Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
(Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang
dịch giải
---o0o---
Phẩm 10:
Mãn Nguyện Vì Không
Trong đại hội có thiên nữ Như ý
bảo quang diệu, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết diệu pháp sâu xa, thì hoan
hỷ, phấn chấn, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải,
gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức
Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho chúng con cách tu hành về diệu pháp
sâu xa. Thiên nữ nói lời chỉnh cú sau đây.
- Đấng Soi thế giới!
- đấng Lưỡng túc tôn!
- đấng Tối thắng nhất!
- con xin hỏi Ngài
- về cách bồ tát
- tu hành chính xác.
- Xin Ngài từ bi
- cho phép con hỏi.
Đức Thế tôn dạy, thiện nữ
thiên, có điều gì nghi hoặc thì tùy ý mà hỏi. Như lai sẽ giảng giải
cho. Thiện nữ thiên liền thỉnh vấn đức Thế tôn, rằng
- Các vị bồ tát
- làm sao tu hành
- bồ đề chánh hạnh,
- rời cả sinh tử
- cùng với niết bàn
- mà lợi mình người?
Đức Thế tôn dạy, thiện nữ
thiên, hãy dựa pháp tánh mà hành bồ đề, tu bình đẳng hạnh. Dựa pháp
tánh mà hành bồ đề, tu bình đẳng hạnh là thế nào? Là chính nơi ngũ uẩn
mà phát hiện pháp tánh. Pháp tánh là ngũ uẩn. Nhưng ngũ uẩn với pháp
tánh không thể nói tức, cũng không thể nói rời. Nếu nói pháp tánh tức
ngũ uẩn thì thế là đoạn kiến, nếu nói pháp tánh rời ngũ uẩn thì thế
là thường kiến. Phải rời cả hai khái niệm, không vướng hai cực đoan,
không thể thấy, vượt trên sự thấy, không danh từ, không ấn tượng,
như thế mới là nói về pháp tánh.
Thiện nữ thiên, chính nơi ngũ uẩn
mà phát hiện pháp tánh là thế nào? Là xét ngũ uẩn không do yếu tố tương
quan mà phát sinh. Nếu nói do yếu tố mà phát sinh, thì đã sinh mà sinh, hay
chưa sinh mà sinh? Nếu nói đã sinh mà sinh thì cần gì yếu tố? Nếu nói
chưa sinh mà sinh thì sự sinh ấy không thể có được. Chưa sinh là không
có, không có danh từ, không có khái niệm, không phải tính toán hay ví dụ
mà diễn tả được, vì đâu phải là cái do yếu tố tương quan mà sinh
ra. Thiện nữ thiên, hãy nói như tiếng trống: do gỗ, do da, do dùi, do tay,
do đủ thứ mới có tiếng phát ra. Tiếng ấy quá khứ đã không có, vị
lai sẽ không có, hiện tại cũng không có. Tại sao, vì tiếng ấy không do
gỗ mà có, không do da mà có, không do dùi do tay mà có, không có cả trong
ba thì gian, thì thế là không sinh. Không sinh thì không diệt. Không diệt
thì không đến từ đâu. Không đến từ đâu thì không đi đến đâu.
Không đi đến đâu thì phi thường phi đoạn. Phi thường phi đoạn thì phi
nhất phi dị. Nếu là nhất thì không khác pháp tánh, mà nếu thế thì
phàm phu đáng lẽ thấy được pháp tánh, được niết bàn tối thượng an
lạc; nhưng đã không phải như vậy thì biết phi nhất. Nếu là dị thì chư
vị Như lai và chư vị Bồ tát thi hành toàn là chấp trước, chưa được
giải thoát, không chứng bồ đề; nhưng đối với thánh giả thì cái ngũ
uẩn chuyển biến với cái pháp tánh phi chuyển biến đồng là thật tánh,
thế nên phi dị. Do vậy mà biết ngũ uẩn phi hữu phi vô, phi do yếu tố
phát sinh, phi không do yếu tố phát sinh, và là cái thánh trí biết đến,
không phải lĩnh vực của người khác; lại là cái không phải ngôn ngữ
diễn tả, không danh từ, không khái niệm, không nhân tố, không duyên tố,
không thể ví dụ, đầu cuối vắng lặng, xưa nay tự không. Như thế đó
gọi là chính nơi ngũ uẩn mà phát hiện pháp tánh. Thiện nữ thiên, thiện
nam hay thiện nữ nào muốn cầu vô thượng bồ đề thì phải phi chân phi
tục, vượt quá suy lường, phàm cảnh thánh cảnh phi nhất phi dị, [nói
tóm], không bỏ tục, không rời chân, thì đó là dựa pháp tánh mà hành bồ
đề.
Đức Thế tôn dạy như vậy rồi,
thiện nữ thiên phấn chấn hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt
áo của vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính,
nhất tâm đảnh lễ, mà thưa, bạch đức Thế tôn, đúng như lời Ngài đã
huấn dụ về bồ đề hạnh, con nguyện xin tu học.
Bấy giờ đại phạn thiên vương
chủ của thế giới hệ Sách ha, ở trong đại hội, hỏi thiện nữ thiên
Như ý bảo quang diệu, rằng bồ đề hạnh như vậy thật khó tu tập, thiện
nữ làm sao tự tại được với bồ đề hạnh ấy? Thiện nữ thiên nói,
đại phạn vương, như lời Thế tôn huấn dụ thì thật sâu xa, chúng sinh
khó mà nhận thức, vì đó là lĩnh vực của thánh giả, nhiệm mầu, khó
biết. Nhưng, đối với diệu pháp ấy tôi sống được yên vui trong đó, nếu
lời này mà thật thì ước nguyện toàn thể chúng sinh trong cái thời kỳ
đầy cả năm thứ dơ bẩn này đều thành màu hoàng kim, đủ ba mươi hai
tướng tốt, phi nam phi nữ, ngồi tòa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui,
thiên hoa tự mưa xuống, thiên nhạc tự tấu lên, mọi cách hiến cúng đầy
đủ tất cả. Thiện nữ thiên nói rồi, tất cả chúng sinh trong thời kỳ
đầy cả năm thứ vẩn đục này đều thành màu hoàng kim, đủ tướng đại
trượng phu, phi nam phi nữ, ngồi tòa sen ngọc, hưởng vô lượng yên vui y
như Tha hóa tự tại thiên cung, không mọi đường dữ, cây ngọc có hàng
có lối, hoa sen bảy chất liệu quí đầy cả thế giới, lại mưa xuống
thiên hoa bảy chất liệu quý rất đẹp, thiên nhạc tấu lên. Và thiện nữ
thiên Như ý bảo quang diệu thì biến thể nữ thân thành thân đại phạn
vương. Bấy giờ đại phạn vương hỏi thiện nữ thiên Như ý bảo quang
diệu, ngài hành bồ đề hạnh như thế nào? Thiện nữ thiên nói, đại phạn
vương, như trăng dưới nước hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề
hạnh, như chiêm bao hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh,
như sóng nắng hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh, như tiếng
vang hành bồ đề hạnh thì tôi cũng hành bồ đề hạnh. Đại phạn
vương nghe nói như vậy thì thưa rằng, kính bạch bồ tát, ngài dựa vào
ý nghĩa nào mà nói như vậy? Thiện nữ thiên trả lời, đại phạn
vương, không một pháp nào là thực tại, toàn do yếu tố tương quan mà
thành. Đại phạn vương nói, nói như ngài thì phàm phu lẽ đáng được vô
thượng bồ đề cả! Thiện nữ thiên nói, ngài nói như vậy là với ý
gì? [Ngài nên biết, phàm phu thì cho] người ngu khác, người trí khác, bồ
đề khác, phi bồ đề khác, giải thoát khác, phi giải thoát khác; nhưng,
đại phạn vương, [thánh giả thì thấy] các pháp như vậy bình đẳng không
khác, biết pháp tánh chân như phi nhất phi dị, cũng không có cái trung
tính để mà chấp trước, bất tăng bất giảm. Đại phạn vương, như nhà
ảo thuật và đồ đệ của mình, rất rành ảo thuật, đến chỗ ngã tư,
dùng những vật liệu cát đất cỏ cây vân vân, gom lại một chỗ mà làm
ảo thuật. Làm cho người ta thấy những voi, những ngựa, những xe, vân
vân, thấy đống bảy loại quí báu, thấy kho lẫm tràn đầy. Rồi kẻ khờ
khạo không biết suy xét, không hiểu ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng
cho là thật, voi thật ngựa thật vân vân, và chỉ thế là thật, ngoài ra
là dối cả, sau đó không còn suy xét gì nữa. Còn người hiểu biết thì
trái lại, biết cái gốc ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng nghĩ, những
thứ ta thấy, thấy voi thấy ngựa vân vân, toàn là giả cả, chỉ do ảo
thuật mê hoặc mắt người, vọng cho là voi, là lẫm, nhưng chỉ có tên,
không có thật, nên cái ta thấy nghe không nên chấp là thật, sau đó càng
xét biết là dối trá. Do vậy, trí giả thì biết các pháp không thật, chỉ
do thế nhân thấy gì nghe gì thì nói ra như thế, chứ xét cho kyՠthì không
phải như thế. Và như thế thì cũng do nói giả mà xét ra nghĩa thật. Đại
phạn vương, chúng sinh chưa có mắt tuệ của các vị thánh giả, chưa biết
chân như của các pháp là không thể nói, nên thấy hay nghe cái pháp hữu
vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến thì tư duy y theo thấy
nghe và chấp cho là thật; trong chân đế, họ không thể thấu hiểu chân
như các pháp là không thể nói. Còn các vị thánh giả thấy hay nghe cái
pháp hữu vi chuyển biến với cái pháp vô vi phi chuyển biến, thì tùy trí
lực mà không chấp là thật có, thấu hiểu tất cả không có gì là hữu
vi chuyển biến, không có gì là vô vi phi chuyển biến, chỉ vọng tưởng là
chuyển biến phi chuyển biến, chỉ có tên không có thật. Thế rồi các vị
thánh giả ấy tùy tục đế mà nói cho người khác biết sự thật là như
vậy. Đại phạn vương, các vị thánh giả sử dụng sự thấy biết của
bậc thánh, thấu hiểu chân như là không thể nói, chuyển biến phi chuyển
biến cũng như vậy, nhưng vì làm cho người khác cũng biết như vậy nên
nói ra bao nhiêu dạng thức của danh ngôn tục đế. Bấy giờ đại phạn
vương lại hỏi bồ tát Như ý bảo quang diệu, rằng có bao nhiêu chúng
sinh hiểu được cái pháp sâu xa như thế này? Bồ tát nói, đại phạn
vương, có tâm vương và tâm sở của những người được ảo thuật tạo
ra biết được cái pháp sâu xa này. Đại phạn vương nói, người ảo thuật
thì không thật có, vậy tâm vương tâm sở có từ đâu? Bồ tát nói, [lời
tôi nói có nghĩa] nếu biết pháp tánh phi hữu phi vô, thì người ấy biết
được nghĩa lý sâu xa này.
Đại phạn vương thưa đức Thế tôn,
bạch Ngài, vị bồ tát Như ý bảo quang diệu này thật bất khả tư nghị,
thông suốt đến như vậy đối với nghĩa lý cực kỳ sâu xa. Đức Thế tôn
dạy, đúng như vậy, đại phạn vương, đúng như ông nói. Thiện nữ
thiên Như ý bảo quang diệu đã từ lâu giáo huấn cho các người phát tâm
tu học vô sinh pháp nhẫn. Đại phạn vương cùng với phạn chúng, liền đứng
dậy khỏi chỗ họ ngồi, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải
quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, lạy ngang chân bồ tát Như ý bảo
quang diệu mà nói như vầy, thật là hiếm có, ngày nay chúng tôi hạnh ngộ
đại sĩ, được nghe pháp nghĩa đại sĩ nói. Đức Thế tôn bảo đại phạn
vương, vị thiện nữ thiên Như ý bảo quang diệu này, trong thì vị lai sẽ
thành Phật đà, danh hiệu là Bảo diệm cát tường tạng, bậc Đến như
chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn
hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai
trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc
Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời.
Khi đức Thế tôn tuyên thuyết
pháp thoại này thì có ba ngàn ức bồ tát không còn thoái chuyển vô thượng
bồ đề, tám ngàn ức thiên tử và vô số quốc vương cùng thần dân đều
xa bụi bặm, rời dơ bẩn, được sự trong sáng của mắt pháp.
Bấy giờ trong đại hội có năm
mươi ức Bí sô hành bồ tát hạnh mà muốn thoái chuyển bồ đề tâm, nhưng
khi nghe bồ tát Như ý bảo quang diệu thuyết pháp như trên thì ai cũng được
sự kiên định bất khả tư nghị, thỏa mãn ước nguyện tối thượng, phát
lại bồ đề tâm, và cởi pháp y mà hiến lên bồ tát, phát lại cái chí
thắng tiến tối thượng, và nguyện rằng bao nhiêu thiện căn của chúng
tôi đều được không còn thoái chuyển, hồi hướng về vô thượng bồ
đề. Đức Thế tôn nói với đại phạn vương, các vị Bí sô này do công
đức này mà tu hành đúng như huấn dụ, qua chín mươi đại kiếp thì sẽ
được chứng ngộ, thoát ly sinh tử. Đức Thế tôn liền thọ ký cho, rằng
chư vị Bí sô, qua ba mươi vô số kiếp, chư vị sẽ được thành Phật đà,
với thời kỳ tên Nan thắng quang vương, quốc độ tên Vô cấu quang. Chư
vị đồng thời chứng đắc vô thượng bồ đề, đồng một danh hiệu
Nguyện trang nghiêm gián sức vương, đủ mười đức hiệu.
Đại phạn vương, bản kinh nhiệm
mầu Ánh sáng hoàng kim này ai chính xác nghe nhớ thì có uy lực rất lớn.
Giả sử có ai tu hành sáu ba la mật trong trăm ngàn đại kiếp mà không có
[sự nhận thức về Không làm] phương tiện, mặt khác, nếu có thiện nam
hay thiện nữ nào sao chép kinh Ánh sáng hoàng kim này, cứ mỗi nửa tháng
đọc tụng chuyên chú, thì cái khối công đức này, công đức trước không
bằng một phần trăm, đến nỗi toán số hay ví dụ cũng không đối chiếu
được. Đại phạn vương, do vậy mà Như lai khuyến khích các người tu học,
chánh niệm, thọ trì, tuyên thuyết phong phú. Tại sao, vì xưa kia, khi Như
lai đi trên đường đi bồ tát thì, như dũng sĩ xung trận, Như lai không tiếc
tính mạng mà lưu thông bản kinh vua chúa và nhiệm mầu này, tiếp nhận,
ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, giải thích cho người. Đại phạn
vương, luân vương còn thì thất bảo còn, luân vương mất thì thất bảo
cũng tự nhiên mất theo. Cũng y như vậy, Đại phạn vương, kinh vua Ánh
sáng hoàng kim này nếu còn thì pháp bảo tối thượng còn cả, nếu không
còn thì pháp bảo cũng ẩn mất hết. Do vậy, đối với kinh vua này, các
người phải chuyên tâm mà lắng nghe, mà ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc,
giải thích phong phú cho bao người khác, khuyến khích họ cũng sao chép và
tu hành bằng sự tinh tiến ba la mật, không tiếc tính mạng, không nài mệt
nhọc. Đó là công đức siêu việt trong các công đức. Là đệ tử của
Như lai thì các người phải siêng năng tu học như vậy. Đại phạn vương
với vô số phạn chúng, Đế thích cùng bốn vị Thiên vương với bộ chúng
Dược xoa, tất cả đều từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai
bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa,
bạch đức Thế tôn, chúng con cùng nhau nguyện giữ gìn và quảng bá kinh
Ánh sáng hoàng kim này, nguyện giữ gìn cho các vị pháp sư giảng nói kinh
này. Có tai nạn gì chúng con cũng trừ khử, làm cho có đủ mọi sự cát tường,
sắc tướng và sức lực sung túc, hùng biện vô ngại, cơ thể và tâm trí
đều thư thái cả. Và cả thính giả nữa cũng yên vui hết thảy. Quốc
gia họ ở nếu bị đói khát, giặc giã, kẻ thù, quỉ thần, quấy rối
và tác hại thì chư thiên chúng con sẽ hộ trì cho. Dân chúng mà yên ổn,
sung túc, không oan khuất, không tai họa, là do sức của chư thiên chúng
con. Ai hiến cúng kinh này thì chúng con tôn kính hiến cúng y như đối với
đức Thế tôn, không khác gì cả. Đức Thế tôn bảo đại phạn vương,
phạn chúng, cho đến bốn vị Thiên vương, cùng bộ chúng Dược xoa, lành
thay, các người đã được nghe diệu pháp sâu xa, đối với kinh vua của
diệu pháp ấy lại phát tâm hộ trì, hộ trì những ai thọ trì kinh ấy,
thì các người đã đạt được cái phước thù thắng và vô biên, mau
chóng thành tựu vô thượng bồ đề. Đại phạn vương, và mọi người đồng
đẳng, nghe những lời đức Thế tôn huấn dụ thì hoan hỷ, cung kính mà
tiếp nhận.
Mục
Lục
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|7
|
8
|
9|
10
|
11|
12|
13|
14|
15|
16|
17|
18|
19|
20|
21|
22|
23
| 24
|
25
|
26
|
27|
28|
29|
30|
31|ghi
chú|
--- o0o ---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Source
: www.buddhismtoday.com
-o0o-
Trình
bày: Nhị
Tường
Cập
nhật:
01-02-2002