Phật
dạy: A Nan ! Người muốn thể nhập tam ma
đề (chánh quán) tu học pháp môn nhiệm
mầu, cầu đạo Bồ tát, trước hết cần
giữ luật nghi trong như giá, sạch như
sương để chặn đứng những hành động
bất thiện của thân khẩu ý tam nghiệp.
Và cũng từ đó lục căn tự tại
đối với lục trần, các ma sự không
có cơ hội lung lạc hoành hành. Nếu
người nặng nhiều bất thiện nghiệp,
tập khí khó trừ thì nên nhất tâm trì
tụng thần chú "Vô thượng Phật
đảnh quang minh ma ha tát đát đa bát
đát ra". Đó là tâm chú vô kiến
đảnh tướng của Như Lai là vô vi tâm
Phật, từ nơi đảnh Phật hiện ra đức
Hóa Như Lai ngồi trên hoa sen báu mà
nói.
A
Nan ! Ông cùng nàng Ma Đăng Già do nhân
duyên nhiều kiếp trước, tập khí ái
ân lâu đời còn vương vấn. Song một
phen Như Lai tuyên dương thần chú thì
nàng Ma Đăng Già dứt bỏ ái tâm
thành A La Hớn quả. Vốn là một dâm
nữ, căn lành kém ít, thế mà sức
thần chú còn giúp cho cô ta chứng quả
vô học, còn bọn ông là hàng Thanh văn
trong Lăng nghiêm hải hội, có chí cầu
tối thượng thừa thì quyết định sẽ
thành Phật quả ví như bụi bặm gặp gió
cuốn, những gì vẩn đục sẽ tan biến
hết nào có khó khăn gì.
A
Nan ! Đời sau, nếu có người muốn kiến
lập đạo tràng chuyên trì Thủ Lăng
Nghiêm tâm chú, phải cần lấy cho
được cái phân của con "đại lực
bạch ngưu" ở Tuyết sơn, đem về hòa
trộn với các thứ hương chiên đàn,
trầm thủy mà tráng lên mặt đất để
làm nền. Vì con "đại lực bạch
ngưu" nầy chỉ ăn toàn cỏ thơm, non
trong sạch ở Tuyết sơn và nó chỉ uống
nước trên núi cho nên sạch mịn và
không nhơ nhớp như những con trâu bình
thường khác. Nếu không tìm được
phân "đại lực bạch ngưu" ở
núi Tuyết có thể tạm lấy đất ở
bình nguyên, nhưng phải đào bỏ lớp
đất mặt xuống sâu năm mét, chọn lấy
đất vàng thật sạch đem về hòa trộn
với mười thứ bột hương: chiên đàn,
trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim,
bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tùng
và kê thiệt tô trên mặt đất làm
nền.
Kiến
thiết đạo tràng theo hình bát giác,
rộng 6 mét lọt lòng. Tám phía vách bên
trong mỗi vách treo một tấm gương lớn,
đối diện và phản chiếu lẫn nhau. Trên
nóc đàn cũng treo tám tấm gương chiếu
xuống. Trung tâm đàn xây một trụ cột
bát giác cao khoảng 1m,65, đường kính
chừng 1m,50, mỗi cạnh cũng treo mỗi tấm
gương phản chiếu với tám tấm gương
lớn tám phía bên ngoài. Trên đầu trụ
cột thiết kế một tòa sen to, làm bằng
vàng, đồng, bạc hoặc gỗ sơn thết như
hoa sen thật. Giữa đài sen để một cái
bát đựng nước mù sương tháng tám
và tùy ý cắm các loại hoa hiện có.
Chung quanh trang trí 8 tấm gương tròn,
trước mỗi tấm gương có hai lư hương
cộng có 16 lư hương cả thảy. Các lư
hương để đốt trầm thủy, chiên đàn
cúng dường Phật và Bồ tát, nhưng
đốt mà không cho thấy lửa.
Trong
đàn tôn trí hình tượng chư Phật và
chư Bồ tát lồng bóng trong các tấm
gương trên dưới, tám hướng, bốn
phương làm cho hình ảnh chư Phật, Bồ
tát ảnh hiện trùng trùng nhiều lớp.
Hành
giả ở trong đàn thân tâm thanh tịnh,
chí thành lễ bái danh hiệu Phật, Bồ
tát trong mười phương, ngày đêm 6
thời đi kinh hành trì Thủ Lăng Nghiêm
tâm chú 108 biến mỗi thời. Nhiếp tâm
tinh tấn hành trì từ 1 thất, 2 thất, 3
thất cho đến 7 thất hoặc 100 ngày,
những người căn tánh nhanh nhẹn có
thể ngay nơi đạo tràng được quả Tu
đà hoàn và tự biết mình sẽ thành
Phật
*
* *
"Kiến
lập đạo tràng" điều đó đủ nói
lên rằng: pháp môn đó chỉ là một
pháp môn "phương tiện". Hình
thức đạo tràng được kiến tạo theo
như một cái đàn "bát giác".
Rồi thiết kế đài sen, rồi tôn trí
tượng chư Phật, chư Bồ tát, chưng hoa
đẹp, đốt hương thơm, cúng bánh ngon,
mật ngọt, nào những tấm gương lồng
bóng làm cho Phật và Bồ tát xuất hiện
trùng trùng
tất cả đều là thứ Đạo
Tràng "phương tiện".
Đạo
Tràng "đệ nhất nghĩa", ta
hãy nghe Bồ tát Duy Ma Cật nói:
Trực tâm là
đạo tràng, không có các điều hư dối.
Phát hạnh
là đạo tràng: làm tất cả điều
thiện.
Thâm tâm
là đạo tràng: chân thành trên con
đường đạo.
Bồ đề tâm
là đạo tràng: nhận thức chơn lý
không sai lầm.
Bố thí là
đạo tràng: xứng tánh mà làm không
mong cầu phước báo.
Trì giới
là đạo tràng: nguyện lành được đầy
đủ.
Nhẫn nhục
là đạo tràng: đối với chúng sanh tâm
không chướng ngại.
Tinh tấn là
đạo tràng: không biếng trễ trên con
đường Bồ đề.
Thiền định
là đạo tràng: tâm nhu thuận và an ổn.
Trí tuệ là
đạo tràng: nhận thức rõ thực tướng
của các pháp.
Từ là
đạo tràng: đồng sự với chúng sanh.
Bi là đạo
tràng: nhẫn chịu các sự khó nhọc vì
chúng sanh.
Hỉ là đạo
tràng: ưa thích và vui mừng được sống
trong chánh pháp.
Xả là đạo
tràng: dứt sạch hết tâm thương ghét.
Thần thông
là đạo tràng: thành tựu pháp lục
thông.
Giải thoát
là đạo tràng: chống trái với những
tập quán vô minh. Đánh đổ hủ tục
lạc hậu.
Phương tiện
là đạo tràng: hay giáo hóa chúng sanh.
Tứ nhiếp
là đạo tràng: không bỏ một chúng sanh
nào.
Đa văn là
đạo tràng: nghe chánh pháp, hành chánh
pháp, và truyền bá chánh pháp
Như
vậy đó Thiện nam tử ! Bồ tát Duy Ma
Cật nói với Đồng tử Quảng Nghiêm;
nếu Bồ tát theo đúng các pháp ba la
mật giáo hóa chúng sanh thì nhất cử
nhất động phải biết, đều là từ nơi
"đạo tràng" mà ra, ở nơi chỗ
Phật mà đến đây.
Hãy
luôn luôn soi xét về thân về khẩu về
ý của mình qua những tấm gương lòng
trong sáng, qua lớp lớp chiếu soi và
chợt thấy rằng hình ảnh của chư Phật,
chư Bồ tát và hình ảnh của chính mình
giao hiệp với nhau trùng trùng trong một
bầu pháp giới nhất chân không ranh
giới. Cho nên, đừng cầu khẩn thương
tình, đừng quỳ lạy van xin với Phật
với Bồ tát ở một thế giới xa xăm
nào là luống công vô ích.
Con
số 108 là con số tiêu biểu, phiền não
nghiệp của chúng sanh mê vốn có. Lục
trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
khả dĩ tạo thành ba bậc nhiễm ô. Bậc
một, nó làm cho con người đam mê đến
độ không còn lý trí. Bậc hai, nó đáp
ứng cho con người sự đắc ý vui lòng.
Bậc ba, những thứ làm cho con người
sanh ghét, chê cần khử trừ triệt hạ.
Vì
vậy, khi sáu căn tác động vào sáu
trần có khả năng sanh ra 36 món nhiễm
ô. 36 món nhiễm ô nầy xuất hiện trong
ba thời: đã, đang và sẽ. Đó là hệ
quả của con số 108 được đặt ra. Ngày
đêm sáu thời, mỗi thời trì tụng 108
biến, nhằm nhắc nhở với mọi người:
Lòng hãy dặn lòng rằng: trì chú cốt
yếu để hóa giải những phiền não
chướng có thể xảy đến, thông qua 6
căn, 6 trần và 6 thức của chính ta đó.
Vì thế, không nhất thiết khư khư với
con số 108 biến rồi thôi. Mà trì càng
nhiều, càng liên tục, càng chiếm lĩnh
thì giờ rảnh rỗi của tạp tưởng mông
lung, càng tỏ rõ sức tinh tấn kiên trì
thì hiệu lực "tam mật tương ưng"
càng nhanh chóng.
Đó
là sự thành công có hiệu quả, là
đỉnh cao của pháp môn Mật Giáo
được đánh giá trên "Tam Mật
Tương Ưng" vậy.
Bấy
giờ đức Thế Tôn từ nơi nhục kế
phóng ra hào quang bách hảo, hào quang
nầy hiện ra hoa sen báu ngàn cánh. Có
đức Hóa thân Như Lai ngồi trên hoa sen.
Trên đỉnh đầu Như Lai phóng ra mười
đạo hào quang bách hảo. Trong mỗi mỗi
hào quang đều hiện ra những vị thần Kim
Cang mật tích, số lượng bằng mười số
cát sông Hằng. Ông cầm chày, vị vác
núi đầy khắp cõi hư không. Đại chúng
ngước xem vừa kính yêu, vừa lo sợ,
cầu Phật thương xót chở che và đồng
nhất tâm lóng nghe đức Phóng quang Như
Lai nơi vô kiến đảnh tướng của Phật
tuyên nói thần chú:
Nam mô tát đát tha tô gia đa gia a la ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa.
Tát đát tha Phật đà cu chi sắt ni sam.
Nam mô tát bà bột đà bột địa tát đa bệ tệ.
Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đà câu chi nẩm.
Ta xa ra bà ca tăng già nẩm.
Nam mô lô kê A La Hớn đa nẩm.
Nam mô tô lô đa ba na nẩm.
Nam mô ta yết rị đà dà di nẩm.
Nam mô lô kê tam miệu dà đa nẩm.
Tam miệu dà ba ra đễ ba da na nẩm.
Nam mô đề bà ly sắt noãn.
Nam mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt noãn.
Xá ba nô yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam mô bạt ra ha ma nê.
Nam mô nhân đà ra đa.
Nam mô bà dà bà đế.
Lô đà ra da.
Ô ma hát đế.
Ta hê dạ da.
Nam mô bà già bà đế.
Na ra dã noa gia.
Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.
Nam mô tất yết rị đa gia.
Nam mô bà già bà đế.
Ma ha ca ra gia.
Địa rị bát lạt na già ra.
Tỳ đà ba noa ca ra gia.
A địa mục đế.
Thi má xa na nê bà tất nê.
Ma ha đát rị già noa.
Nam mô tất yết rị da gia.
Nam mô bà già bà đế.
Đa tha già đa câu ra gia.
Nam mô bát đầu ma câu na gia.
Nam mô bạt xà ra câu ra gia.
Nam mô ni câu ra gia.
Nam mô già xà câu ra gia.
Nam mô bà già bà đế.
Đế rị trà du ra tây na.
Ba ra ha ra noa ra xà gia
...
419. Đát điệt tha.
420. Án.
421. A na lệ.
422. Tỳ xá đề.
423. Bệ ra bạt xa ra đà rị.
424. Bàn đà bàn đà nể.
425. Bạt xà ra báng ni phấn.
426. Hổ hồng độ rô úng phấn.
427. Ta ba ha.
A
Nan ! Đức Phật dạy tiếp, đó là
những câu tâm chú bí mật, nhiệm mầu
"tát đát đa bát đát ra" (dịch
là Đại bạch tán cái) của Hóa thân
từ hào quang trên đảnh của Như Lai.
Tâm chú đó sản sanh tất cả chư Phật
trong mười phương. Mười phương Như Lai Nhân
tâm chú nầy mà thành vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Mười
phương Như Lai Nắm tâm chú nầy mà
nghiêm trị các ma quân, chế ngự bọn
ngoại đạo. Mười phương Như Lai Cởi tâm
chú này mà ngồi được tòa sen báu,
có mặt trong các cõi nhiều như số vi
trần. Mười phương Như Lai Ngậm
tâm chú nầy mà chuyển bánh xe pháp ở
các cõi nước trong mười phương.
Mười phương Như Lai Giữ tâm chú
nầy mà trong lúc tu nhân được chư
Phật thọ ký. Mười phương Như Lai Nương
tâm chú nầy mà hóa giải tất cả
khổ trong bát nạn, tam đồ. Mười phương
Như Lai Theo tâm chú nầy mà phụng
sự thiện tri thức trong mười phương,
cúng dường như ý, được suy tôn là
bậc pháp vương. Mười phương Như Lai Hành
tâm chú nầy mà thu phục được
nhân tâm, khiến cho hàng Tiểu thừa nghe
tạng bí mật không sanh tâm kinh sợ.
Mười phương Như Lai Tụng tâm chú
nầy mà được thành bậc vô thượng
Bồ đề và vô thượng Niết bàn.
Mười phương Như Lai Truyền tâm
chú nầy mà sau khi diệt độ, phó chúc
Phật pháp cữu trụ và truyền trì giới
luật được thanh tịnh. A Nan ! Sự lợi
ích của Thủ Lăng Nghiêm tâm chú, nếu
Như Lai nói từ sáng đến tối liên tục
không ngừng, và ngôn từ không trùng
điệp, nói mãi nói hoài trải qua số
kiếp như cát sông Hằng cũng không sao
hết được. Vì vậy chú nầy còn
được gọi là Như Lai Đảnh.
*
* *
Lúc
ông A Nan sắp sa ngã trước sức cám
dỗ của Ma Đăng Già nữ là lúc vô
minh phát triển thế lực hoành hành.
Nhằm soi thủng màn đen vô minh, đức
Phật hiện hào quang để nói thần chú.
Sự kiện đó có ý ngầm bảo cho đại
chúng biết: "Gặp lúc như vậy cần
sử dụng đến trí tuệ". Hãy đem trí
tuệ mà công phá vô minh. Hãy phóng
hào quang để xé tan màn u tối.
Thật
tánh của vô minh vốn là Phật tánh, cho
nên vô minh chỉ là một Huyễn Pháp.
Vì vậy, cho nên Như Lai chỉ cần hiện ra
vị Huyễn Phật nói Huyễn
Chú là đã diệt được Vô
Minh Như Huyễn của ông A Nan rồi !
Thần Kim Cang mật tích đông như số cát
của mười sông Hằng bảo hộ thần chú
Thủ Lăng Nghiêm. Đó là vận dụng văn
tự ngữ ngôn để làm chỗ nương tựa
tâm hồn, để an lòng những ai muốn
phát tâm tu hành đi theo con đường Mật
Giáo. Chứ sự thật, một chân lý hiển
nhiên, người trì chú tu tập Thủ Lăng
Nghiêm định thì sẽ tự tại an nhiên
bất động tựa hồ như có vô số Kim
Cang thần bảo hộ đầy khắp hư không. Vì
các tai họa không có lý do bộc khởi,
mọi đau khổ không còn dữ kiện phát
sanh.
Các
bậc tiền bối như ngài Đơn Hà, ngài
Trường Thủy v.v
cho rằng Thủ Lăng
Nghiêm chú chỉ có tám câu, kể từ
câu 420 về sau:
420 - Án
421 - A na lệ
422 - Tỳ xá
đề
423 - Bệ ra
bạt xà ra đà rị
424 - Bàn
đà bàn đà nể
425 - Bạt xà
ra báng ni phấn
426 - Hổ
hồng độ rô hung phấn
427 - Ta bà ha
Còn lại 419 câu về trước, được xem là mật ngữ của chư Phật, mỗi chữ mỗi câu hàm nhiều ý nghĩa, cho nên xưa nay vấn đề nguyên âm, các dịch giả không một người nào dịch. Có lẽ đó cũng là cách áp dụng nguyên tắc "ngũ chủng bất phiên", của ngài Huyền Trang đề xuất:
1/- Trang trọng bất
phiên
2/- Đa hàm
bất phiên
3/- Bí mật
bất phiên
4/- Thuận cổ
bất phiên
5/- Thử
phương vô bất phiên
Trì
Thủ Lăng Nghiêm chú, điều quan trọng
là còn phải sống trong môi trường Thủ
Lăng Nghiêm định thì hiệu quả giải
thoát giác ngộ mới phát huy cao. Nếu xa
rời Thủ Lăng Nghiêm định, chỉ chuyên
trì tụng bằng âm thanh, văn tự, thêm
vào đó vọng tâm tham muốn "Linh
thiên hiệu nghiệm
" thì có thể
phản tác dụng gây điều nguy hại không
lường trước được. Hành giả nên
lưu ý quan tâm !
Sự
thành tựu hiệu quả lớn lao của Thủ
Lăng Nghiêm chú, các đức Như Lai không
phải chỉ có Tụng. Nói cách
khác là đối với Thủ Lăng Nghiêm
ngoài cách Tụng, các đức
Như Lai còn:
Nhân.
Nắm. Cởi. Ngậm. Giữ. Nương. Theo. Hành.
Truyền trong mọi cơ hội mọi môi
trường qua cuộc sống của mình. Do vậy,
mà Phật nói:
"Các
đức Như Lai được vô thượng Bồ đề
và Đại Niết bàn, du hí thần thông tự
tại ở khắp mười phương".
Phật
dạy: A Nan ! Nay tôi vì ông mà tuyên nói
thần chú Thủ Lăng Nghiêm và cũng nhằm
giúp cho thế nhân ở đời sau có thể
tu học để được nhiều lợi ích.
A
Nan ! Chú Thủ Lăng Nghiêm nếu ai chuyên
tâm trì tụng đúng như pháp mà tu hành
thì kết quả thành tựu Thủ Lăng Nghiêm
tam muội, bấy giờ vào lửa, lửa không
đốt cháy, vào nước, nước không
nhận chìm được, các thứ độc hại
không hại được. Quỉ thần, tịnh mị, ác
ma không khuấy phá được. Những
người thiện nam, thiện nữ hoặc biên
chép hoặc đọc tụng, hoặc truyền bá
Thủ Lăng Nghiêm chú sẽ được phước
đức vô biên, hiện kiếp không sa đọa
vào cảnh nghèo nàn hạ tiện. Những
người đó dù không có cơ hội làm
phước, nhưng mười phương Như Lai có bao
nhiêu phước đều cho họ hết và
người đó được cùng chư Phật ở
chung. Nếu là người nữ muốn cầu có
con trai sẽ sanh con trai phước đức trí
tuệ, muốn cầu con gái thì được con
gái tướng hảo đoan chánh mọi người
kính quí, cho đến người cầu trường
thọ, cầu phước báo, cầu sắc lực
mạnh khỏe, cầu được bình an
đều
được toại nguyện.
Ở
một quốc độ chẳng may có nhiều khổ
nạn: Dịch tể, mất mùa, giặc giã, đao
binh, hạn hán, thủy tai mà vua quan cùng
dân chúng trong nước một lòng tin kính,
biên chép, trì tụng, lễ bái, tôn
trọng, đeo mang, truyền bá tu hành, thì
thiên long bát bộ, các thiện thần hoan
hỉ, khiến mọi khổ nạn vượt qua, mưa
thuận gió hòa, chốn chốn thái bình,
người người no ấm.
*
* *
Nhằm
khuyến khích cho mọi căn cơ cho nhiều
hạng người trong xã hội phát tâm tu
học theo kinh Thủ Lăng Nghiêm mà đức
Phật vận dụng lối thuyết pháp:
"Thế giới tất đàn", cho nên
đọc đoạn kinh văn trên, nghe qua ai cũng
thấy pháp môn tu tập nầy có đáp ứng
nguyện vọng của mình đang mong muốn. Và
sự thật, nếu ai đó nghe qua, rồi vì
cái lợi trước mắt dựa trên ngữ
ngôn văn tự ấy mà tu thì vẫn có
được lợi, nhưng cái lợi đó hẳn
không phải là cái lợi cứu cánh lâu
dài.
Nếu
chỉ sao chép, tôn thờ, ấn tống truyền
bá, đọc tụng và đeo mang, mà cầu gì
được nấy, diệt họa trừ tai cho cá
nhân, cho xã hội một cách quá dễ dàng
thì thử hỏi tám vạn bốn ngàn pháp
môn khác, đức Phật bỏ cả cuộc đời
khổ công dạy bảo để làm gì ? Nền
giáo lý Nhân quả trong nếp
sống tu hành của người đệ tử Phật,
không còn giá trị nữa hay sao ?
Bạch
Thế Tôn, ông A Nan thưa, từ lâu chúng
tôi ngu độn, chỉ ham học rộng nghe nhiều
mà chưa có ý chí mong cầu giải thoát
phiền não trần lao vượt ra hữu lậu.
Nhờ lòng từ bi rộng lớn của Phật
khai thông giác đạo chỉ nẻo Niết bàn
khiến cho chúng tôi được lợi ích
lớn lao.
Nay
chúng tôi cầu xin Phật chỉ dạy cho chúng
tôi về cấp bậc và địa vị trên
đường tu chứng:
Càn
Tuệ địa là hạng người thế nào ?
Trong
44 tâm, đạo hạnh phải như thế nào thì
được gọi là những Bồ tát đăng
địa ?
Đẳng
giác Bồ tát là người thế nào ?
Đức
Phật dạy: A Nan ! Ông nên biết: Diệu
Tánh Viên Minh rời các danh tướng,
xưa nay không có thế giới và chúng
sanh. Nhân vọng mà thấy có sanh; nhân
sanh mà thấy có diệt; sanh diệt gọi là
vọng; diệt vọng gọi là chân. Đó là
hai cách chuyển y thành tựu vô thượng
Bồ đề và Đại Niết bàn của chư
Phật.
A
Nan ! Nay ông muốn tu tam ma đề để thẳng
đến Niết bàn Phật, trước hết ông
phải nhận biết cho rõ hai nguyên nhân
điên đảo về thế giới và chúng sanh.
Chừng nào hết điên đảo thì ngay nơi
đó là tam ma đề vậy.
Thế
nào là điên đảo về chúng sanh ?
Nầy
A Nan ! Tâm chúng sanh bản tánh vốn Minh.
Tánh minh ấy viên mãn khắp cùng. Nhân
tánh minh ấy mà vọng, nhận cho là có
tánh. Do đó mà vọng kiến sanh ra. Đã
có vọng kiến thì những pháp vốn
không, trở thành pháp có. Những pháp
được cho là có, truy tìm nguyên nhân
của nó vốn phi nhân. Vì thế, tìm xét
nguyên nhân thì hoàn toàn không có gốc
nguồn. Tánh vọng kiến năng trụ, tướng
cảnh giới sở trụ cả hai đều là
pháp vô trụ. Dựa trên pháp vốn vô
trụ ấy mà kiến lập thế giới và
chúng sanh.
Vì
mê không nhận được tánh viên minh
vốn sẵn có nên sanh ra hư vọng. Tánh hư
vọng không có tự thể, không chỗ gá
nương. Do vậy, cho nên móng ý trở về
chân làm cho chân hóa ra vọng. Không
vọng tức là chân, đừng móng ý
"trở về" hay nguyện ước mong
tìm cái chân ở nơi đâu khác.
Vì
không nhận thức chân lý cho nên thế
giới và chúng sanh vốn không phải sanh
cho là thật có sanh, không phải thật
trụ cho là trụ, không phải tâm cho là
tâm, không phải pháp cho là pháp. Do
vậy, vọng kiến ngày một sâu rộng thêm
theo quá trình huân sanh huân trưởng, sanh
diệt diệt sanh biểu hiện qua hành động
thân khẩu ý của cuộc sống con người,
gọi đó là nghiệp báo. Hễ đồng
nghiệp thì cảm hợp nhau. Dị nghiệp thì
chống trái nhau, thương thì sanh nhau, ghét
thì diệt nhau. Do nhận thức sai lầm như
thế, nên gọi đó là: Điên Đảo về
Chúng Sanh.
Thế
nào là điên đảo về thế giới ?
Nầy
A Nan ! Đã cho là có pháp sở hữu, có
vật chất thì khái niệm kích thước,
diện tích, cự ly, qui mô
giả dối
sanh ra. Vì vậy khái niệm "không
gian" được thành lập. Do phi nhân
làm nhân cho nên không thật có sở
trụ và năng trụ. Vì không có năng
trụ, sở trụ nên mọi hiện tượng
luôn luôn trong quá trình vận động trong
tiến trình chuyển biến, không có sự
vật nào đứng yên nguyên trạng của
mình. Vì thế mà khái niệm "Thời
gian" được thành lập. Bốn phương ba
đời hòa hợp tác động lẫn nhau mà
biến hóa mà hình thành 12 loại chúng
sanh trong thế giới. Vì vậy cho nên trong
thế giới nhân động có thanh, nhân thanh
có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương
có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị có
pháp, sanh khởi hỗ tương. Do sáu thứ
trần tướng ấy làm điều kiện mà sanh
khởi sáu thứ vọng tưởng rối ren kết
thành nghiệp chủng của các loài: thai
sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu
sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng,
phi hữu sắc phi vô sắc, phi hữu tưởng
phi vô tưởng, 12 loại chúng sanh như
vậy.
A
Nan ! Do vì trong thế giới có tánh
"hư vọng" phổ biến và thiên
nặng về "động", hòa hợp
với "khí" thành 84.000 loạn
tưởng, thứ bay thứ lặn, cho nên có
thứ tế bào chủng thuộc loại mầm
trứng, sanh ra các loại: cá, chim, rùa,
rắn
(noãn sanh).
Do
vì trong thế giới có tánh "tập
nhiễm" phổ biến và thiên nặng về
"Dục", hòa hợp với chất
"nhuận" thành 84.000 loạn tưởng
thuộc giống đứng thẳng, giống xương
sống nằm ngang, cho nên có thứ tế bào
chủng bọc nước phôi thai để rồi sanh
ra các loại: Người, súc
(thai sanh).
Do
vì trong thế giới có tánh "Chấp
mắc" phổ biến và thiên nặng về
"cõi" (ngũ thú) hòa hợp
với "khí ấm" thành 84.000 loạn
tưởng ngữa nghiêng nên có thứ tế
bào chủng, chất thịt ướt, sanh ra các
loài: nhung nhúc cựa quậy
(thấp
sanh).
Do
vì trong thế giới có tánh "biến
dịch" phổ biến và thiên nặng về
"giả" hòa hợp với
"xúc" thành 84.000 loạn tưởng
thay cũ đổi mới, cho nên có thứ tế
bào chủng chất thịt cứng, sanh ra các
loài bò, bay, lột vỏ, thoát xác
(hóa sanh).
Do
vì trong thế giới có tánh "lưu
ngại" phổ biến và thiên nặng về
"chướng" hòa hợp với
"dính mắc" thành 84.000 loạn
tưởng vừa "tinh vừa diệu" cho
nên có thứ tế bào chủng sắc tướng
sanh ra các loại thần: Hưu trung, cửu
trung
(hưu trung là thiện thần, cửu
trung thuộc ác thần) (hữu sắc).
Do
vì trong thế giới có tánh "tiêu
tán" phổ biến và thiên nặng về
"hoặc" (lầm lẫn) hòa hớp
với "Ám" (ngu độn) thành 84.000
loạn tưởng thầm ẩn, cho nên có thứ
tế bào chủng vô sắc, sanh ra loại thần
kỳ quỉ m?không tán tiêu trầm
(vô
sắc).
Do
vì trong thế giới có tánh "võng
tượng" phổ biến và thiên nặng về
"ảnh tượng" hòa hợp
với "ký ức" thành 84.000 loạn
tưởng tiềm tàng cho nên có thứ tế
bào chủng hữu tưởng, sanh ra các loại
thần, quỉ, linh ứng (hữu tưởng).
Do
vì trong thế giới có tánh "ngu
độn" phổ biến và thiên nặng về
"si" hòa hợp với "ngoan
cố" thành 84.000 loạn tưởng khô khan
cho nên có thứ tế bào chủng vô
tưởng hóa thành các loại: đất, đá,
cây, kim loại
(vô tưởng).
Do
vì trong thế giới có tánh "bãi
bui" phổ biến, thiên nặng về "dối
trá" hòa hợp với
"nhiễm" thành 84.000 loạn tưởng
nhân y cho nên có thứ tế bào chủng
không phải sắc mà sắc sanh ra loài thủy
mẫu dùng tôm làm mắt
(phi hữu
sắc).
Do
vì trong thế giới có tánh "hấp
dẫn" phổ biến thiên nặng về "tánh"
(dị tánh tương hấp, đồng tánh tương
cự) hòa hợp với "chú" (chú
thuật) thành 84.000 loạn tưởng hú gọi
cho nên có thứ tế bào chủng phi vô
sắc mà vô sắc sanh ra loại trù ếm bùa
chú
(phi vô sắc).
Do
vì trong thế giới có tánh "hợp
vọng" phổ biến thiên nặng về "lừa
đảo" hòa hợp với "dị"
(loài khác) thành 84.000 loạn tưởng
tráo trở cho nên có thứ tế bào
chủng phi hữu tưởng mà có tưởng sanh
ra loài bồ lô
(loài sanh rồi do một
trợ duyên khác để bảo tồn và
trưởng thành. Chẳng hạn như loài vịt
xiêm đẻ ra không ấp, nhờ giống khác
ấp trứng để nở con và nuôi dưỡng,
giống rùa đẻ trứng lấp đất bỏ
đi
Các bản dịch xưa nói "bồ
lô" là con tò vò, khi con còn nhỏ
chưa bay đi kiếm ăn được, chớ không
phải những con sâu đó hóa ra tò vò
như người xưa lầm hiểu).
Do
vì trong thế giới có tánh "oán
hại" phổ biến và thiên nặng về
"sát" hòa hợp với
"quái" (quái dị) thành 84.000 loạn
tưởng ăn thịt cha mẹ cho nên có thứ
tế bào chủng phi vô tưởng mà vô
tưởng sanh ra loại chim thổ kiêu ấp
đất cục, chim phá kính ấp trái độc
làm con
con lớn lên ăn thịt cha
mẹ
A
Nan ! Đó gọi là 12 loại chúng sanh xoay
chuyển trôi lăn trong ba cõi. Sự luân
hồi lên xuống như vậy chẳng khác nào
dụi con mắt thấy hoa đốm nhiều thứ
phát sanh ra. Chân tâm của con người
vốn mầu nhiệm trong sáng tròn đầy, một
khi vô minh điên đảo thì đầy dẫy
những vọng tưởng rối ren, giả dối sanh
ra, cũng như vậy.
Nay
ông muốn tu chứng tam ma đề chư Phật,
Như Lai sẽ chỉ dạy cho ông về "ba
món tiệm thứ", ông hãy y đó mà
tu hành để diệt trừ cho hết mọi
nguyên nhân điên đảo. Ví như cái bình
pha lê muốn đựng cam lồ thì cần phải
rửa sạch hết chất bẩn, chất độc
vậy.
*
* *
Đề
cập đến "thế giới" và
"chúng sanh" là do con người đã
đem cái nhìn chủ quan của mình đề nhìn
hiện tượng vạn pháp ở mặt "sanh
diệt" của chúng.
Trình bày : Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com