lại
cho chúng ta niềm vui và hạnh phúc, ngược lại, chúng ta sử dụng con dao ấy để
giết người hay làm việc bất thiện, chúng mang lại cho chúng ta nổi đau khổ và
bất an. Mọi sự kiện trên đời cũng tương tợ như thế.
Là người xuát gia cũng không ngoài mục đích trên, nhưng hạnh
phúc của người xuất gia là loại hạnh phúc vĩnh cửu trong sự thanh tịnh và giải
thoát, không còn các cấu nhiễm thế gian, nhưng muốn được giải thoát giác ngộ,
hành giả không thể không hành trì giới, định, tuệ, tiến trình này có thể nói là
con đường độc nhất để đi đến Niết Bàn. Vì vậy cho nên đức Phật dạy các Tỷ kheo
muốn được giải thoát giác ngộ phải thực hành 250 giới. Tỷ kheo ni có 348 giới.
Đó là nguyên tắc để xây dựng một đời sống xuất gia với ý hướng cầu giải thoát.
Tinh thần giới luật theo kinh tạng Pàli, giới luật được đức
Phật qui định rất đơn giản, không chi li và hệ thống như những bộ luật về sau
này, nói thế không có nghĩa là thiếu sót, mà chúng ta phải hiểu rằng, đó là tinh
thần cốt lõi của giới luật, nó bao trùm lên cả mọi điều răn cấm của Luật tạng.
Trong bài kinh "Đại kinh xóm ngựa" - Mahassapuracuttom, Trung Bộ X, được đức
Phật trình bày những nguyên tắc sống để trở thành một vị Tỷ kheo đầy đủ phạm
hạnh:
"Sa môn! Sa môn! Này các Tỷ kheo, dân chúng biết các ngươi
là vậy, và nếu các ngươi có bị hỏi "Các ngươi là ai?". Các ngươi phải tự nhận
"Chúng tôi là Sa môn". Này các Tỷ kheo, các ngươi đã được danh xưng như vậy,
đã tự nhận là như vậy, thời này các Tỷ kheo, các ngươi phải tự tu tập như sau:
"Chúng ta sẽ thọ trì và thực hành những pháp tác thành Sa môn. Như vậy danh
xưng này của chúng ta mới chơn chánh và sự tự nhận này của chúng ta mới như
thật" và những cúng dường chúng ta thọ hưởng, y phục, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bịnh có kết quả lớn, có lợi ích lớn cho chúng ta, và chúng
ta xuất gia không thành vô dụng, có kết quả, có thành tích".
Cũng trong bài kinh này, đức Phật lần lượt trình bày 7 nguyên
tắc tác thành một vị Sa môn như sau:
1. Biết tàm quí (Biết hổ thẹn những việc làm sai của mình)
2. Thân hành thanh tịnh (mọi hành động thuộc về thân phải được trong sạch).
3. Khẩu hành thanh tịnh. (Lời nói ngay thẳng chân thật).
4. Ý hành thanh tịnh. (Suy nghĩ trong sáng)
5. Mạng sống thanh tịnh. (Các nghề nghiệp phải chính đáng trong sạch)
6. Hộ trì các căn. (Gìn giữ sáu căn không cho sáu trần khuấy nhiễu).
7. Chú tâm cảnh giác. (An trú tâm lại một chỗ không cho loạn động). (Sách đã
dẫn).
Qua bài này chúng ta nhận thấy:
- Bảy nguyên tắc tác thành vị Sa môn là tinh thần giới luật
đầu tiên của Phật giáo. Từ những nguyên tắc này về sau Đức Phật hay các vị Đại
đệ tử Phật xây dựng và hình thành luật tạng Phật giáo một cách chi tiết và hệ
thống.
- Bảy nguyên tắc trên là nền tảng để xây dựng đời sống Phạm
hạnh cho người xuất gia có chí hướng cầu giải thoát giác ngộ. Vì một vị xuất gia
thành tựu những nguyên tắc này thì danh xưng Sa môn của vị ấy mới chơn chánh,
như thật, và vị ấy xuất gia không thành kẻ vô dụng, vị ấy có kết quả lớn, có lợi
ích lớn trong đời sống phạm hạnh như đã được đức Phật khẳng định. Ngược lại,
người xuất gia không thực hành những nguyên tắc này thì danh xưng Sa môn của vị
ấy không chơn chánh, không như thật, mặc dù vị ấy có hình thức là người xuất
gia, vị ấy sẽ trở thành kẻ vô dụng. Như vậy vị ấy không gặt hái được gì trong
đời sống xuất gia.
2. Tinh thần xây dựng đời sống lành mạnh, có đạo đức cho
người tại gia.
Đức Phật xây dựng đời sống xuất gia là như vậy, còn đối với
đời sống của người tại gia còn nhiều ràng buộc gia đình thì đức Phật xây dựng
như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta chỉ cần rút ra nguyên tắc
đầu tiên là biết tàm quí trong bảy nguyên tắc trên đã làm tôn chỉ cho người tại
gia thực hiện. Nguyên tắc này khá quan trọng trong việc xây dựng một xã hội lành
mạnh, sống có đạo đức.
Theo đức Phật, nguồn gốc sâu xa của mọi tệ nạn xã hội là con
người đã đánh mất đức tính tàm quí, tức là không còn biết hổ thẹn đối với hành
vi sai lầm của mình. Như vậy, khi con người không còn biết hổ thẹn thì người ấy
có thể làm bất cứ điều ác nào.
Hình ảnh đức Phật dạy tôn giả La Hầu La, khi Tôn giả vừa 7
tuổi, tạ tại rừng Am-ba-la (rừng xoài) thật cảm động. Ngài khuyên La Hầu La khi
làm một thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiập nào, nếu thân, khẩu, ý nghiệp ấy đưa
đến tự hại, hại người, hại cả hai thì thân nghiệp ấy, khẩu nghiệp ấy, ý nghiệp
ấy là bất thiện. La Hầu La chớ nên làm, nếu đã lỡ làm thì phải biết hổ thẹn, sám
hối đối với nghiệp ấy. Ngài còn thận trọng hơn nữa, khuyên La Hầu La không nên
nói láo, dù nói để mà chơi. Đức Phật quả là nhà giáo dục vĩ đại, không những
Ngài chỉ khuyên dạy những người ở lứa tuổi trưởng thành có sự hiểu biết, mà Ngài
còn quan tâm chăm sóc đến tuổi trẻ, giáo dục và xây dựng chúng khi còn tuổi ấu
thơ. Ngài quan niệm rằng, tâm hồn của tuổi ấu thơ giống như tờ giấy trắng, nếu
như tờ giấy ấy dư, được nhà họa sĩ tài hoa vẽ lên ấy những bông hoa tươi đẹp,
thì nó sẽ tô điểm cho cuộc đời thêm sắc. Ngược lại, tờ giấy ấy nếu kẻ bất tài vô
dụng bôi lên đó những vết mực đen vô nghĩa thì nó trở thành cái vô dụng và làm
xấu xã hội.
Ở đây tôi muốn nói, những người cha, người mẹ, người thầy...
có trách nhiệm lớn trong việc giáo dục những người con cháu của mình. Hầu hết
những em bé hư hỏng đều phát xuất từ sự thiếu giáo dục của cha, mẹ, hay không có
cha mẹ để giáo dục, hoặc phương pháp giáo dục không có hiệu năng. Chúng ta khong
nên trách đứa con hư hỏng mà chúng ta hãy tự trách mình thiếu tinh thần trách
nhiệm giáo dục đối với chúng. Đức Phật đã làm người thầy đầy đủ trách nhiệm,
đáng kính, tùy theo từng lứa tuổi sự hiểu biết từng người mà Ngài có những lời
dạy khác nhau, rất thiết thực và hữu hiệu.
Đối với tuổi trẻ, bằng mọi hình thức Ngài ngăn chận những mầm
mống phát sinh hành vi bất thiện, như Ngài đã dạy La Hầu La "Là Sa môn hạnh của
những người nào biết mà nói láo là không biết tàm quí" (TB I,, Kinh Giáo Giới La
Hầu La ở rừng Am ba la số 61).
Đức tính hổ thẹn rất cần thiết cho những ai muốn trở thành
con người tốt, con người có đời sống lành mạnh có đạo đức, nó là nền mống cơ bản
để xây dựng một xã hội lành mạnh. Thiết nghĩ, những tệ nạn xã hội ngày càng gia
tăng, tuổi trẻ tiến sâu vào con đường sa đọa, vì con người đã đánh mất đức tính
hổ thẹn hay xem thường đức tính này. Đó là nguồn gốc sâu xa xuất hiện mọi tệ nạn
xã hội.
Là con người không làm sao tránh khỏi những sai lầm, nhưng
cái quan trọng, khi chúng ta phạm phải sai lầm, chúng ta có biết phục thiện hay
không, chúng ta có biết hổ thẹn và sửa đổi những sai lầm ấy không. Thái độ phục
thiện hay không phục thiện để phân biệt giữa người ngu và kẻ trí, giữa người
thiện và người bất thiện, giữa người làm tồi bại xã hội và người xây dựng xã
hội.
Trong kinh Giáo giới La Hầu La, đức Phật dùng hình ảnh con
voi lâm trận để ví dụ cho hai hạng người trên. Ví dụ một, khi con voi lâm trận,
ra chiến trường, nó dùng hai chân trước, hai chân sau, phần thân trước, phần
thân sau, dùng đầu, tai, ngà, đuôi... nhưng nó bảo vệ cái vòi của nó. Ví dụ hai,
khi con voi lâm trận, ra chiến trường, nó dùng hai chân trước, hai chân sau,
phần thân trước, phần thân sau, dùng đầu, tai, ngà, đuôi... và nó dùng luôn cả
cái vòi của nó. Ở ví dụ một, ta thấy con voi thứ nhất không quăng bỏ mạng sống
của nó, vì nó biết bảo vệ cái vòi, dụ cho người biết tàm quí. Ở ví dụ hai, ta
thấy con voi thứ hai đã quăng bỏ mạng sống của nó, vì nó không biết bảo vệ cái
vòi, dụ cho người không biết tàm quí.
Qua ví dụ trên, ta càng thấy rõ hơn tầm mức quan trọng khi
con người đã đánh mất đức tính tàm quí, nó là nguyên nhân sâu xa của mọi tội
phạm. Vì vậy cho nên đức Phật đã đi đến kết luận: "Cũng vậy này La Hầu La, đối
với những ai biết mà nói láo, không biết tàm quí, thời ta nói rằng người ấy
không có việc ác gì mà người ấy không làm" (sách đã dẫn).
Thật đúng vậy, thưa các bạn, các bạn thử dành một vài phút để
cho tâm hồn thật lắng đọng, rồi chiêm nghiệm cuộc sống chính mình. Các bạn sẽ
thấy một hành vi xấu xa mà các bạn còn mang theo, vì các bạn đã đánh mát đức
tính hổ thẹn đối với tật xấu ấy, và mặc nhiên thừa nhận chúng như là một sự kiện
thường tình. Kìa bạn hãy nhìn xem: đứa con hay cháu của bạn có thói xấu hay ăn
vụng. Bạn còn nhớ không lần đầu tiên chúng ta ăn vụng với đôi mắt láo liêng, tò
vò lén lút sợ hãi, nếu bạn không kịp thời giáo dục chúng, lần thứ hai, ba và
nhiều lần sau, bạn sẽ thấy gì trên đôi mắt của cậu bé ấy? Tất nhiên là biểu lộ
không chút gì sợ hãi hay lén lút. Chúng ăn vụng một cách tự nhiên và xem như
chuyện ấy được mọi người thừa nhận.
Từ chuyện này chúng ta có thể suy ra mọi hành vi khác cũng
bắt nguồn tương tự như vậy.
Cuối cùng, tôi xin mượn lời dạy của đức Phật từ trong kinh Di
giáo để thay lời kết thúc bài viết này:
"Sự hổ thẹn là phục sức tốt đẹp nhất trong mọi thứ phục
sức, như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con
người. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sĩ nhục, đừng
bao giờ quên đức tính ấy, dầu chỉ tạm thời mà thôi. Mất hổ thẹn là mất công
đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hỏ thẹn thì không khác chi cầm thú"
(Kinh Di giáo)
Qua lời Phật dạy, ta thấy đức tính hổ thẹn là nền tảng để xây
dựng một nếp sống lành mạnh, có đạo đức. Cho dù là người tại gia hay người xuất
gia cũng cần có đức tính ấy. Mất đức tính ấy là nguyên nhân sâu xa của mọi tệ
nạn xã hội. Chúng ta là người Phật tử, là những người muốn xây dựng xã hội lành
mạnh, hãy cố gắng gìn giữ đức tính ấy trong mỗi người, vì nó là vũ khí sắc bén
nhất để ngăn chận mọi hành vi sai lầm, đồng thời nó cũng là thứ trang phục đẹp
nhất trong mọi thứ trang phục./.
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Ansơn đã gởi tặng tài liệu này (QĐ website)
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-05-2004