Hội Thứ Sáu
Phẩm
Bình Ðẳng
Thứ
7
Phật bảo
Tối Thắng! Thiên vương phải biết: Bình đẳng quán các pháp tự tánh vắng
lặng, chẳng sanh chẳng diệt, nên gọi bình đẳng. Tất cả phiền não hư vọng
phân biệt tự tánh vắng lặng chẳng sanh chẳng diệt, nên gọi bình đẳng. Danh
tướng phân biệt tự tánh vắng lặng chẳng sanh chẳng diệt, nên gọi bình
đẳng. Diệt các
điên đảo, chẳng khởi vin duyên nên gọi bình đẳng. Diệt tâm năng duyên, vô
minh hữu ái tức đều vắng lặng, diệt si ái nên chẳng còn chấp đắm ngã và
ngã sở, nên gọi bình đẳng. Chấp ngã
và ngã sở dứt trừ hẳn nên danh sắc vắng lặng, nên gọi bình đẳng. Danh sắc
dứt nên biên kiến chẳng sanh, nên gọi bình đẳng. Ðoạn thường dứt nên thân
kiến vắng lặng, nên gọi bình đẳng. Thiên
vương phải biết: Năng chấp sở chấp tất cả phiền não chướng thiện pháp ấy
đều nương thân kiến mà sanh. Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm phương tiện khéo léo năng diệt được thân kiến, tất cả phiền não và
tùy miên đều vắng lặng hẳn, khởi muốn cũng dứt. Ví như đại thọ nhổ trừ gốc
cội, nhánh nhóc lá thảy không thứ nào chẳng chết khô. Như người không đầu,
mạng căn thảy tuyệt mất. Tùy miên phiền não cũng lại như thế, nếu dứt thân
kiến các kia đều diệt hẳn. Nếu người quán được các pháp vô ngã là năng
chấp sở chấp đều vắng lặng hẳn. Bấy giờ,
Tối Thắng bèn thưa Phật rằng: Vì sao ngã kiến khởi chướng chơn lý? Phật bảo
Tối Thắng: Thiên vương phải biết: Ðối năm thủ uẩn quấy bảo có ngã, tức
khởi ngã kiến. Pháp chơn thật tự tánh bình đẳng không có chấp năng sở, ngã
kiến trái nhau, nên gọi là chướng. Thiên
vương phải biết: Ngã kiến như thế chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
giữa hai, đều không chỗ trụ, gọi là vắng lặng, tức là bình đẳng. Xa lìa
ngã kiến, thông suốt bình đẳng, gọi chơn thật không. Quán sát không đây,
không tướng không nguyện, tự tánh vắng lặng, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng
lấy chẳng đắm, xa lìa ngã kiến nên gọi bình đẳng. Thiên
vương phải biết: Nói là ngã ấy không đến không đi, không có chơn thật, hư
dối phân biệt; pháp từ dối sanh cũng là hư dối. Nếu các Bồ tát hành Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo quán pháp như thế xa lìa hư
dối, vậy nên gọi là vắng lặng bình đẳng. Thiên
vương phải biết: Năng chấp sở chấp gọi là phực cháy, lìa gọi vắng lặng.
Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo,
năng như thật biết được năng chấp sở chấp diệt các phiền não. Vì tăng
thiện pháp, dứt chấp năng sở và các phiền não, chẳng thấy khá sanh, chẳng
thấy khá diệt nên gọi bình đẳng. Tu tất cả các thứ Ba la mật đa, xa lìa ma
chướng, chẳng thấy khá tu, chẳng thấy khá lìa, nên gọi bình đẳng. Bồ tát
thường xuyên Bồ đề phần pháp, chẳng khởi tác ý Thanh văn Ðộc Giác, đối Bồ
đề phần Thanh văn Ðộc Giác chẳng thấy tướng khác, nên gọi bình đẳng. Duyên
Nhất thiết trí tâm chẳng ngưng nghỉ, thường trụ không hạnh, do sức đại bi
chẳng bỏ hữu tình, nên gọi bình đẳng. Thiên
vương phải biết: Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo đối tất cả pháp tâm duyên tự tại: Tâm duyên vô tướng mà tu
Bồ đề, chẳng thấy vô tướng và Bồ đề khác nhau, nên gọi bình đẳng. Tâm
duyên vô nguyện chẳng bỏ ba cõi, chẳng thấy vô nguyện và ba cõi khác nhau
nên gọi bình đẳng. Quán
thân bất tịnh, tâm trụ thanh tịnh. Quán hạnh vô thường, tâm duyên sanh tử
mà chẳng chán bỏ. Quán khổ hữu tình, trụ vui Niết bàn. Quán pháp vô ngã
đối loại hữu tình khởi tâm đại từ, thường vì hữu tình nói thuốc bất tịnh. Chẳng
thấy bệnh tham thường nói đại từ, chẳng thấy bệnh sân thường nói duyên
khởi, chẳng thấy bệnh si vì kẻ đủ ba bệnh nói thuốc vô thường, chẳng thấy
ba bệnh và vô thường khác nhau. Như vậy,
Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo đối tất cả
pháp tâm duyên tự tại: Duyên pháp lìa tham vì hóa Thanh văn. Duyên pháp
lìa sân vì hóa Ðộc Giác. Duyên pháp lìa si vì hóa Bồ tát. Duyên
tất cả sắc, nguyện được diệu sắc thanh tịnh Như Lai, vì vô sở đắc vậy.
Duyên tất cả tiếng, vì được tiếng tăm nhiệm mầu chư Phật, vì vô sở đắc
vậy. Duyên tất cả hương, nguyện được giới hương thanh tịnh chư Phật, vì vô
sở đắc vậy. Duyên tất cả vị, nguyện được tướng Ðại trượng phu đệ nhất
trong mùi vị Như Lai, vì vô sở đắc vậy. Duyên tất cả pháp, nguyện được tâm
vắng lặng Như Lai, vì vô sở đắc vậy. Duyên
các bố thí, vì được trọn nên thân Phật tướng hảo. Duyên các tịnh giới, vì
được nghiêm tịnh cõi Phật viên mãn. Duyên các an nhẫn, nguyện được tiếng
Ðại phạm âm chư Phật và được thân tịnh quang minh chư Phật. Duyên các tinh
tiến, vì độ hữu tình thường không gián đoạn. Duyên các tĩnh lự, vì muốn
trọn nên thần thông rộng lớn. Duyên các Bát nhã, vì dứt tất cả vọng kiến
phiền não. Duyên
các Ðại từ bình đẳng vô ngại, vì các hữu tình đều được an vui. Duyên các
Ðại bi, vì hộ Chánh pháp cứu vớt hữu tình khổ lớn sanh tử. Duyên các Ðại
hỷ, vì được thuyết pháp vô ngại tự tại, hữu tình vui muốn. Duyên các Ðại
xả, vì chẳng chấp thấy phiền não theo ngủ ràng buộc hữu tình. Thiên
vương phải biết: Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo chẳng thấy hai việc gọi hạnh bình đẳng. Duyên
bốn nhiếp pháp vì hóa hữu tình. Duyên lỗi rít ganh, vì xả của cải tu hạnh
bố thí. Duyên lỗi phá giới, vì trụ tịnh giới. Duyên lỗi giận dữ, vì được
an nhẫn. Duyên lỗi tán loạn, vì được thắng định vắng lặng Như Lai. Duyên
lỗi ác huệ, vì nên vô ngại trí huệ Như Lai. Duyên pháp Nhị thừa, vì muốn
trọn nên Vô thượng Ðại thừa. Duyên
các ác thú, vì muốn cứu vớt tất cả hữu tình. Duyên các thiện thú, vì muốn
khiến biết các quả người trời đều phải bại hoại. Duyên các hữu tình, vì
cho rõ suốt đều không bền chắc, chỉ có hư dối. Duyên
nhớ theo Phật, vì được trọn nên thắng định giúp đạo. Duyên nhớ theo Pháp,
vì được thông suốt Mật tạng các pháp. Duyên nhớ theo Tăng, vì chúng hòa
hợp, tâm không quay lui. Duyên nhớ theo Xả, vì không yêu đắm. Duyên nhớ
theo Giới, vì được tịnh giới. Duyên nhớ theo Trời, vì thành Bồ đề được các
trời khen ngợi. Duyên
tướng tự thân vì được thân Phật. Duyên tướng lời mình vì được lời Phật.
Duyên tướng ý mình vì được tâm bình đẳng chư Phật. Duyên pháp hữu vi vì
thành Phật trí. Duyên pháp vô vi vì được vắng lặng. Thiên
vương phải biết: Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo, không có luống qua một tâm một hạnh mà chẳng hồi hướng về
Nhất thiết trí. Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo, dù khắp duyên pháp mà được chẳng đắm, vậy nên gọi là phương
tiện khéo léo, quán tất cả pháp không chẳng hướng tới nơi Ðại Bồ đề. Ví như
thế giới Tam thiên đại thiên sanh ra các vật không chẳng đều vì hữu tình
thọ dụng. Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo sở duyên cảnh giới không chẳng nhiêu ích hướng tới Bồ đề. Ví như
các sắc không có chẳng nhơn nơi bốn đại chủng. Như vậy, Bồ tát sở duyên
cảnh giới không có một pháp chẳng tới Bồ đề. Vì cớ
sao? Vì Bồ tát tu hành đều nhơn duyên ngoài mà được thành lập. Nghĩa là
các Bồ tát nhơn kẻ rít ganh, thành tựu bố thí Ba la mật đa. Nhơn kẻ bội
ơn, thành tựu tịnh giới Ba la mật đa. Nhơn kẻ ác tánh, thành tựu an nhẫn
Ba la mật đa. Nhơn kẻ lười biếng, thành tựu tinh tiến Ba la mật đa. Nhơn
kẻ tán loạn, thành tựu tĩnh lự Ba la mật đa. Nhơn kẻ ngu si, thành tựu Bát
nhã Ba la mật đa. Nếu các
hữu tình làm tổn hại Bồ tát, Bồ tát nhơn kia đè dứt giận dữ. Bồ tát nếu
thấy kẻ tu hành thiện pháp hướng Bồ đề là sanh tâm con mình. Bồ tát như
thế khen chẳng sanh mừng, chê chẳng sanh giận. Thấy kẻ không vui khởi lòng
đại từ, thấy kẻ có khổ khởi lòng đại bi, thấy kẻ có vui khởi lòng đại hỷ,
thấy kẻ không khổ khởi lòng đại xả. Nhân kẻ khó giáo hóa phát chỉ Xa ma
tha. Nhơn kẻ dễ giáo hóa phát quán Tỳ bát xá na. Nhơn kẻ tín hành khởi trí
biết ơn. Nếu thấy
hữu tình ác ngoại duyên mạnh, thiện ngoại duyên yếu, thời siêng giữ hộ.
Nếu thấy kẻ sức của nhơn có mạnh mẽ, thời dùng các thứ phương tiện khiến
thọ giáo pháp. Nếu thấy hữu tình trí huệ khai ngộ, thời vì tuyên nói pháp
yếu thẳm sâu. Nếu thấy hữu tình nói rộng mới ngộ được, thời vì thứ lớp
tuyên nói các pháp. Nếu các hữu tình chấp đắm văn tự, vì nói cú nghĩa
khiến được khai hiểu. Nếu đã học chỉ vì nói diệu quán, nếu đã học quán vì
nói tịch chỉ. Nếu chấp trì giới vì nói địa ngục, trì giới không chấp thời
chẳng nói chi. Nếu chấp văn huệ vì nói tư, tu. Nếu chấp đẳng trì vì nói
Bát nhã. Nếu có
kẻ ưa muốn chỗ vắng vẻ, tức vì kia nói pháp tâm xa lìa. Nếu có kẻ muốn
nghe công đức Phật, tức vì kia nói Thánh trí vô thượng. Vì kẻ tham dục nói
pháp bất tịnh, vì kẻ giận dữ nói pháp từ bi, vì kẻ ngu si nói pháp duyên
khởi, vì kẻ đẳng phần nói các thứ pháp hoặc nói bất tịnh, hoặc nói từ bi,
hoặc nói duyên khởi. Kẻ đã
điều phục vì nói tịnh giới, thắng định, diệu huệ. Kẻ cần vào Phật thừa mà
thọ hóa, vì thứ lớp nói Ba la mật đa. Kẻ nên dùng đè nén mà thọ hóa, trước
bẻ lời lẽ kia, sau vì nói pháp. Kẻ nên dùng các thứ lời lẽ mà thọ hóa, tức
vì kia nói nhân duyên thí dụ khiến được mở hiểu. Kẻ cần đem thâm pháp mà
thọ hóa, vì nói Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo không ngã không
pháp. Kẻ mê
các kiến vì nói pháp không. Kẻ nhiều tìm tòi vì nói vô tướng. Kẻ đắm hữu
vi vì nói vô nguyện. Kẻ mê các uẩn vì nói như huyễn. Kẻ mê các giới vì nói
vô tánh. Kẻ mê các xứ vì nói như mộng. Kẻ say
cõi Dục vì nói lửa cháy. Kẻ đắm cõi Sắc vì nói hành khổ. Kẻ đắm cõi Vô sắc
vì nói các hạnh vô thường. Hữu tình khó hóa vì khen giống Thánh. Hữu tình
dễ hóa vì nói tĩnh lự và vô lượng tâm. Nếu kẻ nghe sanh trời mà thọ hóa,
vì nói vui khoái. Kẻ nhân
pháp Thanh văn mà thọ hóa, vì nói thánh đế. Kẻ nhân pháp Ðộc Giác mà thọ
hóa, vì nói duyên khởi. Kẻ nhân pháp Bồ tát mà thọ hóa, vì nói pháp tịnh
tâm đại từ bi. Bồ tát
tu hành vì nói phước huệ. Bồ tát chẳng lui vì nói tịnh độ. Bồ tát còn buộc
một đời vì nói nghiêm tòa Bồ đề. Kẻ nên đem Phật thuyết mà thọ hóa, vì kia
thứ lớp nối nhau mà nói. Thiên
vương phải biết: Bồ tát như thế tu hạnh thanh tịnh Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm phương tiện khéo léo được các tự tại thuyết pháp lợi ích, không
có luống qua. Khi
thuyết Bồ tát được pháp tự tại này, ba vạn trời người đều phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng giác, năm ngàn Bồ tát được Vô sanh nhẫn. Bấy giờ,
Thế Tôn liền bèn mỉm cười. Pháp thường các Phật khi hiện mỉm cười, các thứ
sắc quanh từ diện môn phóng ra xanh vàng đỏ trắng tía sắc gương, soi khắp
mười phương vô biên thế giới, hiện việc hiếm có, về lại chỗ Phật quanh hữu
ba vòng vào trong đảnh Phật. Khi ấy,
Xá Lợi Tử xem tướng lành đây lòng ôm do dự, liền từ tòa dậy, lệch che vai
tả, gối hữu chấm đất, chấp tay cung kính mà thưa Phật rằng; Bạch Thế Tôn!
Vì nhân duyên nào hiện tướng lành đây? Bấy giờ,
Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Trời Tối Thắng đây đã từng quá khứ vô lượng vô số
vô biên đại kiếp ở chỗ các Phật tu hành tất cả Ba la mật đa, vì các Bồ tát
thủ hộ Bát nhã Ba la mật đa. Do nhân duyên đây, nay được gặp Ta thưa hỏi
lãnh thọ Bát nhã Ba la mật đa. Ở đời vị
lai, lại trải qua vô lượng vô số đại kiếp tu tập tư lương Vô thượng Bồ đề,
nhiên hậu chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mười hiệu đầy đủ.
Phật tên Công Ðức Trang Nghiêm, cõi tên Tối Cực Nghiêm Tịnh, kiếp tên
Thanh Tịnh. Cõi ấy
giàu vui, nhân chúng phồn thịnh, thuần Bồ tát Tăng, không Thanh văn chúng.
Ðất liền cõi kia bảy báu hiệp thành, các báu trang nghiêm, bằng phẳng như
bàn tay, hương hoa cỏ mềm mà trau dồi đó. Không các núi gò, núi đồi chông
gai. Phan phướn lọng hoa các thứ trang nghiêm. Có đô thành lớn tên là Nan
Phục. Lưới the bảy báu phủ trùm nơi trên, dây vàng giảng bủa, gác treo
chuông vàng. Ngày đêm sáu thời trên không tấu những nhạc trời và rải các
thứ hương hoa trời thơm đẹp. Nhân
chúng cõi ấy sung sướng hưởng vui, xinh đẹp hơn cung trời tha hóa kia.
Người trời đi lại chẳng cách ngại nhau, không ba ác thú và danh Nhị thừa,
hữu tình cõi kia chỉ cầu Phật trí. Phật ấy hằng vì các Ðại Bồ tát tuyên
nói các thứ pháp yếu thanh tịnh. Vô lượng vô biên quyến thuộc Bồ tát không
chấp tà kiến, phá giới, tà mạng, cũng không các kẻ mù điếc câm ngọng gù
lưng và căn khuyết thảy các việc xấu ác. Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ
đẹp trang nghiêm nơi thân. Như Lai cõi kia thọ lượng tám mươi tiểu kiếp,
các chúng người trời không kẻ chết yểu. Phật có vô lượng công đức như thế,
nếu muốn thuyết pháp, trước phóng quang minh, các chúng Bồ tát gặp quang
ấy rồi tức biết Thế Tôn sắp muốn thuyết pháp, chúng ta ngày nay nên phải
qua nghe. Khi đó
trời vì Phật trải tòa Sư tử. Lượng tòa cao rộng trăm do tuần, trang nghiêm
các báu, cúng dường vô lượng. Thế Tôn thăng tòa vì chúng thuyết pháp. Các
Bồ tát kia thông minh căn lợi, một nghe lãnh ngộ, lìa ngã ngã sở; đồ dùng
uống ăn ứng theo nghĩ tức có. Khi Phật
nói pháp trao ký cho Tối Thắng, năm vạn trời người vui mừng hết lòng, đều
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đều nguyện đời sau sanh cõi Phật kia.
Bấy giờ, Tối Thắng nghe Phật đã nói, vui mừng nhảy nhót được chưa từng có,
bay lên hư không cao bảy cây đà la. Khi đó
cõi Tam thiên sáu thứ biến động, các kỹ nhạc trời chẳng đánh tự kêu, rải
nhiều hoa trời để cúng dường Phật và Ðại Bồ tát, Tối Thắng thiên vương.
Khi ấy, Thiên vương kia từ không mà xuống, lễ Phật hai chân, lui ngồi một
phía.
Hội Thứ Sáu
Phẩm
Hiện
Tướng
Thứ
8
Tối
Thắng đáp rằng: Ðại đức! Phải biết Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm phương tiện khéo léo thông suốt pháp tánh, thật không khổ hạnh, vì
hàng phục ngoại đạo nên thị hiện đó thôi. Mà thiên ma kia là chúa cõi Dục,
bẩm tánh điều thiện thật chẳng nên hoại, vì hữu tình kia nên thị hiện hàng
phục. Nghĩa là
các ngoại đạo tự xưng năng tu được khổ hạnh số một, vậy nên Bồ tát thị
hiện năng tu khổ hạnh hơn kia. Là các hữu tình hoặc thấy Bồ tát đứng co
một chân, hoặc thấy Bồ tát đứng giơ hai tay lên, hoặc thấy Bồ tát đứng
sững mà xem mặt trời, hoặc thấy Bồ tát nướng thân trên năm thứ lửa nóng,
hoặc thấy Bồ tát treo ngược tấm thân. Hoặc
thấy Bồ tát nằm trên chông gai, hoặc nằm trên đống phân trâu, hoặc nằm nơi
đá, hoặc lại nằm đất, hoặc nằm nơi ván, hoặc nằm trên chiếc chày, hoặc nằm
trên đống đất tro. Hoặc
thấy Bồ tát chỉ mặc áo bằng tấm ván, hoặc mặc áo cỏ gai, hoặc mặc áo cỏ,
hoặc mặc vỏ cây, hoặc mặc áo cỏ tranh, hoặc lại trần hình, hoặc diện hướng
mặt trời mà chuyển theo mặt trời. Hoặc
thấy Bồ tát chỉ ăn hạt cỏ đắng, hoặc lại ăn bắp, hoặc ăn gốc cỏ, hoặc ăn
lá cây, hoặc hoa hoăc quả, hoặc ăn thuốc thự dự trên núi, hoặc khoai nước
hoặc ngó sen, hoặc đậu hoặc lúa, hoặc mè hoặc gạo, hoặc sáu ngày một ăn,
hoặc uống nước qua ngày, hoặc nơi một ngày ăn một giọt tô, hoặc một giọt
mật, hoặc một giọt sữa, hoặc không ăn gì cả, hoặc thường ngủ mê. Hiện các
thứ khổ hạnh như thế thảy lâu trong sáu năm không thiếu sót một điều.
Nhưng thật Bồ tát không khổ hạnh ấy, hữu tình độ được mà tự thấy có thế
thôi. Khi Bồ tát hiện khổ hạnh như thế có sáu mươi muôn ức các chúng trời
người nhơn thấy việc đây an trụ Tam thừa. Lại có trời người do sức căn
lành đời trước rất muốn Ðại thừa, thời thấy Bồ tát ngồi tòa đài bảy báu,
thân tâm chẳng động, vui mặt ngậm cười, vào thắng đẳng trì, thời gian lâu
sáu năm mới từ định khởi. Có chúng trời người rất mến Ðại thừa muốn lóng
nghe pháp, thời thấy Bồ tát ngồi vững thuyết pháp lâu đến sáu năm. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế phương tiện khéo léo hành Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm năng hàng thiên ma, phục các ngoại đạo, đại bi hóa độ tất cả hữu
tình. Ðã qua sáu năm, từ định mà khởi, thuận theo pháp đời đến sông Vô cấu
tắm rửa xong rồi, đứng nơi bìa sông. Có nàng chăn bò nặn sữa trăm bò đem
cho một bò uống, lại nặn sữa bò này dùng làm cháo sữa phụng dâng Bồ tát. Lại có
sáu ức trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược thảy đều đem các thứ uống ăn
thơm ngon mà đến phụng kiến, đồng thanh thưa rằng: Cúi xin Ðại sĩ Chánh sĩ
thọ nhận cúng dường uống ăn chúng tôi! Bồ tát thương xót thảy đều vì nhận. Khi đó
nàng chăn bò, trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược thảy chẳng thấy lẫn
nhau, đều thấy Bồ tát riêng nhận mình cúng. Lúc ấy có vô lượng các trời
người thảy nhân thấy nhận cúng đều ngộ đạo. Vậy nên, Bồ tát vì đó mà thị
hiện. Bồ tát bấy giờ thật chẳng tắm rửa, cũng chẳng nhận cúng người trời
thảy kia. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo thị hiện khi đi đến tòa Bồ đề có trời ở đất tên là Diệu Ðịa cùng
chúng thiên thần quét dọn quanh khắp, dùng nước thơm rưới, đem hoa đẹp
rải. Khi đó
thế giới Tam thiên đại thiên đây bốn Ðại thiên vương lãnh Thiên chúng mình
mưa hoa trời đẹp cúng dường Bồ tát. Thiên
chủ Ðế Thích, Thiên vương Thời Phận lãnh Thiên chúng mình trụ giữa hư
không tấu tiếng thiên nhạc khen ngợi Bồ tát. Thiên
vương Hỷ Túc lãnh Thiên chúng mình đem lưới bảy báu giăng phủ thế giới.
Bốn góc lưới kia treo chuông vàng tía, đều mưa nhiều báu cúng dường Bồ
tát. Thiên
vương Thiện Hóa lãnh Thiên chúng mình đem lưới vàng tía giăng phủ thế
giới, đánh các thiên nhạc, rưới các thứ hoa cúng dường Bồ tát. Thiên
vương Tự Tại lãnh Thiên chúng mình, các rồng, dược xoa, kiện đạt phược
thảy đều đem các thứ đồ cúng thượng diệu cúng dường Bồ tát. Thiên
vương Ðại Phạm chủ cõi Kham Nhẫn đã thấy Bồ tát đến tòa Bồ đề, liền bảo
tất cả chúng Phạm thiên rằng: “Các ngươi phải biết: Nay Bồ tát đây áo giáp
mũ trụ vững vàng mà tự trang nghiêm. Chẳng trái bản thệ, tâm không nhàm
mỏi, các hạnh Bồ tát đều đã đầy đủ, thông suốt vô lượng pháp giáo hóa hữu
tình. Các bậc Bồ tát đều được tự tại, đối các hữu tình nơi tâm thanh tịnh,
khéo biết tất cả căn tánh sai khác, thông suốt bí mật tạng Như Lai. Vượt
hiểu biết sự nghiệp tất cả ma, nhóm các cội căn lành chẳng đợi duyên
ngoài. Ðược tất cả Như Lai chung cùng hộ niệm. khắp vì hàm thức mở cửa
giải thoát. Ðại tướng Ðạo sư dẹp địch ma quân. Ở cõi Ðại thiên độc xưng
dũng mãnh, giỏi thí thuốc Pháp, làm thầy thuốc chúa. Ðỉnh rưới giải thoát,
thọ ngôi Pháp Vương, phóng sáng trí huệ soi khắp tất cả. Tám pháp chẳng
nhiễm, ví như hoa sen. Các môn tổng trì không chẳng thông suốt, sâu rộng
khó lường giống như biển cả. Yên vững chẳng lay như núi Diệu Cao. Trí huệ
thanh tịnh không các bẩn đục. Trong ngoài sáng sạch như ngọc mạt ni. Ðối
các pháp tướng đều được tự tại. Phạm hạnh thanh bạch đã đến rốt ráo. Bồ tát
như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, vì độ hữu
tình đến tòa Bồ đề, ngồi tréo lật bàn chân, hàng phục ma oán. Vì thành
mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật bất cộng
thảy, vô lượng vô biên công đức chư Phật, quay xe Ðại pháp, tác rống Sư
tử, đem Pháp thí khắp tất cả hữu tình, mỗi tùy sở nghi đều được đầy đủ. Vì
các hữu tình làm mắt Pháp thanh tịnh, đem pháp Vô thượng hàng phục ngoại
đạo. Muốn chỉ cho chư Phật trọn nên bản nguyện, đối tất cả pháp mà được tự
tại. Các ngươi nên qua đến cúng dường Bồ tát”. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành phương tiện khéo léo thị hiện khi đi đến tòa
Bồ đề, tướng ngàn quầng bánh xe ở dưới hai bàn chân đều phóng vô lượng ánh
sáng nhiệm mầu soi khắp địa ngục, bàng sanh, quỉ giới. Hữu tình trong ấy
kẻ gặp sáng đây tức đều lìa khổ, thân tâm an vui. Bấy giờ,
trong cung rồng có rồng chúa lớn tên Ca Lý Ca, gặp ánh sáng đây rồi sanh
vui mừng lớn, bảo các rồng rằng: “Ánh sáng nhiệm mầu đây đến soi chúng ta
khiến bọn chúng ta thân tâm an vui. Tôi ở thuở xưa từng thấy sáng đây, khi
đó có Như Lai xuất hưng nơi đời. Nay đã có ánh sáng nhiệm mầu đây định
biết thế gian có Phật xuất hiện. Nên cùng nghiêm sắm các thứ hương hoa,
các của ngọc đẹp, phan phướn lọng hoa, làm các đồ kỷ nhạc, đi đến cúng
dường”. Sau đấy rồng chúa đem các quyến thuộc mang cầm đồ cúng, dấy khắp
vầng mây lớn, giáng rưới trận mưa thơm, đi đến Bồ tát, đánh các kỹ nhạc,
thi bày cúng dường, quanh hữu Bồ tát mà khen ngợi rằng: Ánh sáng
nhiệm mầu khiến khắp vui mừng, quyết định hơn hết, Phật ra không nghi. Các
thứ ngọc quí trang nghiêm, khắp đất sanh ra cỏ cây đều biến thành báu.
Sông hồ đều lặng không tiếng sóng gió, so đây định biết Phật ra nơi đời.
Thích, Phạm, nhật nguyệt ánh sáng chẳng hiện, ác thú thanh tịnh Phật ra
không nghi. Ví như có người nhỏ lạc cha mẹ, tuổi đã lớn khôn, bỗng nhiên
được lại, vui mừng nhảy nhót chẳng thể tự dằn; tất cả thế gian thấy Phật
hiện ra đều vui mừng chung cũng lại như thế. Quá khứ chúng ta từng cúng
dường chư Phật, nay gặp Pháp vương Sư tử trong người, vậy thời đời chúng
ta sanh ra đây chẳng bỏ qua luống uổng”. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo, dưới cội Bồ đề nhận trải tòa cỏ, quanh hữu bảy vòng, chính niệm
ngồi vững. Hữu tình thấp kém thấy tướng như thế. Các Ðại Bồ tát thấy có
tám vạn bốn ngàn Thiên tử riêng mỗi trải một tòa Sư tử lớn. Các tòa Sư tử
các báu hiệp thành, lưới the bảy báu giăng phủ lên trên, mỗi ở bốn góc
lưới treo chuông vàng đẹp, phan phướn lọng tua chỗ chỗ bày la liệt. Bồ tát
khắp trên tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử đây đều mỗi ngồi yên, mà các Thiên tử
chẳng thấy lẫn nhau, đều bảo Bồ tát riêng ngồi tòa mình, chứng được Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì nhân duyên này rất sanh vui mừng, đối Vô
thượng giác đều được chẳng quay lui. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo, tướng lông giữa mày phóng ánh sáng lớn soi khắp thế giới Tam
thiên đại thiên, cung điện các ma đều mất uy sáng. Khi ấy,
các ma vương đồng khởi nghĩ này: Vì duyên cớ nào có ánh sáng đây chói che
uy sáng cung điện chúng ta, đâu chẳng phải Bồ tát ngồi tòa Bồ đề sắp chứng
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Nghĩ rồi chung xem mới thấy Bồ tát ngồi tòa
Kim cương dưới cội Bồ đề. Thấy rồi kinh sợ, triệu tập ma quân vô lượng
trăm ngàn các thứ hình mạo khác nhau, cầm nhiều đồ kỹ năng, nhiều thứ
tràng phan, thét ra các thứ tiếng, năng khiến kẻ nghe những lỗ chân lông
đều chảy ra máu. Bấy giờ, Bồ tát dùng sức đại bi, khiến chúng ma quân
chẳng thể ra tiếng. Ðấy gọi Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
phương tiện khéo léo. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo nghĩ nhớ quá khứ vô lượng ức kiếp tinh tiến tu hành bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, từ bi hỷ xả, niệm trụ, chánh
đoạn, thần túc, căn, lực, nhánh giác, nhánh đạo, tịch chỉ diệu quán, ba
minh tám giải đều viên mãn. Nhớ rồi liền đưa bàn tay hữu sắc vàng tự rờ
trên đảnh cho đến khắp thân, nói lời như vầy: “Ta muốn cứu vớt các khổ cho
hữu tình mà khởi Ðại bi”. Khi các
ma vương và bọn quyến thuộc nghe tiếng Bồ tát nói, tức đều nhào lộn đầu!
Bấy giờ, Bồ tát dùng sức đại bi khiến các chúng ma nghe tiếng trên không:
“Các ngươi nên quy y, năng cho vô úy, cứu hộ tất cả Ðại Tiên tịnh giới”.
Ma chúa và bè lũ nghe tiếng ấy rồi, vẫn còn lăn lộn nằm trên đất, nói lời
như vầy: Cúi xin Ðại Tiên cứu hộ mạng tôi. Khi đó Bồ tát nương Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo phóng ánh sáng lớn, kia có kẻ gặp
đều lìa sợ hãi. Ma vương và bè lũ nhìn thấy thần biến đây vừa sợ run vừa
vui mừng hai việc lộn lòng. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo, khiến các hữu tình chỗ thấy mỗi khác. Là hoặc có thấy hàng ma
như thế, hoặc có hữu tình chẳng thấy việc ấy, hoặc thấy Bồ tát chỉ ngồi
tòa cỏ, hoặc thấy Bồ tát ngự trên đài Sư tử, hoặc thấy Bồ tát ngồi trên
mặt đất, hoặc thấy ngồi tòa Sư tử trên không. Thấy cội Bồ đề tướng nó cũng
khác, nghĩa là hoặc thấy đấy cội tất bát la, hoặc có thấy đấy là cội vẻ
trời tròn, hoặc thấy cội này các báu hiệp thành, hoặc thấy cội đây cao bảy
cây đà la, hoặc thấy cội ấy lượng tám muôn bốn ngàn do tuần, có tòa Sư tử
lượng bốn muôn hai ngàn do tuần ở dưới cội này, Bồ tát ngồi đó. Hoặc thấy
Bồ tát dạo đi trong không, hoặc thấy ngồi nơi dưới cội Bồ đề. Bồ tát như
thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, thị hiện các
thứ thần thông biến hóa độ các hữu tình. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo ngồi tòa Bồ đề, có vô lượng vô số vô biên Bồ tát ở mười phương
đều như Căng già sa cõi thảy đều đến nhóm, trụ giữa hư không, phát các thứ
tiếng an ủi Bồ tát khiến thân an vui, tâm sanh mừng rỡ: “Lành thay, Ðại
sĩ! Dũng mãnh tinh tiến, mau chóng thành cát tường rộng lớn, tâm như kim
cương, chớ sanh kinh sợ. Thần thông du dạo lợi vui hữu tình. Năng một sát
na chứng Nhất thiết trí. Bồ tát như thế ngự tòa Bồ đề, ma đến rối loạn đều
chẳng sanh giận. Tâm một sát na phương tiện khéo léo năng cùng tương ưng
lý thú Bát nhã Ba la mật đa đã đến rốt ráo, thông suốt tất cả khiến giác
sở tri”. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo ngồi tòa Bồ đề, có bao chư Phật mười phương đều như Căng già sa
cõi, khác miệng đồng tiếng khen rằng: “Hay thay, hay thay! Ðại sĩ mới năng
thông suốt được trí Tự Nhiên, trí Vô Ngại, trí Bình Ðẳng, trí Vô Sư, Ðại
Bi trang nghiêm. Ðại đức!
Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo năng làm được các thứ thị hiện như thế. Các loại hữu tình hoặc
thấy Bồ tát nay được Bồ đề. Hoặc thấy Bồ tát thành Phật đã lâu. Hoặc có
chỉ thấy bốn Ðại thiên vương trong một thế giới đều phụng dâng bát. Hoặc
lại có thấy bốn Ðại thiên vương mười phương cõi đều như cát Căng già đều
phụng dâng bát. Bồ tát bấy giờ, vì hữu tình nên tổng nhận các bát chồng
xấp trong bàn tay, lấy tay đè ấn khiến hiện thành một cái bát. Các bốn
Thiên vương đều chẳng thấy lẫn nhau, đều bảo Thế Tôn riêng nhận bát ta. Bấy giờ,
bèn có sáu vạn Thiên tử nương nguyện lực đời trước đến trước hiến cúng.
Kia ở quá khứ khởi nguyện này rằng: “Nếu Bồ tát này khi chánh thành Phật,
nguyện thọ cúng dường đầu tiên của chúng tôi!”. Khi
thuyết pháp đây ba vạn Bồ tát được Vô sanh nhẫn. Lại có ba vạn sáu ngàn Bồ
tát đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui. Tám vạn người trời
xa trần lìa bẩn, sanh mắt tịnh pháp. Vô lượng vô biên các loại hữu tình
đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Ðại đức
phải biết: Bấy giờ Bồ tát nương Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo, sắp muốn quay xe Ðại pháp. Kế Phạm vương chủ trì cõi Kham Nhẫn
kịp thời liền cùng sáu mươi tám vạn các chúng Phạm thiên đi đến chỗ Phật
đảnh lễ hai chân Phật, xếp tay cung kính quanh hữu bảy vòng khởi ba phen
thỉnh rằng:
“Cúi xin Ðại Bi thương xót chúng tôi
quay xe Ðại Pháp!
Cúi xin Ðại Bi thương xót chúng tôi
quay xe Ðại Pháp!
Cúi xin Ðại Bi thương xót chúng tôi
quay xe Ðại Pháp!” Ðã ba
thỉnh rồi, tức bèn hóa làm tòa Sư tử lớn. Lượng tòa ấy cao rộng bốn vạn
hai ngàn do tuần, các thứ trang nghiêm vững vàng yên ổn. Khi ấy,
mười phương cõi đều có vô lượng Thiên vương, Ðế Thích đều vì Như Lai trải
tòa Sư tử, lượng và trang nghiêm cũng lại như thế. Bồ tát bấy giờ hiện sức
thần thông chư Thiên kia đều thấy Bồ tát ngồi trên tòa mình mà quay xe
Pháp. Bồ tát đã ngồi tòa Sư tử đây, mới vào môn tam ma địa Vô biên cảnh,
phóng ánh sáng lớn soi mười phương phía thế giới đều ngang như cát Căng
già. Lại khiến các cõi kia sáu thứ biến động, hữu tình trong ấy tạm ngưng
các khổ, thân tâm an vui, cũng tạm xa lìa tham sân si thảy các pháp ác bất
thiện, đem lòng từ hướng nhau in như mẹ con. Khi đó
thế giới Tam thiên đại thiên đây chẳng có xen hở như một lỗ lông, trời,
rồng, dược xoa, kiện đạt phược thảy, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc,
mạt hô lạc già, người phi người thảy đầy rẫy nơi trong. Hoặc có hữu tình
kẻ nên nghe khổ pháp mà thọ hóa, nghe Phật nói khổ. Kẻ nên nghe vô ngã,
vắng lặng, xa lìa, vô thường, không pháp mà thọ hóa, cũng lại như thế. Kẻ nên
nghe như huyễn mà thọ hóa, nghe nói như huyễn. Kẻ nên nghe pháp như mộng,
vang, tượng, bóng sáng, ánh nắng, biến hóa, thành tầm hương mà thọ hóa
cũng lại như thế. Kẻ nên nghe không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà
thọ hóa, nghe Phật nói không, vô tướng, vô nguyện. Khi ấy,
loại hữu tình hoặc nghe Như Lai nói tất cả pháp sanh từ nhân duyên, hoặc
nghe nói uẩn, hoặc nghe nói giới, hoặc nghe nói xứ. Hoặc nghe nói khổ,
hoặc nghe nói tập, hoặc nghe nói diệt, hoặc nghe nói đạo. Hoặc có nghe nói
niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, nhánh giác, nhánh đạo. Hoặc nghe
nói tịch chỉ, diệu quán. Hoặc có nghe nói các pháp Thanh văn, hoặc có nghe
nói các pháp Ðộc Giác, hoặc có nghe nói các pháp Bồ tát. Bồ tát như thế
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo thị hiện các thứ
tướng quay xe Pháp theo căn tánh các hữu tình sai khác đều được lợi vui,
hết lòng mừng rỡ. Khi ấy,
Xá Lợi Tử gọi Tối Thắng rằng: Thiên vương! Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật
đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, có bao cảnh giới rất là sâu thẳm khó
nghĩ khó bàn, khó biết khó vào? Tối
Thắng thưa rằng: Ðại đức! Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo, thắng sự công đức vô lượng vô biên, tôi nay đã nói trăm
phần ngàn phần cho đến cực số phần chẳng được một phần. Duy có Như Lai mới
năng nói hết được. tôi nay đã nói chút phần kia đó đều nương sức uy thần
Như Lai. Vì cớ
sao? Vì cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, chúng các Bồ tát còn buộc
một đời nói công đức kia hãy chẳng thể hết, huống các Bồ tát. Ðại đức!
Phải biết cảnh giới chư Phật vắng lặng lìa lời nói, vô phân biệt trí và
hậu sở đắc trí mới có thể hết được. Ðại đức
phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được chứng vào cảnh giới chư Phật,
nên học Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, rốt ráo thông đạt tam
ma địa Kiện hành, tam ma địa Như huyễn, tam ma địa Kim cương dụ, tam ma
địa Kim cương luân, tam ma địa Vô động huệ, tam ma địa Khắp thông suốt,
tam ma địa Chẳng duyên cảnh giới, tam ma địa Sư tử tự tại, tam ma địa Tam
ma địa vương, tam ma địa Công đức trang nghiêm, tam ma địa Huệ vắng lặng,
tam ma địa Vượt khỏi khắp, tam ma địa Không nhiễm đắm, tam ma địa Huệ
trang nghiêm vương, tam ma địa Vô đẳng đẳng, tam ma địa Ðẳng học, tam ma
địa Chánh giác, tam ma địa Ðẹp ý, tam ma địa Vui mừng, tam ma địa Thanh
tịnh, tam ma địa Lửa ngọn, tam ma địa Sáng rực, tam ma địa Khó thắng, tam
ma địa Thường hiện tiền, tam ma địa Chẳng hòa hợp, tam ma địa Vô sanh, tam
ma địa Thông đạt, tam ma địa Tối Thắng, tam ma địa Vượt khỏi cảnh ma, tam
ma địa Tất cả trí huệ, tam ma địa Tướng cờ, tam ma địa Ðại bi, tam ma địa
An vui, tam ma địa Ái niệm và tam ma địa Chẳng thấy pháp thảy. Ðại đức
phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng học được Bát nhã Ba la mật đa phương
tiện khéo léo, bèn năng rốt ráo thông suốt được vô lượng vô biên Căng già
sa số môn tam ma địa đây thảy, mới năng chứng vào được cảnh giới chư Phật,
nơi tâm yên ổn không đều sợ hãi, như Sư tử chúa chẳng sợ cầm thú. Vì cớ
sao? Nếu Bồ tát Ma ha tát tu các tam ma địa như thế thảy, hễ có sở hành
đều không run sợ, chẳng thấy trước mặt có một oán địch. Vì cớ sao? Ngài Xá
Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo tâm không sở duyên, cũng không sở trụ. Ví như có người sanh
cõi Vô sắc sống tám vạn đại kiếp, chỉ có một thức không có chỗ trụ, cũng
không sở duyên. Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo tâm không sở duyên cũng không sở trụ. Vì cớ
sao? Các Bồ tát này tâm chẳng hành chỗ không hành, tâm chẳng tưởng chỗ
không tưởng, tâm chẳng duyên chỗ không duyên, tâm chẳng đắm chỗ không đắm,
tâm chẳng loạn chỗ không loạn, tâm không cao thấp, tâm không trái thuận,
không buồn mừng, không phân biệt, lìa phân biệt, lìa chỉ Xa ma tha quán Tỳ
bát xá na, tâm chẳng theo trí, tâm chẳng tự trụ cũng chẳng trụ đâu. Chẳng
nương trụ mắt, chẳng nương trụ tai mũi lưỡi thân ý. Chẳng nương trụ sắc,
chẳng nương trụ thanh hương vị xúc pháp. Tâm chẳng ở trong, cũng chẳng ở
ngoài, chẳng ở giữa hai, tâm chẳng duyên pháp, cũng chẳng duyên trí, chẳng
trụ ba đời, chẳng trụ lìa ba đời. Ðại đức!
Phải biết các Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo chẳng lấy một pháp mà đối các pháp trí kiến vô ngại. Vì tâm hành
tịnh nên thấy tất cả pháp thảy đều không bẩn. Chẳng lấy thấy tướng, thấy
không phân biệt, lìa các hý luận. Ðại đức!
Phải biết các Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo, chẳng tương ưng cùng tất cả nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn,
pháp nhãn, Phật nhãn, chẳng phải chẳng tương ưng. Cũng lại chẳng tương ưng
cùng tất cả thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, thần cảnh, lậu tận các trí, cũng
chẳng phải chẳng tương ưng. Ðại đức
phải biết: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo cùng tất cả
pháp đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Các Bồ tát Ma ha tát
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, đối tất cả pháp
được trí bình đẳng, năng quán tâm hành tất cả hữu tình, tất cả nhiễm tịnh
đều như thật biết. Ðối Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và
mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên công đức chư Phật đều
chẳng mất nhớ. Các Bồ
tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo
tâm không công dụng, đạt tất cả pháp không tâm ý thức, thường ở tịch định,
chẳng khởi tịch định mà giáo hóa hữu tình, thi tác Phật sự thường chẳng
nghỉ ngưng. Ðối các Phật pháp được trí vô ngại, tâm không nhiễm đắm, ví
như hóa Phật hóa làm Như Lai. Như Lai hóa ra không tâm ý thức, không thân
không thân nghiệp, không ngữ không ngữ nghiệp, không ý không ý nghiệp mà
năng thi tác được tất cả Phật sự nhiêu ích hữu tình. Vì cớ sao? Vì thần
lực Phật vậy. Bồ tát
như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo hóa làm ra
đó, không thân không thân nghiệp, không ngữ không ngữ nghiệp, không ý
không ý nghiệp, tâm không công dụng, thường làm Phật sự nhiêu ích hữu
tình. Vì cớ sao? Xá Lợi
Tử! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện
khéo léo, thông suốt các pháp đều như mộng thảy, tâm không phân biệt, mà
các hữu tình hằng nghe Phật pháp. Ðại đức!
Phải biết Các Bồ tát này có bao trí huệ chẳng trụ hữu vi, chẳng trụ vô vi,
chẳng trụ các uẩn và các giới xứ, chẳng trụ trong ngoài giữa hai bên,
chẳng trụ thiện ác và thế xuất thế, chẳng trụ nhiễm tịnh, hữu lậu vô lậu,
hữu vi vô vi, chẳng trụ ba đời và lìa ba đời, chẳng trụ hư không, trạch
chẳng trạch diệt. Các Bồ
tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, mặc dù
thường là tâm không chỗ trụ như thế mà năng thông suốt được tánh tướng các
pháp, dùng trí vô ngại tâm vô công dụng vì các hữu tình tuyên nói các
pháp, thường ở vắng lặng mà việc giáo hóa hữu tình không có ngưng nghỉ. Các Bồ
tát này nguyện lực đời trước mạnh, tâm không công dụng, vì người nói pháp.
Các Bồ tát này do Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo
thường không hãi sợ. Vì cớ sao? Vì Thần cầm kim cương, hoặc đi hoặc đứng
hoặc ngồi hoặc nằm hằng thường theo dõi mà giữ hộ vậy. Ðại đức
phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
như thế tâm chẳng kinh sợ không ngờ không nghi, phải biết đã được nhận ký
Bồ đề. Vì cớ
sao? Vì tín thọ Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo gần cảnh giới
Phật. Nhờ nhất tâm đây tức năng thông suốt được tất cả Phật Pháp. Vì thông
suốt Phật Pháp nên lợi vui hữu tình, chẳng thấy hữu tình cùng Phật Pháp có
khác. Vì cớ sao? Vì hữu tình Phật Pháp lý không hai vậy.
Nguồn: www.quangduc.com