Cụ thọ Xá Lợi Tử thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát làm sao khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa phương tiện khéo léo. Nhờ sức phương tiện khéo léo đây, nên dù quán
các pháp đều vô tự tánh, đều chẳng thật có, mà nương thế tục, phát tới Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói các pháp khiến được
chính hiểu xa lìa điên đảo? Phật bảo: Xá Lợi Tử! Các Bồ tát
Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo ấy, nghĩa
là đều chẳng thấy có chút thật pháp khá trụ nơi trong, bởi trụ nơi trong
mà có quái ngại, bởi vì quái ngại mà có lui mất, bởi vì lui mất tâm bèn
yếu ớt, vì tâm yếu ớt mới sanh biếng nhác. Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp đều
vô thật sự, vô ngã, ngã sở, đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Bản tánh vắng
lặng, tự tướng vắng lặng, chỉ có ngu phu dị sanh mê lầm điên đảo chấp đắm
sắc uẩn, thọ tưởng hành thức uẩn. Chấp đắm nhãn xứ, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ. Chấp đắm sắc xứ, chấp đắm thanh hương vị xúc pháp xứ. Chấp đắm nhãn giới, chấp đắm
nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Chấp đắm sắc giới, chấp đắm thanh hương vị xúc
pháp giới. Chấp đắm nhãn thức giới, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý thức
giới. Chấp đắm nhãn xúc, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chấp đắm nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ. Chấp đắm địa giới; chấp đắm
thủy hỏa phong không thức giới. Chấp đắm nhân duyên; chấp đắm đẳng vô gián
duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Chấp đắm các pháp theo duyên
sanh ra. Chấp đắm vô minh; chấp đắm hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc,
thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Chấp đắm bố thí Ba la
mật đa; chấp đắm tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật
đa. Chấp đắm nội không; chấp đắm
ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không,
hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến
dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết
pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự
tánh không. Chấp đắm bốn niệm trụ; chấp đắm
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi. Chấp đắm khổ thánh đế, chấp đắm tập diệt đạo thánh đế. Chấp
đắm bốn tĩnh lự; chấp đắm bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chấp đắm tám giải
thoát; chấp đắm tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chấp đắm đà
la ni môn, chấp đắm tam ma địa môn. Chấp đắm không giải thoát môn; chấp
đắm vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chấp đắm Cực hỷ địa; chấp đắm
Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền
địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Chấp đắm
năm nhãn, chấp đắm sáu thần thông. Chấp đắm Phật mười lực; chấp
đắm bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng. Chấp đắm ba mươi hai tướng đại sĩ, chấp đắm tám
mươi tùy hảo. Chấp đắm pháp vô vong thất, chấp đắm tánh hằng trụ xả. Chấp
đắm nhất thiết trí; chấp đắm đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chấp đắm quả Dự lưu; chấp đắm
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Chấp đắm tất cả hạnh Bồ
tát ma ha tát, chấp đắm chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chấp đắm dị
sanh. Chấp đắm Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma
ha tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này
các Bồ tát Ma ha tát quán tất cả pháp đều vô thật sự, vô ngã, ngã sở, đều
lấy vô tánh mà làm tự tánh, bản tánh vắng lặng, tự tướng vắng lặng, tu
hành Bát nhã Ba la mật đa tự tánh như huyễn sư vì hữu tình thuyết pháp.
Nghĩa là kẻ xan tham vì thuyết bố thí, khiến tu bố thí Ba la mật đa. Hoặc
kẻ phá giới vì thuyết tịnh giới, khiến tu tịnh giới Ba la mật đa. Hoặc kẻ
giận dữ vì thuyết an nhẫn, khiến tu an nhẫn Ba la mật đa. Hoặc kẻ biếng
nhác vì thuyết tinh tiến, khiến tu tinh tiến Ba la mật đa. Hoặc kẻ tán
loạn vì thuyết tĩnh lự, khiến tu tĩnh lự Ba la mật đa. Hoặc kẻ ngu si vì
thuyết bát nhã, khiến tu bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát này
an lập hữu tình khiến trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
bát nhã Ba la mật đa rồi, lại vì tuyên nói Thánh pháp thù thắng năng ra
sanh tử. Các loại hữu tình nương đó tu học, hoặc được quả Dự lưu, hoặc
được quả Nhất lai, hoặc được quả Bất
hoàn, hoặc được quả A la hán, hoặc được quả Độc giác Bồ đề, hoặc vào ngôi
Bồ tát Ma ha tát, hoặc được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa,
vì sao chẳng gọi kẻ hữu sở đắc, nghĩa là các hữu tình thật vô sở hữu mà
khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la
mật đa. Lại vì tuyên nói Thánh pháp thù thắng năng ra sanh tử, hoặc khiến
được quả Dự lưu, hoặc khiến được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc
giác Bồ đề, hoặc khiến vào ngôi Bồ tát Ma ha tát, hoặc khiến Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề? Phật bảo: Xá Lợi Tử! Các Bồ tát
Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối các hữu tình chẳng phải hữu
sở đắc. Vì cớ sao? Vì các pháp như thế đều vô tự tánh khá hiệp ly vậy. Xá
Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy
hữu tình chút thật khả đắc, chỉ có thế tục giả thuyết hữu tình. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát này
khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa an trụ hai đế, vì các hữu tình tuyên nói
Chánh pháp. Sao gọi hai đế? Là thế tục đế và thắng nghĩa đế. Xá Lợi Tử! Tuy trong hai đế hữu
tình chẳng khả đắc, thi thiết hữu tình cũng chẳng khả đắc, mà các Bồ tát
Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo vì các hữu
tình tuyên nói pháp yếu. Các loại hữu tình nghe pháp này rồi, đối trong
hiện pháp hãy chẳng được ngã, huống là sẽ được chứng quả sở cầu. Như vậy,
Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo
léo. Tuy vì hữu tình tuyên nói chánh pháp, khiến tu chánh hạnh, đắc quả sở
chứng, mà tâm đối kia đều vô sở đắc. Cụ thọ Xá Lợi Tử thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát này là chơn Bồ tát Ma ha tát, tuy
đối các pháp chẳng đắc nhất tánh, chẳng đác dị tánh, chẳng đắc tổng tánh,
chẳng đắc biệt tánh mà mặc giáp đại công đức như thế. Do giáp đại công đức
như thế nên chẳng hiện cõi Dục, chẳng hiện cõi Sắc, chẳng hiện cõi Vô sắc,
chẳng hiện cõi hữu vi, chẳng hiện cõi vô vi. Tuy hoá hữu tình khiến thoát
ba cõi mà đối hữu tình đều vô sở đắc, cũng lại chẳng đắc thi thiết hữu
tình. Vì thi thiết hữu tìnhchẳng khả đắc nên không buộc không mở. Vì không
buộc không mở nên không nhiễm không tịnh. Vì không nhiễm không tịnh nên
chẳng khá rõ biết các thú sai khác. Vì chẳng khá rõ biết các thú sai khác
nên không nghiệp, không phiền não. Vì không nghiệp không phiền não nên
cũng không có quả dị thục. Đã không quả dị thục nói sao được có ngã và hữu
tình trôi lăng các thú hiện ở ba cõi các thứ sai khác? Phật bảo: Xá Lợi Tử! Như vậy,
như vậy. Như ngươi đã nói. Xá Lợi Tử! Nếu loại hữu tình trước có sau
không, Bồ tát, Như Lai lẽ có lầm lỗi; nếu các thú sanh tử trước có sau
không, thời Bồ tát, Như Lai cũng có lầm lỗi; trước không sau có, lẽ cũng
chẳng nhằm. Vậy nên, Xá Lợi Tử! Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp
tướng thường trụ trọn không cải chuyển. Vì tất cả pháp, pháp tánh, pháp
giới, pháp định, pháp trụ, chơn như, thật tế, tánh chẳng hư đối, tánh
chẳng biếng khác, in như hư không. Trong đây hãy không có ngã, không có
hữu tình, không mạng giả, không sanh giả, không dưỡng giả, không sỉ phu,
không bổ đặc già la, không ý sanh, không nho đồng, không tác giả, không
khiến tác giả, không khởi giả, không khiến khởi giả, không thọ giả, không
khiến thọ giả, không tri giả, không khiến tri giả, không kiến giả, không
khiến kiến giả, huống là có sắc, có thọ tưởng hành thức. Có nhãn xứ, có
nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Có sắc xứ, có thanh hương vị xúc pháp xứ. Có nhãn
giới, có nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Có sắc giới, có thanh hương vị xúc pháp
giới. Có nhãn thức giới, có nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Có nhãn xúc, có
nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, có nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Có địa giới, có thủy hỏa phong
không thức giới. Có các duyên khởi, có pháp duyên sanh, có nhánh duyên
khởi. Đã không có các pháp sở thuyết như thế làm sao đương có các thú sanh
tử. Các thú sanh tử đã chẳng khá được, làm sao đương có thành thục hữu
tình khiến kia giải thoát, duy nương thế tục giả nói là có? Xá Lợi Tử! Vì pháp như thế tự
tánh đều không. Các Bồ tát Ma ha tát theo Phật quá khứ như thật nghe rồi,
vì thoát điên đảo chấp trước hữu tình phát tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Với khi phát tới chẳng khởi nghĩ này: Ta đối pháp đây đã được, sẽ được
khiến hữu tình kia đã độ, sẽ độ các khổ bị chấp trước phải ở sanh tử. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát này
vì thoát điên đảo chấp trước hữu tình, mặc áo giáp công đức, đại thệ làn
trang nghiêm dũng mãnh chính siêng, không đoái tiếc gì, chẳng lui Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề, thường đối Bồ đề chẳng khởi do dự rằng ta sẽ
chứng, chẳng sẽ chứng ư? Mà hằng khởi nghĩ này: Ta ắt sẽ chứng sở cầu Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề làm nhiêu ích chơn thật cho các hữu tình, nghĩa là
khiến giải thoát mê lầm điên đão, qua lại các thú chịu khổ sanh tử. Xá Lợi
Tử! Bồ tát Ma ha tát này dù thoát mê lầm sanh tử điên đão các thú cho hữu
tình mà vô sở đắc, chỉ nương thế tục nói có việc này. Xá Lợi Tử! Như huyễn sư giỏi
hoặc học trò y dùng thuật đế võng hoá làm vô thượng trăm ngàntrăm ức loại
hữu tình, lại hoá nhiều thức ăn uống ngon nhất cho hoá hữu tình đều khiến
no nê. Làm việc này rồi, vui mừng xướng rằng: Ta đã thu được đống phước
rộng lớn. Xá Lợi Tử! Nơi ý hiểu sao? Huyễn sư như thế hoặchọc trò y thật
khiến hữu tình được no nê chăng? Xá Lợi Tử nói: Bạch Thế Tôn! chẳng thật.
Bạch Thiện Thệ! Chẳng được. Phật bảo: Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma
ha tát cũng lại như thế. Từ sơ phát âm muốn độ thoát các hữu tình nên tu
hành bố thí Ba la mật đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
bát nhã Ba la mật đa. An trụ nội không; an trụ ngoại
không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi
không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp
không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không. Tu hành bốn niệm trụ; tu hành
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi. An trụ khổ thánh đế, an trụ tập diệt đạo thánh đế. Tu hành
bốn tĩnh lự; tu hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải
thoát; tu hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Tu hành đà la
ni môn, tu hành tam ma địa môn. Tu hành không giải thoát môn, tu hành vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Cực hỷ địa; tu hành Ly
cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa,
Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Tu hành năm
nhãn, tu hành sáu thần thông. Tu hành Phật mười lực; tu hành
bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng. Tu hành ba mươi hai tướng đại sĩ, tu hành tám mươi tùy
hảo. Tu hành pháp vô vong thất, tu hành tánh hằng trụ xả. Tu hành nhất
thiết trí; tu hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Viên mãn Bồ tát Ma
ha tát đạo Đại bồ đề, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Xá Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát
dù làm việc này mà đối hữu tình và tất cả pháp đều vô sở đắc. Chhảng khởi
nghĩ này: Ta đem pháp đây điều phục các loại hữu tình như thế. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao gọi Bồ tát Ma ha tát đạo Đại bồ đề, các Bồ
tát Ma ha tát tu hành đạo này phương tiện khéo léo thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật? Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát từ sơ phát tq6mà có khá được sở hành bố thí Ba la mật đa; sở
hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Sở hành nội không; sở hành
ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không,
hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến
dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết
pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự
tánh không. Sở hành bốn niệm trụ; sở hành
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi. Sở hành khổ thánh đế, sở hành tập diệt đạo thánh đế. Sở
hành bốn tĩnh lự; sở hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Sở hành tám giải
thoát; sở hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Sở hành đà la
ni môn, sở hành tam ma địa môn. Sở hành không giải thoát môn, sở hành vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn. Sở hành Cực hỷ địa; sở hành Ly
cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa,
Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Sở hành năm
nhãn, sở hành sáu thần thông. Sở hành Phật mười lực; sở hành
bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng. Sở hành pháp vô vong thất, sở hành tánh hằng trụ xả.
Sở hành nhất thiết trí; sở hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Và vô
lượng vô biên Phật pháp khác đều là Bồ tát Ma ha tát đạo Đại bồ đề. Các Bồ
tát Ma ha tát tu hành đạo đây phương tiện khéo léo thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, mà không tưởng hữu tình cõi Phật thảy. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa
phương tiện khéo léo thành thục hữu tình? Phật bảo: Thiện Hiện! Có Bồ tát
Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo tự hành bố
thí, cũng khuyên người hành bố thí, ân cần dạy trao dạy bảo người rằng:
Các thiện nam tử! Chớ chấp bố thí, nếu chấp bố thí sẽ thọ thân lại, nếu
thọ thân lại do đây chuyển lần sẽ bị vô lượng khổ lớn ghê tởn. Các thiện nam tử! Trong thắng
nghĩa đế đều vô bố thí, cũng vô kẻ thí, cũng vô kẻ thọ, cũng vô vật thí,
cũng vô quả thí. Các pháp như thế đều bản tánh không. Trong bản tánh không
vô pháp khá lấy, tánh các pháp không cũng chẳng khá lấy. Như vậy, Thiện
Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành bố thí Ba la mật đa, dù đối hữu
tình tự hành nơi thí, cũng khuyên người thí, mà đối bố thí, kẻ thí kẻ thọ,
vật thí quả thí đều vô sở đắc. Bố thí Ba la mật đa như thế tên vô sở đắc
Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát này khi đối các pháp đây vô sở đắc, phương
tiện khéo léo, mới năng giáo hóa hữu tình được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất
lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc tới
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa nương pháp bố thí thành thục hữu tình khiến
được lợi vui. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này tự hành bố thí Ba la mật đa, cũng khuyên người hành bố thí Ba la mật
đa, xưng nêu không trái pháp hành Bồ tát Ma ha tát, vui mừng khen ngợi kẻ
hành bố thí Ba la mật đa. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này tu hành bố thí lớn như thế rồi, hoặc sanh trong chúng đồng phận đại
tộc Sát đế lợi, hoặc sanh trong chúng đồng phận đại tộc Bà la môn, hoặc
sanh trong chúng đồng phận đại tộc Trưởng giả, hoặc sanh trong chúng đồng
phận đại tộc Cư sĩ, hoặc làm Tiểu vương ở cõi tiểu quốc giàu sang tự tại,
hoặc làm Đại vương ở cõi đại quốc giàu sang tự tại, hoặc làm Luân vương ở
cõi bốn châu giàu sang tự tại. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này sanh những
chỗ cao sang như thế thảy, rồi đem bốn nhiếp sự thu nhiếp các hữu tình.
Những gì là bốn? Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng
sự. Bồ tát Ma ha tát này khi đem bốn nhiếp sự thu nhiếp hữu tình, trước
dạy hữu tình an trụ bố thí. Do đây lần tới khiến trụ tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã. Lại khiến an trụ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng,
bốn vô sắc định. Lại khiến an trụ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Lại khiến an
trụ không tam ma địa, vô tướng tam ma địa, vô nguyện tam ma địa. Bồ tát Ma
ha tát này khiến các hữu tình trụ các thiện pháp như thế thảy rồi, hoặc
khiến tới vào Chánh tánh ly sanh được quả Dự lưu, được quả Nhất lai, được
quả Bất hoàn, được quả A la hán; hoặc khiến tới vào Chánh tánh ly sanh lần
nữa chứng được Độc giác Bồ đề; hoặc khiến tới vào Chánh tánh ly sanh lần
nữa tu học các bậc Bồ tát mau tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Lại bảo kia
rằng: Các thiện nam tử nên phát đại nguyện mau tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề làm lợi ích an vui các hữu tình. Các loại hữu tình đã chấp các pháp đều
vô tự tánh, chỉ do điên đảo hư dối phân biệt cho đó là có. Vậy nên, các
ngươi thường phải tinh siêng tự dứt điên đảo, cũng nên dạy người khiến dứt
điên đảo. Tự thoát sanh tử, cũng nên dạy người khiến thoát sanh tử. Tự
được đại lợi, cũng nên dạy người khiến được đại lợi. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát thường phải tu hành bố thí Ba la mật đa như thế. Do bố thí Ba la mật
đa đây, từ sơ phát tâm cho đếứu cánh chẳng đọa ác thú. Vì muốn làm nhiêu
ích các hữu tình nên nhiều phen sanh nhân thú làm vua Chuyển Luân. Sở dĩ
vì sao? Tùy thế lực hạt giống được quả như thế. Nghĩa là khi Bồ tát kia
làm Luân Vương, thấy kẻ hành khất đến bèn khởi nghĩ này: Ta vì việc chi
phải trôi lăn sanh tử làm vua Luân Vương? Ta đâu chẳng vì lợi vui hữu tình
trụ trong sanh tử hưởng thắng quả đây, chẳng bởi việc gì khác. Khởi nghĩ
này rồi, bảo hành khất rằng: Tùy ngươi cần dùng, đều sẵn thí cho. Khi
ngươi lấy của, như lấy của mình, chớ nghĩ của ai. Sở dĩ vì sao? Bởi ta vì
các ngươi được lợi vui mà thọ thân đây chứa nhóm của cải, nên của cải này
là các ngươi sở hữu, tùy các ngươi tự lấy, hoặc tự thọ dụng, hoặc chuyển
cho người chớ có nghi nan. Bồ tát Ma ha tát này khi thương
xót các hữu tình như thế, vô duyên đại bi mau được viên mãn. Do đại bi đây
mau viên mãn nên tuy thường lợi vui vô lượng hữu tình, mà đối hữu tình đều
vsd, cũng lại chẳng đắc chỗ được thắng quả. Năng như thật biết chỉ do giả
tưởng lời nói thế tục thi thiết việc lợi vui các hữu tình. Lại như thật
biết việc đã thi thiết đều như tiếng vang trong hang. Tuy hiện như có mà
không chơn thật, do đối pháp này đều không chỗ lấy. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát thường nên tu hành bố thí Ba la mật đa như thế, nghĩa là đối hữu tình
đều không lẫn tiếc, cho đếăng thí xương thịt nơi tự thân, huống chẳng
năng thí các đồ tư cụ bên ngoài. Nghĩa là các đồ tư cụ nhiếp thọ hữu tình
khiến mau giải thoát sanh lão bệnh tử. Khi ấy cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những tư cụ gì nhiếp các hữu tình khiến mau giải
thoát sanh lão bệnh tử? Phật bảo: Thiện Hiện! Chỗ gọi
tư cụ bố thí Ba la mật đa; hoặc tư cụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa. Hoặc tư cụ nội không; hoặc tư cụ ngoại không,
nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không,
vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn
tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất
khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Hoặc
tư cụ bốn niệm trụ; hoặc tư cụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Hoặc tư cụ khổ thánh đế; hoặc
tư cụ tập diệt đạo thánh đế. Hoặc tư cụ bốn tĩnh lự; hoặc tư
cụ bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc tư cụ tám giải thoát; hoặc tư cụ
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Hoặc tư cụ đà la ni môn, tam
ma địa môn. Hoặc tư cụ không giải thoát môn; hoặc tư cụ vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn. Hoặc tư cụ Cực hỷ địa; hoặc tư
cụ Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền
địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Hoặc tư cụ
năm nhãn, hoặc tư cụ sáu thần thông. Hoặc tư cụ Phật mười lực; hoặc
tư cụ bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng. Hoặc tư cụ pháp vô vong thất, hoặc tư cụ tánh hằng
trụ xả. Hoặc tư cụ nhất thiết trí; hoặc tư cụ đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí. Hoặc tư cụ quả Dự lưu; hoặc tư
cụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Hoặc tư cụ tất cả
hạnh Bồ tát ma ha tát. Hoặc tư cụ chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Tư cụ như thế nhiếp
các hữu tình khiến mau giải thoát sanh lão bệnh tử. Các Bồ tát Ma ha tát
hằn đem các thứ tư cụ như thế nhiếp các hữu tình khiến được mau giải thoát
sanh lão bệnh tử, được đại nghĩ a lợi. Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa, tự hành bố thí, khuyên các hữu tình
hành bố thí rồi, thấy các hữu tình hủy phạm tịnh giới, rất sanh thương xót
mà bảo nó rằng: Các ngươi đều nên thọ trì tịnh giới, ta sẽ cấp ngươi đồ
dùng ăn uống, áo mặc, đồ nằm, nhà cửa, xe cộ, ngọc ma ni châu, ngọc phệ
lưu ly, ngọc phả chi ca, ngọc đế thanh, đại thanh, vàng, bạc, ngọc bích,
loa bối, san hô và nhiều thứ trân bảo giá trị hơn nữa; hương hoa, phan
lọng, bệnh duyên thuốc chữa, cho đến các thứ đồ dùng giúp sự sống khác đều
cấp thí cho nhau để khỏi thiếu thốn. Bởi các ngươi thiếu thốn các vật giúp
sống nên hủy phạm tịnh giới gây các ác nghiệp. Ta sẽ tùy chỗ ngươi thiếu
thốn đồ tư cự ăn uống cho đến bệnh duyên thuốc chữ và những gì bị thiếu
thốn đều sẽ cấp cho các ngươi. Các ngươi an trụ luật nghi giới rồi, lần
lữa sẽ năng làm ngằn mé khổ, hoặc nương Thanh văn thừa mà được ra khỏi,
hoặc nương Độc giác thừa mà được ra khỏi, hoặc nương Vô thượng thừa mà
được ra khỏi. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này an trụ bố thí Ba la mật đa,
tự thọ trì tịnh giới, cũng khuyên người thọ trì thịnh giới, xưng nêu không
trái pháp thọ trì tịnh giới, vui mừng khen ngợi kẻ thọ tì tịnh giới. Như
vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành bố thí Ba la mật đa, khuyên
các hữu tình an trụ tình giới giải thoát sanh tử được thắng lợi vui. Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa, thấy các hữu tình giận giữ cùng
nhau, rất sanh thương xót mà bảo nó rằng: Duyên gì các ngươi khởi hờn giận
nhau? Nếu các ngươi vì bị có thiếu thốn, nên cùng gây gổ nhau khởi ra ác
này, phải đòi nơi ta, ta sẽ giúp ngươi, tùy ngươi cần dùng ăn uống, áo
mặc, đồ nằm, nhà cửa, xe cộ, tôi tớ, ngọc báu, hương hoa, bệnh duyên chữa
thuốc, kỹ nhạc, phan lọng, chuỗi ngọc, đèn sáng, và các đồ tư cụ cần dùng
khác, đều sẽ cấp cho ngươi khỏi bị thiếu thốn. Các ngươi chẳng nên giận
giữ cùng nhau mà nên tu an nhẫn, cùng khởi từ tâm. Thiện Hiện! Bồ tát Ma
ha tát này an trụ bố thí Ba la mật đa, khuyên các hữu tình tu an nhẫn rồi,
muốn cho kiên cố lại bảo nó rằng: Nhân duyên giận giữ đều vô định thật,
đều bởi hư vọng phân biệt sanh ra, vì tất cả pháp bản tánh không vậy.
Duyên gì các ngươi với việc vô thật quấy khởi tức giận, mắng nhiếc lẫn
nhau, cầm dao gậy thảy mà gia hại nhau? Các ngươi chớ vin hư dối phân
biệt, sanh ngang giận giữ gây các ác nghiệp, sẽ đọa địa ngục, bàng sanh,
quỷ giới và các chỗ ác khác, chịu các khổ dữ dội. Khỗ độc dữ kia cứng mạnh
bén sướt, bức cắt thân tâm rất nỗi khó chịu. Các ngươi chớ chấp việc chẳng
thật có, quấy khởi tức giận gây tội nghiệp này. Bởi tội nghiệp đây, thân
người hèn kém hãy khó khá được, huống sanh gặp Phật đời. Các ngươi nên
biết: Thân người khó được, Phật đời khó gặp, sanh tin càng khó. Ngày nay
các ngươi đã đủ việc này chớ bởi tức giận mà mất thời tốt, nếu mất thời
đây thì khó cứu vãn. Vậy nên, các ngươi nếu mất thời đối các hữu tình chớ
khởi giận dữ, phải Tướng khác an nhẫn. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này an
trụ bố thí Ba la mật đa tự hành an nhẫn, cũng khuyên người hành an nhẫn,
xưng nêu không trái pháp hành an nhẫn, vui mừng khen ngợi kẻ hành an nhẫn.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa
khuyên các hữu tình do đây lần lữa, lần nương Tám giải thoát, tám tháng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, thừa mà được giải thoát. Nghĩa là hoặc
nương Thanh văn thừa mà được giải thoát, hoặc nương Độc giác thừa mà được
giải thoát, hoặc nương Đại thừa mà được giải thoát. Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa, thấy các hữu tình thân tâm biếng
nhác rất sanh thương xót mà bảo nó rằng: Duyên gì các ngươi chẳng siêng
tinh tiến Tướng khác các pháp lành mà sanh biếng nhác? Kia đáp lại rằng:
Tôi thiếu tư cụ nên đối việc lành chuyên Tướng khác chẳng được. Bồ tát bảo
rằng: Ta năng thí ngươi những tư cụ bị thiếu, ngươi nên chuyên Tướng khác
pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn. Khi ấy các hữu tình được Bồ tát này thí
cho tư cụ không bị thiếu thốn, mới năng phát khởi tinh tiến thân tâm Tướng
khác các pháp lành mau được viên mãn. Do nghiệp này nên thi thiết người
các pháp lành được viên mãn nên lần hồi dẫn sanh các pháp vô lậu. Do pháp
vô lậu hoặc được Độc giác Bồ đề; hoặc có kẻ tới vào Bồ tát địa, dần dần
được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này an trụ
bố thí Ba la mật đa, tự hành tinh tiến, cũng khuyên người hành tinh tiến,
vui mừng ngợi khen kẻ hành tinh tiến. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma
ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa khiến các hữu tình xa lìa biếng nhác
siêng Tướng khác các lành mau được giải thoát. Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa, thấy các hữu tình tán loạn mất nhớ
rất sanh thương xót mà bảo nó rằng: Duyên gì các ngươi chảng Tướng khác
tĩnh lự, tán loạn mất nhớ, chìm đắm sanh tử? Kia đáp lại rằng: Tôi thiếu
tư cụ nên đối tĩnh lự Tướng khác tập chẳng được. Bồ tát bảo rằng: Tam ma
địa năng thí ngươi những tư cụ bị thiếu, các ngươi từ nay chẳng nên khởi
lại tìm cầu hư dối, vin lấy rối loạn trong ngoài nơi tự tâm. Khi ấy các
hữu tình được Bồ tát này thí cho tư cụ không bị thiếu thốn, mới năng đè
dứt tìm cầu hư dối vào sơ tĩnh lự lại năng phát khởi từ bi hỷ xả, bốn thứ
phạm trụ, tĩnh lự, vô lượng làm chỗ nương dựa, lại năng lần vào bốn định
vô sắc. Tĩnh lự, vô lượng, vô sắc điều tâm khiến mềm mại rồi, Tướng khác
bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng
giác chi, tám thánh đạo chi, không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
thảy các thứ pháp lành, tùy kia sở ưng được quả Tám giải thoát, tám tháng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, thừa. Nghĩa là hoặc chứng được Độc
giác Niết bàn, hoặc chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này an trụ bố thí Ba la mật đa tự tu tĩnh lự, cũng khuyên người tu tĩnh
lự. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa
khuyên các hữu tình xa lìa tán loạn tu các tĩnh lự được đại nhiêu ích. Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa, thấy các hữu tình ngu si điên đảo
rất sanh thương xót mà bảo nó rằng: Duyên gì các ngươi chẳng Tướng khác
bát nhã, ngu si điên đảo sanh tử lộn quanh? Kia đáp lại rằng: Tôi thiếu tư
cụ đối thắng trí huệ Tướng khác tập chẳng được. Bồ tát bảo rằng: Tam ma
địa năng cho ngươi những tư cụ gì bị thiếu, ngươi khá nhận lấy. Trước
Tướng khác bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự được viên mãn
rồi, nên quán sát kỹ thật tướng các pháp, tu hành Bát nhã Ba la mật đa.
Nghĩa là với lúc bấy giờ quan sát kỹ vì có chút pháp nào mà khá được hay
chăng? Nghĩa là hoặc ngã, hoặc hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ
phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến thọ giả, tri giả,
khiến tri giả, kiến giả, khiến kiến giả hãy khá được chăng? Hoặc sắc, hoặc thọ tưởng hành
thức hãy khá được chăng? Hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hãy khá
được chăng? Hoặc sắc xứ, hoặc thanh hương vị xúc pháp xứ hãy khá được
chăng? Hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ tỷ
thiệt thân ý giới hãy khá được chăng? Hoặc sắc giới, hoặc thanh hương vị
xúc pháp giới hãy khá được chăng? Hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ tỷ thiệt
thân ý thức giới hãy khá được chăng? Hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân
ý xúc hãy khá được chăng? Hoặc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc
nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hãy khá được chăng? Hoặc địa giới, hoặc thủy hỏa
phong không thức giới hãy khá được chăng? Hoặc nhân duyên, hoặc đẳng vô
gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hãy khá được chăng? Hoặc các
pháp theo duyên sanh ra hãy khá được chăng? Hoặc vô minh, hoặc hành, thức,
danh sắc, lục xứ, xúc, thọ,ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não
hãy khá được chăng? Hoặc cõi Dục, hoặc cõi Sắc, Vô sắc hãy khá được chăng?
Hoặc bố thí Ba la mật đa, hoặc
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa hãy khá được
chăng? Hoặc nội không, hoặc ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán
không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không hãy khá được chăng? Hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi
hãy khá được chăng? Hoặc khổ thánh đế, hoặc tập diệt đạo thánh đế hãy khá
được chăng? Hoặc bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định hãy khá
được chăng? Hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ hãy khá được chăng? Hoặc đà la ni môn, hoặc tam ma địa môn hãy khá
được chăng? Hoặc không giải thoát môn, hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn hãy khá được chăng? Hoặc Cực hỷ địa, Ly cấu địa,
Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành
địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa hãy khá được chăng? Hoặc
năm nhãn, sáu thần thông hãy khá được chăng? Hoặc Phật mười lực; hoặc bốn vô
sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất
công hãy khá được chăng? Hoặc pháp vô vong thất, hoặc tánh hằng trụ xả hãy
khá được chăng? Hoặc nhất thiết trí, hoặc đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí hãy khá được chăng? Hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề hãy khá được chăng? Hoặc tất cả
hạnh Bồ tát Ma ha tát, hoặc chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hãy khá
được chăng? Các hữu tình kia đả được tư cụ
không bị thiếu thốn, y lời Bồ tát trước tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự được viên mãn rồi, lại quan sát kỹ thật tướng các pháp
tu hành bát nhã Ba la mật đa. Khi quan sát kỹ như trước đã thuyết, thật
tánh các pháp đều chẳng khá được. Vì chẳng khá được nên không bị chấp đắm.
Vì chẳng chấp đắm nên chẳng thấy chút pháp có sanh có diệt, có nhiễm có
tịnh. Khi kia đối các pháp vô sở đắc, đối tất cả xứ chẳng khởi phân biệt.
Nghĩa là chẳng phân biệt đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ
giới, đây là Bạch Thiện Thệ! tố lạc, đây là người, đây là trời, đây là trì
giới, đây là phạm giới, đây là dị sanh, đây là Thánh giả, đây là Dự lưu,
đây là Nhất Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần
thông, đây là Bất hoàn, đây là A la hán, đây là Độc giác, đây là Bồ tát,
đây là Như Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần
thông, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Bởi kia vì không phân biệt
như thế nên tùy cho sở ưng, lần hồi chứng được Tam thừa Niết bàn. Nghĩa là
Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Vô thượng thừa. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này an trụ bố thí Ba la mật đa, tự tu bát nhã, cũng khuyên người Tướng
khác bát nhã, xưng nêu không trái pháp Tướng khác bát nhã. Như vậy, Thiện
Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa, khuyên các hữu tình
tu hành bát nhã khiến được lợi ích an vui thù thắng. Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa tự hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, cũng khuyên người hành bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa rồi, lại thấy
hữu tình lộn quanh các thú, chịu vô lượng khổ chưa được giải thoát. Vì
muốn khiến kia thoát khổ sanh tử nên trước đem các thứ tư cụ làm nhiều
ích, sau dùng các pháp vô lậu xuất thế, phương tiện kéo léo mà nhiếp thọ
nó. Các hữu tình kia đã được tư cụ không bị thiếu thốn nữa, thân tâm dũng
quyết năng trụ nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán
không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không. Cũng năng tu bốn niệm trụ, bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi. Cũng năng trụ khổ thánh đế, tập diệt đạo thánh đế. Cũng năng tu bốn tĩnh lự, bốn
vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng năng tu tám giải thoát, tám tháng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng năng tu đa la ni môn, tam ma địa môn. Cũng
năng tu không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng năng tu Cực hỷ địa, Ly cấu
địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn
hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Cũng năng tu năm
nhãn, sáu thần thông. Cũng năng tu Phật mười lực, bốn
vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật
bất công. Cũng năng tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng năng tu
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Các hữu tình kia do
pháp vô lậu nhiếp thọ nên được giải thoát sanh tử. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này an trụ bố thí Ba la mật đa tự jhành các thứ pháp thắng vô lậu, cũng
khuyên người hành các thứ pháp thắng vô lậu, xưng nêu không trái pháp hành
các thứ pháp thắng vô lậu, vui mừng khen ngợi kẻ hành các thứ pháp thắng
vô lậu. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa đem pháp vô lậu nhiếp thọ hữu tình
khiến thoát sanh tử được vui thắng lợi.