Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói tám giải
thoát hoặc thường hoặc vô thường; nói tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ hoặc thường hoặc vô thường. Nói tám giải thoát hoặc vui hoặc khổ;
nói tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc vui hoặc khổ. Nói
tám giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã; nói tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói tám giải thoát hoặc tịnh hoặc bất
tịnh; nói tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn
Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu tám giải thoát
hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu tám giải thoát hoặc vui hoặc
khổ, nên cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc vui hoặc
khổ. Nên cầu tám giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu tám giải
thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu
hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu tám giải thoát hoặc thường hoặc vô
thường, cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc
vô thường. Cầu tám giải thoát hoặc vui hoặc khổ; cầu tám thắng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ hoặc vui hoặc khổ. Cầu tám giải thoát hoặc ngã
hoặc vô ngã; cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc ngã
hoặc vô ngã. Cầu tám giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh; cầu tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y
các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật
đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương
tợ an nhẫn Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều thi Ca! Nếu các
thiện nam tử thiện nữ nhân, vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói bốn niệm
trụ hoặc thường hoặc vô thường; nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,
năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường.
Nói bốn niệm trụ hoặc vui hoặc khổ; nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc vui hoặc khổ. Nói
bốn niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã; nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc ngã hoặc vô ngã.
Nói bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an
nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu bốn niệm
trụ hoặc thường hoặc vô thường; nên cầu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu bốn niệm trụ hoặc vui hoặc khổ; nên cầu bốn chánh đoạn,
bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc
vui hoặc khổ. Nên cầu bốn niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã; nên cầu bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi
hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nên cầu bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc tịnh
hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành an nhẫn, đây là
hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ
nhân, như vậy cầu bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường; cầu bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi
hoặc thường hoặc vô thường. Cầu bốn niệm trụ hoặc vui hoặc khổ; cầu bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi hoặc vui hoặc khổ. Cầu bốn niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã; cầu bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh;
cầu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn ly các pháp đây, Ta
gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca!
Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la
mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiên nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói không giải
thoát môn hoặc thường hoặc vô thường; nói vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn hoặc thường hoặc vô thường. Nói không giải thoát môn hoặc vui hoặc
khổ; nói vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ. Nói không
giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã; nói vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói không giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất
tịnh; nói vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu
có các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật
đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu không giải thoát môn hoặc
thường hoặc vô thường; nên cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc
thường hoặc vô thường. Nên cầu không giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ; nên
cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu không
giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã; nên cầu vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu không giải thoát môn hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; nên cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an
nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như
vậy cầu không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường; cầu vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường. Cầu không giải thoát môn
hoặc vui hoặc khổ; cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc vui hoặc
khổ. Cầu không giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã; cầu vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu không giải thoát môn hoặc
tịnh hoặc bất tịnh; cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc,
tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết
đều là nói hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói năm nhãn
hoặc thường hoặc vô thường, nói sáu thần thông hoặc thường hoặc vô thường.
Nói năm nhãn hoặc vui hoặc khổ, nói sáu thần thông hoặc vui hoặc khổ. Nói
năm nhãn hoặc ngã hoặc vô ngã, nói sáu thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã.
Nói năm nhãn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói sáu thần thông hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an
nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu năm nhãn
hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu sáu thần thông hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu năm nhãn hoặc vui hoặc khổ, nên cầu sáu thần thông hoặc
vui hoặc khổ. Nên cầu năm nhãn hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu sáu thần
thông hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu năm nhãn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên
cầu sáu thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như
thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu
các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu năm nhãn hoặc thường hoặc vô
thường, cầu sáu thần thông hoặc thường hoặc vô thường. Cầu năm nhãn hoặc
vui hoặc khổ, cầu sáu thần thông hoặc vui hoặc khổ. Cầu năm nhãn hoặc ngã
hoặc vô ngã, cầu sáu thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu năm nhãn hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, cầu sáu thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an
nhẫn y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la
mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc,
tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói Phật mười
lực hoặc thường hoặc vô thường; nói bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc
vô thường. Nói Phật mười lực hoặc vui hoặc khổ; nói bốn vô sở úy, bốn vô
ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng
hoặc vui hoặc khổ. Nói Phật mười lực hoặc ngã hoặc vô ngã; nói bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói Phật mười lực hoặc tịnh hoặc bất tịnh;
nói bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như
thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết này:
Kẻ hành an nhẫn nên cầu Phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu
bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu Phật mười lực hoặc vui hoặc khổ, nên cầu bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu Phật mười lực
hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu Phật mười lực hoặc tịnh hoặc bất tịnh,
nên cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an
nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như
vậy cầu Phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường, cầu bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường. Cầu Phật mười lực
hoặc vui hoặc khổ, cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng
hoặc vui hoặc khổ. Cầu Phật mười lực hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu Phật mười
lực hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các pháp đây, Ta gọi
tên là hành hũu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như
trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật
đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói pháp vô
vong thất hoặc thường hoặc vô thường, nói tánh hằng trụ xả hoặc thường
hoặc vô thường. Nói pháp vô vong thất hoặc vui hoặc khổ, nói tánh hằng trụ
xả hoặc vui hoặc khổ. Nói pháp vô vong thất hoặc ngã hoặc vô ngã, nói tánh
hằng trụ xả hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói pháp vô vong thất hoặc tịnh hoặc bất
tịnh, nói tánh hằng trụ xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y
như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết
này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường,
nên cầu tánh hằng trụ xả hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu pháp vô vong
thất hoặc vui hoặc khổ, nên cầu tánh hằng trụ xả hoặc vui hoặc khổ. Nên
cầu pháp vô vong thất hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu tánh hằng trụ xả hoặc
ngã hoặc vô ngã. Nên cầu pháp vô vong thất hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên
cầu tánh hằng trụ xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như
thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu
các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu pháp vô vong thất hoặc thường
hoặc vô thường, cầu tánh hằng trụ xả hoặc thường hoặc vô thường. Cầu pháp
vô vong thất hoặc vui hoặc khổ, cầu tánh hằng trụ xả hoặc vui hoặc khổ.
Cầu pháp vô vong thất hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu tánh hằng trụ xả hoặc ngã
hoặc vô ngã. Cầu pháp vô vong thất hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu tánh hằng
trụ xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các pháp đây, Ta gọi tên
là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước
đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói nhất thiết
trí hoặc thường hoặc vô thường; nói đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
hoặc thường hoặc vô thường. Nói nhất thiết trí hoặc vui hoặc khổ; nói đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc vui hoặc khổ. Nói nhất thiết trí hoặc
ngã hoặc vô ngã; nói đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc ngã hoặc vô
ngã. Nói nhất thiết trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói đạo trướng trí, nhất
thiết tướng trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu
hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ
hành an nhẫn nên cầu nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô thường; nên cầu
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu
nhất thiết trí hoặc vui hoặc khổ; nên cầu đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu nhất thiết trí hoặc ngã hoặc vô ngã; nên
cầu đạo trướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu
nhất thiết trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nên cầu đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu
hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử, thiện nữ nhân, như vậy cầu nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô
thường; cầu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô
thường. Cầu nhất thiết trí hoặc vui hoặc khổ; cầu đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí hoặc vui hoặc khổ. Cầu nhất thiết trí hoặc ngã hoặc vô
ngã; cầu đạo trướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu
nhất thiết trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh; cầu đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các pháp đây, Ta gọi
tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như
trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật
đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói tất cả đà
la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, nói tất cả tam ma địa môn hoặc
thường hoặc vô thường. Nói tất cả đà la ni môn hoặc vui hoặc khổ, nói tất
cả tam ma địa môn hoặc vui hoặc khổ. Nói tất cả đà la ni môn hoặc ngã hoặc
vô ngã, nói tất cả tam ma địa môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói tất cả đà la
ni môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói tất cả tam ma địa môn hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an
nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu tất cả đà
la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu tất cả tam ma địa môn hoặc
thường hoặc vô thường. Nên cầu tất cả đà la ni môn hoặc vui hoặc khổ, nên
cầu tất cả tam ma địa môn hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu tất cả đà la ni môn
hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu tất cả tam ma địa môn hoặc ngã hoặc vô ngã.
Nên cầu tất cả đà la ni môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu tất cả tam ma
địa môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành
an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam
tử thiện nữ nhân, như vậy cầu tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô
thường, cầu tất cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường. Cầu tất cả
đà la ni môn hoặc vui hoặc khổ, cầu tất cả tam ma địa môn hoặc vui hoặc
khổ. Cầu tất cả đà la ni môn hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu tất cả tam ma địa
môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu tất cả đà la ni môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh,
cầu tất cả tam ma địa môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các
pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ
an nhẫn Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói Dự lưu
hướng Dự lưu quả hoặc thường hoặc vô thường; nói Nhất lai hướng Nhất lai
quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả hoặc thường
hoặc vô thường. Nói Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc vui hoặc khổ; nói Nhất
lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la
hán quả hoặc vui hoặc khổ. Nói Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc ngã hoặc vô
ngã; nói Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la
hán hướng A la hán quả hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói Dự lưu hướng Dự lưu quả
hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng
Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có
các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa.
Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc
thường hoặc vô thường; nên cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc
thường hoặc vô thường. Nên cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc vui hoặc khổ,
nên cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu Dự
lưu hướng Dự lưu quả hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu Nhất lai hướng cho đến
A la hán quả hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc tịnh
hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành an nhẫn, đây là
hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ
nhân, như vậy cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc thường hoặc vô thường, cầu
Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc thường hoặc vô thường. Cầu Dự lưu
hướng Dự lưu quả hoặc vui hoặc khổ, cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán
quả hoặc vui hoặc khổ. Cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc ngã hoặc vô ngã,
cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu Dự lưu
hướng Dự lưu quả hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu Nhất lai hướng cho đến A la
hán quả hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các pháp đây, Ta gọi
tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như
trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật
đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói tất cả Độc
giác Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường. Nói tất cả Độc giác Bồ đề hoặc vui
hoặc khổ. Nói tất cả Độc giác Bồ đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói tất cả Độc
giác Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành
an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an
nhẫn nên cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu tất
cả Độc giác Bồ đề hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc
ngã hoặc vô ngã. Nên cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba
la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu
tất cả Độc giác Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường. Cầu tất cả Độc giác Bồ
đề hoặc vui hoặc khổ. Cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu
tất cả Độc giác Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các pháp
đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều
Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ an
nhẫn Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói tất cả
hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc thường hoặc vô thường. Nói tất cả hạnh Bồ tát
Ma ha tát hoặc vui hoặc khổ. Nói tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc ngã
hoặc vô ngã. Nói tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu
có các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật
đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha
tát hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc
vui hoặc khổ. Nên cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc ngã hoặc vô ngã.
Nên cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các
pháp năng cầu như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu tất cả hạnh
Bồ tát Ma ha tát hoặc thường hoặc vô thường. Cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha
tát hoặc vui hoặc khổ. Cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc ngã hoặc vô
ngã. Cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành an
nhẫn y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la
mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc,
tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói Chư Phật
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường. Nói Chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc vui hoặc khổ. Nói Chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành an nhẫn,
đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành an nhẫn nên
cầu Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường. Nên
cầu Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu Chư
Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu Chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu
như thế tu hành an nhẫn, đây là hành an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca!
Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường. Cầu Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề hoặc vui hoặc khổ. Cầu Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ngã
hoặc vô ngã. Cầu Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Kẻ hành an nhẫn y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương
tợ an nhẫn Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là
nói hữu sở đắc, tương tợ an nhẫn Ba la mật đa. Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy nói
hữu sở đắc tịnh giới Ba la mật đa, gọi tên nói tương tợ tịnh giới Ba la
mật đa? Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói sắc hoặc
thường hoặc vô thường, nói thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường.
Nói sắc hoặc vui hoặc khổ, nói thọ tưởng hành thức hoặc vui hoặc khổ. Nói
sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, nói thọ tưởng hành thức hoặc ngã hoặc vô ngã.
Nói sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói thọ tưởng hành thức hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành tịnh giới, đây là hành
tịnh giới Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành tịnh giới nên cầu sắc
hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc
vô thường. Nên cầu sắc hoặc vui hoặc khổ, nên cầu thọ tưởng hành thức hoặc
vui hoặc khổ. Nên cầu sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu thọ tưởng hành
thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu
thọ tưởng hành thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như
thế tu hành tịnh giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca!
Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu sắc hoặc thường hoặc vô
thường, cầu thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường. Cầu sắc hoặc
vui hoặc khổ, cầu thọ tưởng hành thức hoặc vui hoặc khổ. Cầu sắc hoặc ngã
hoặc vô ngã, cầu thọ tưởng hành thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu sắc hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, cầu thọ tưởng hành thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ
hanh tịnh giới y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ
tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là
nói hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói nhãn xứ
hoặc thường hoặc vô thường, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô
thường. Nói nhãn xứ hoặc vui hoặc khổ, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vui
hoặc khổ. Nói nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ
hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu
hành tịnh giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ
hành tịnh giới nên cầu nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu nhãn xứ hoặc vui hoặc
khổ, nên cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu nhãn xứ
hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã.
Nên cầu nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành tịnh
giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam
tử thiện nữ nhân, như vậy cầu nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, cầu nhĩ
tỷ thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô thường. Cầu nhãn xứ hoặc vui hoặc
khổ, cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vui hoặc khổ. Cầu nhãn xứ hoặc ngã
hoặc vô ngã, cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu nhãn xứ
hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Kẻ hành tịnh giới y các pháp đây, ta gọi tên là hành hữu sở đắc,
tương tợ tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết
đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói sắc xứ
hoặc thường hoặc vô thường, nói thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường
hoặc vô thường. Nói sắc xứ hoặc vui hoặc khổ, nói thanh hương vị xúc pháp
xứ hoặc vui hoặc khổ. Nói sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, nói thanh hương vị
xúc pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói
thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y
như thế tu hành tịnh giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Lại tác
thuyết này: Kẻ hành tịnh giới nên cầu sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường,
nên cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu sắc
xứ hoặc vui hoặc khổ, nên cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc vui hoặc
khổ. Nên cầu sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu thanh hương vị xúc pháp
xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu
thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng
cầu như thế tu hành tịnh giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Kiều
Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu sắc xứ hoặc thường
hoặc vô thường, cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường.
Cầu sắc xứ hoặc vui hoặc khổ, cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc vui hoặc
khổ. Cầu sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc
ngã hoặc vô ngã. Cầu sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu thanh hương vị
xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tịnh giới y các pháp đây, Ta
gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca!
Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba
la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói nhãn giới
hoặc thường hoặc vô thường; nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nói nhãn giới
hoặc vui hoặc khổ; nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nói nhãn giới hoặc ngã hoặc vô
ngã; nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói
sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành tịnh giới,
đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành tịnh giới
nên cầu nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường; nên cầu sắc giới, nhãn thức
giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu nhãn giới hoặc vui hoặc khổ, nên cầu sắc giớicho đến nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu nhãn giới hoặc
ngã hoặc vô ngã; nên cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các
thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên
cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành tịnh giới, đây là hành tịnh
giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như
vậy cầu nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, cầu sắc giới cho đến nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Cầu nhãn giới
hoặc vui hoặc khổ, cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ
hoặc vui hoặc khổ. Cầu nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu sắc giới cho
đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu nhãn giới
hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tịnh giới y các pháp đây, Ta gọi
tên là hành hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như
trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la
mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói nhĩ giới
hoặc thường hoặc vô thường; nói thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ
xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nói nhĩ giới
hoặc vui hoặc khổ; nói thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm
duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nói nhĩ giới hoặc ngã hoặc vô
ngã; nói thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói nhĩ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói
thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành tịnh giới,
đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành tịnh giới
nên cầu nhĩ giới hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu thanh giới cho đến
nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu nhĩ
giới hoặc vui hoặc khổ, nên cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh
ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu nhĩ giới hoặc ngã hoặc vô ngã, nên
cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô
ngã. Nên cầu nhĩ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu thanh giới cho đến
nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp
năng cầu như thế tu hành tịnh giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu nhĩ giới hoặc
thường hoặc vô thường, cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Cầu nhĩ giới hoặc vui hoặc khổ, cầu
thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ.
Cầu nhĩ giới hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm
duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu nhĩ giới hoặc tịnh hoặc
bất tịnh, cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc
tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tịnh giới y các pháp đây, Ta gọi tên là hành
hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã
nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói tỷ giới
hoặc thường hoặc vô thường; nói hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc
làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nói tỷ giới hoặc vui
hoặc khổ; nói hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nói tỷ giới hoặc ngã hoặc vô ngã; nói hương
giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã
hoặc vô ngã. Nói tỷ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói hương giới, tỷ thức
giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Nếu có các pháp năng y như thế tu hành tịnh giới, đây là hành tịnh giới Ba
la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành tịnh giới nên cầu tỷ giới hoặc
thường hoặc vô thường, nên cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu tỷ giới hoặc vui hoặc khổ, nên
cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ.
Nên cầu tỷ giới hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu hương giới cho đến tỷ xúc
làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu tỷ giới hoặc tịnh
hoặc bất tịnh, nên cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành tịnh
giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam
tử thiện nữ nhân, như vậy cầu tỷ giới hoặc thường hoặc vô thường, cầu
hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô
thường. Cầu tỷ giới hoặc vui hoặc khổ, cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm
duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Cầu tỷ giới hoặc ngã hoặc vô ngã,
cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô
ngã. Cầu tỷ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu hương giới cho đến tỷ xúc
làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tịnh giới y các
pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ
tịnh giới Ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói thiệt giới
hoặc thường hoặc vô thường; nói vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc,
thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nói thiệt
giới hoặc vui hoặc khổ; nói vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt
xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nói thiệt giới hoặc ngã
hoặc vô ngã; nói vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm
duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói thiệt giới hoặc tịnh hoặc
bất tịnh; nói vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên
sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu
hành tịnh giới, đây là hành tịnh giới Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ
hành tịnh giới nên cầu thiệt giới hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu vị
giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu thiệt giới hoặc vui hoặc khổ, nên cầu vị giới cho đến
thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu thiệt giới
hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu thiệt giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh,
nên cầu vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành tịnh giới, đây là hành
tịnh giới Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân,
như vậy cầu thiệt giới hoặc thường hoặc vô thường, cầu vị giới cho đến
thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Cầu thiệt
giới hoặc vui hoặc khổ, cầu vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc vui hoặc khổ. Cầu thiệt giới hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu vị
giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu
thiệt giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu vị giới cho đến thiệt xúc làm
duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tịnh giới y các
pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ tịnh giới Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ
tịnh giới Ba la mật đa.
Nguồn: www.quangduc.com