Thiền Sư Thanh Từ
Tánh của pháp giới vốn không có ngộ mê, các loài hàm thức tự phân chân
vọng. Chân vọng vốn nơi một tâm, mê ngộ bày ra muôn pháp. Pháp không có
pháp khác mà dường như các pháp hiện tiền. Tâm không có tâm khác mà rõ
ràng thành thức tương tục. Nguyên nhân chỗ tột chân mà bất giác, vọng động
nên tưởng sanh. Đạt vọng vốn chân, biết chân thì tưởng diệt. Thế nên mười
hai loài chúng sanh vốn là Phật mà dối thấy có lưu chuyển. Ba mươi hai
tướng hiện sẵn trong tướng phàm phu mà trở thành điên đảo. Cho nên, Thế
Tôn đại giác của chúng ta mới cổi chiếc áo quý báu, mà mặc chiếc áo nhơ
rách. Chỉ nơi chân tế (mé thật) là vô minh, nói như huyễn là hư ngụy. Căn
thân và khí giới đều tùy tình lượng mà phân chia. Cõi Phật và ứng thân đều
y nơi trí chiếu mà có sai biệt. Như gương sáng tùy vật mà hiện hình đẹp
xấu. Cái rỗng sáng vô tướng vốn là lặng lẽ. Ví như mặt trăng tùy người mà
có đi lại, chỉ người tự thấy, ánh sáng vằng vặc treo giữa hư không vẫn
không khuyết. Đến hình đẹp xấu để bàn về ánh sáng của gương, căn cứ nơi
người đi lại để xem thể mặt trăng, thảy đều do con mắt bệnh. Đây là chỗ
thánh trí không cho im lặng vậy.
Cái rỗng sáng vô tướng đâu cho nói bàn, chỉ nói chẳng phải đẹp chẳng phải
xấu. Ánh sáng vằng vặïc treo giữa hư không, không cần chỉ bày, chỉ nói
không phải đi không phải đến. Mong chạm mắt để ngộ tâm, chỉ sợ bỏ mặt
trăng mà nhìn ngón tay. Nhân xấu mà chỉ ra đẹp, tức nơi đến mà nói đi. Xét
tột ánh sáng gương tìm không ra tướng xấu thì tướng đẹp làm sao có đối
đãi? Tìm cùng cái thể của mặt trăng không có dấu đến thì đi làm gì có? Đẹp
xấu đều là vọng, thể gương vốn không, đến đi thảy dối, chất mặt trăng vẫn
sáng.
Vì thế, một trăm lẻ tám câu bặt dứt nói năng, ngay đó để phát minh nghĩa
gì? Tám thứ thức xét cùng là sanh diệt, từ vô thủy nó là hư dối không phải
nhân. Chân trí vốn không phân biệt bèn trở thành tâm bất giác. Vì cái bản
tịch chẳng giữ linh nguyên mà biến thành thức vọng động. Tâm chẳng sanh
thức, hằng Niết-bàn mà ở trong lưu chú (thức lưu chú). Thức chẳng lìa tâm,
luống sanh tử mà ở trong thường trụ (Niết-bàn). Một phen con mắt bệnh thì
ngàn hoa đốm rối loạn trong hư không. Một phen vọng che tâm thì các tình
lượng đóng cửa trí. Bệnh hết con mắt vẫn còn, hoa đốm sạch hư không vẫn
trong. Vọng sạch thì tâm tròn, tình mất thì trí sáng.
Nếu như trí bị bít trong cửa tình thì toàn trí đều là tình. Tâm mờ mịt
trong biển thức tức toàn tâm là thức. Sức huân biến không thể nghĩ bàn, mé
thật sanh tử thật khó biết. Nếu các thứ hư vọng mà có nhân để nương thì sự
tương tục của căn và thức đâu có thể dừng. Nếu chẳng chuyển lại cái chân
thức kia, ắt sanh chấp lầm là sanh nhân. Thức lưu chú bởi mê nên có nhãn
thức, sắc trần, ánh sáng chung hợp. Nếu chấp tánh thắng diệu cho là thức,
có khác gì kẻ ngu tìm lông rùa, ép cát lấy dầu. Vọng chấp có không nhân
quả thành rỗng. Thảy do chẳng rõ được hiện tiền bèn cho là riêng có. Cũng
bởi chưa từng thấy chỗ tột cùng mới lầm chấp là minh sơ.
Do tâm không có mé trước, phàm có hiện ra đều bởi mê mà sanh. Thức không
có duyên sau, chỉ rõ được tướng ban đầu thì thảy đồng huyễn hóa. Chán sanh
ưa lặng, diệt các thứ nhiếp thọ, liền thấy chỗ chung cục của cảnh giới. Bỏ
vọng chứng chân, đã thành đối trị, cũng chưa rõ đầu mối sanh diệt. Bởi lẽ
ngộ không có sai biệt, mà mê có cạn sâu. Tâm không có đồng khác mà thức có
ranh vực. Thế nên biển tàng thức khó lường, giác tâm thì thường trụ. Sanh
tử và Niết-bàn không có người tạo, dựng lập phàm thánh chỉ là cái bóng
rỗng. Chỗ hiện của vọng tưởng, chỗ hành của thánh trí, căn trần tâm thức
đều chẳng lìa nhất chân, mà bờ mé mê ngộ thường xa. Trên tánh chân như
tình tưởng mỗi cái có khác, ấy là lý do thăng trầm trong sáu thú. Trong
pháp vô vi trí và hạnh có nhiều đường, nhân đó mà tứ thánh có cao thấp.
Thức thứ tám chỉ có lỗi mê, nên sóng mòi nổi dậy, song tánh ướt trong biển
vẫn thường còn. Bảy chuyển thức vốn không có nhân chân thật, tuy lóng
trong yên lặng mà dòng tinh trạm (thức thứ tám) sức nó chưa dừng. Cho nên
cái tinh trạm hợp chẳng lìa mé thức, đây càng thấy rõ bởi do xúc mà sanh
thọ. Toàn sóng là nước, vì chỉ cho kẻ ngu nên dùng môn bất nhị. Lý chân
thật thì lìa ngôn ngữ, chính là chỗ tự ngộ của người tiến tu. Tột cùng bi
trí tròn đầy ba tướng (giải thoát, ly, diệt) nơi nguồn giác. Trừ sạch thức
hiện lưu vượt khỏi ngũ pháp (danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như )
ra ngoài chỗ nghĩ bàn.
Kẻ bỏ tự tông (tâm) này liền rơi vào tà kiến. Chẳng rõ tự tâm hiện ra, dối
nói có sanh nhân (có cái đầu mối sanh ra). Người xét biết muôn pháp về
không, lại rơi vào đoạn diệt. Tìm cùng lý do của sừng thỏ, chia chẻ tột
chi tiết của sừng trâu, mới biết đối đãi nhau, cuối cùng thuộc vô nhân
(không có nguyên nhân). Nương nơi không nên có sắc, nương nơi sắc nên có
không, phân biệt rõ ràng.
Bỏ sắc để thấy không, bỏ không để tìm sắc thì lấy bỏ đành rành. Đâu biết
đồng thời liền hiện, cảnh trong mộng đâu có trước sau. Hai tướng không
khác, sau khi giác ngộ ai còn thấy kia đây?
Ngộ thì hoàn toàn ngộ, biết rõ vọng thì đâu cần phá trừ. Mê mà không biết
mê, nhân căn cơ bèn có đốn tiệm. Lìa ấm, giới, nhập được diệt môn giải
thoát. Bày thí, giới, nhẫn hiển đạo ba-la-mật. Phá cái phàm tình chấp ấm
này, dẹp cái dị thuyết chấp vô nhân kia. Chỉ rõ duyên khởi không tánh, do
vọng mà có tưởng sanh. Nêu rành vọng tưởng từ nơi mê, nên tình lượng không
có thật thể. Dẫn trở về tự giác, chóng vào lý quên lời. Bỏ cái tâm phan
duyên theo năng và sở, rõ cái tướng tột cùng sai biệt. Nói có chia báo
thân, hóa thân, mà thừa thì không hai không ba. Thanh văn biết như thật
nên chỉ khác với hàng ngoại đạo. Bồ-tát chẳng quên bản nguyện, vẫn còn
ngại ưa vắng lặng. Về đệ nhất nghĩa đế còn chẳng phải cảnh giới của Nhị
thừa. Huống là “tánh thường” chẳng thể nghĩ bàn thì đâu đồng với tướng
nhân của ngoại đạo. Tự giác cái chân nhân thì thật có tự tánh, vô thường
tướng khác chỉ rơi vào chỗ nghĩ bàn. Tánh bản trụ không thuộc về thấy
nghe, do dính với cảnh sở tri bèn đem cái giác biến thành cảnh. Thánh trí
vượt ngoài phân biệt, chỉ chớ mê niệm hiện tại, mới thấy rõ lý tâm không
thể nói năng.
Bởi không giác ngộ tự tâm, nên tùy sự tu tập mà sanh ra các thừa, mỗi thừa
tự thành chủng tánh. Chẳng phải không có Phật tánh, Phật thừa thần lực
nhiếp hóa chúng xiển-đề, ắt cũng có nhân duyên. Cho nên biết mê ngộ đồng
duyên mà tâm biết mỗi người có khác. Thánh và phàm đồng một chân thật, bởi
giác và tưởng mà có phân chia. Như đồng ấm, giới, nhập mà một bên thấy là
ta là người, một bên thấy là vô ngã, nghĩa thật do đó mà cách xa. Như tâm,
ý, thức có pháp cho là tức ngã, có pháp cho là ly ngã, mà thể giác chưa
từng biến đổi. Bởi phá chấp trở về chân thật, nên lập tánh có ba (biến kế,
y tha, viên thành). Nhân nơi ngã chỉ bày là không, nên thành có hai trí
(nhân không, pháp không). Thấu rõ thật tướng các pháp thì nơi danh, tướng
tức là như như. Khéo biết tự tánh chân không thì vọng tưởng biến thành
chánh trí.
Bồ-tát như tự tánh vọng tưởng, y duyên khởi mà đối hiện sắc thân. Vào chỗ
chư pháp như huyễn mà không rơi vào có và không, khắp dạo các cõi nước.
Rộng độ chúng sanh mà không có chúng sanh được diệt độ. Hiện bày huyền
nghĩa đâu rơi vào nói năng. Vì đối trị tâm phân biệt nên nói không có cảnh
giới. Dẹp trừ cái tưởng vô ngã, vì nói môn Như Lai tàng. Chớ kẹt vào cái
khéo phương tiện, chỉ nên chứng pháp ở trong. Cái lý “không không” sâu xa
chẳng phải do ngôn ngữ có thể bày hiện. Người tăng tiến bậc thượng thượng
sẽ được chỗ sở hành của tự giác. Lìa tứ cú (có, không, cũng có cũng không,
chẳng phải có chẳng phải không), vượt ngoài tam chi (tông, nhân, dụ), hiện
trong bóng sáng trăng nước, ra ngoài kiến lập và phỉ báng.
Thiền-na bày bốn (sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền), về thánh lạc
chỉ có ba. Không, vô tướng, vô nguyện đối với thật đế rất là phù hợp. Thọ,
tịch tịnh, giác tri trong thân chỉ nên thầm hợp. Làm tiêu băng tâm ý thức
sanh tử, trở về nước Như Lai tạng Niết-bàn. Tự tánh không việc, chẳng phải
đoạn chẳng phải thường. Hoa giác như huyễn chẳng hoại cũng chẳng tử. Cho
nên ngoài tự tánh vọng thấy có Niết-bàn, đều thuộc về nhân duyên thì chỉ
có nói năng. Pháp như huyễn hằng ở trong sanh tử đồng với hoặc loạn, mà
ngay đó là vô sanh. Vì không tánh nên nói vô sanh. Vì vô sanh nên nói như
huyễn. Pháp như huyễn chẳng rời cảnh giới Văn Thù và Phổ Hiền, nên không
thể nói năng. Lý vô sanh tánh nó là ly, nên không phải chỗ biết của ngoại
đạo và Tiểu thừa, nên dứt nghĩ bàn.
Tứ quả chẳng ngoài tâm lượng, nhị giác đều do chọn lựa Niết-bàn. Lìa thức
lại-da không có tánh chứa đựng. Lìa cái bất giác thì không có lại-da. Bảy
chuyển thức vốn là vô sanh, luống phân biệt nên tăng thêm bất giác. Bởi
bất giác nên duyên khởi vọng có tướng sanh, giác được cái vọng do mê thì
tánh Viên thành tự hiện.
Mười phương ba đời đồng là nhất thừa, thế và xuất thế gian vốn không có
hai cái ngã. Thấu được cái chân truyền, vọng tưởng không tánh, suốt yếu
chỉ tự giác, không do nơi người. Mới biết tâm chẳng sanh duyên, duyên
chẳng sanh tâm. Tâm và duyên cả hai đều bặt thì tịch chiếu khắp hà sa. Sự
và lý dung thông nhau, không và hữu, bóng hiện trong hải ấn. Một địa (địa
vị Bồ-tát từ sơ địa đến thập địa) là tất cả địa, tất cả địa là một địa. Rõ
thấu pháp vốn vô sanh thì dung hội được hình bóng trong gương và nước.
Thuận tánh khởi dụng thì xếp đặt các chủng loại ở chốn không minh. Đoạn
ngoại sắc của La-hán, hại hữu tâm của giác thân. Phật không có tự và tha,
pháp đồng xưa và nay. Cứu kính trọn không có một chữ, tùy loài bèn có ba
thân.
Nếu chấp có, trở lại kẹt nơi vô nhân. Nếu nhận không bèn thành hoại pháp.
Pháp giới vốn tự vô sanh, do vọng nên theo duyên khởi. Tánh tướng vắng
lặng, đâu cho có tâm chấp hữu. Nhân quả rõ ràng, khó khỏi cái nghiệp vô
tác. Có không đều chẳng chấp mới vào được tự tông (tâm tông). Phương tiện
tùy cơ không thể chẳng nói. Nhân nơi tông (tâm) khởi lời nói, do lời nói
đạt được tông (tâm). Các thứ chẳng thật tức là cái đệ nhất như thật tự
tánh vốn không. Chỗ vọng tưởng phát sanh, tức là vọng tưởng chẳng sanh,
tùy duyên đâu có khác. Một sanh một chẳng sanh, do vọng thấy mà thành tà
kiến. Tứ tướng (ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả) và tứ bình đẳng (từ, bi,
hỷ, xả) trong chân giác không có hai. Do nơi ngữ mà thể nhập nghĩa, nên
kinh điển hiển bày nguồn tâm. Biện được thức rõ được trí, ở bậc Như Lai
chỉ duyên mà tự được. Tất cả các pháp, tâm làm tự tánh, an trụ trong tâm
thì không có tướng chuyển biến. Tất cả cái tương tục, giác là liễu nhân,
trở về bản giác mới là biết như thật.
Vì ngăn vọng chấp nên nói pháp không. Vì lìa khủng bố nên nói tánh hữu.
Như thế đều chẳng phải lời nói chỉ đến chỗ tột cùng. Chẳng qua, tùy phương
tiện để chỉ bày vậy. Không lập tông thì tự tướng các pháp mới sáng tỏ.
Chẳng phải vô trí, vì vọng tưởng và vô tri mà tự khác. Giáo liễu nghĩa
diệu chỉ ở trước lời nói. Người tu hành đạt được tông thú, giác ngộ vượt
ngoài chánh lý. Y lời nói mà nhận nghĩa là bị danh ngôn dối gạt. Đạt lối
tẽ của pháp mới dẹp trừ được thế luận. Chỉ biết lìa văn cú mà chẳng phải
lặng thinh. Lại biết tột các duyên tâm mà chẳng thành đoạn diệt. Thế thì
cái chân vọng đối đãi liền được dung thông. Đây là lối đối trị năng và sở
đều dứt. Pháp giải thoát như thật duy tự chứng biết. Niết-bàn vô trụ là
pháp bình đẳng, chẳng phải nhân chẳng phải quả. Tri giác của Như Lai có tự
mà không tha, tức nơi sắc thân là pháp thân, chư Phật khéo ứng hiện đâu
phải không, vô nghĩa.
Vô tánh là phi vô, dị danh là phi hữu. Phi vô là pháp không sanh, chẳng
theo duyên diệt. Phi hữu là pháp chẳng diệt, đâu đợi duyên sanh. Chẳng
theo duyên diệt, mà vì chúng sanh nói là chẳng sanh. Không đợi duyên sanh,
mà vì chúng sanh nói là chẳng diệt. Tạm mượn phương tiện lập bày để xây
dựng chương cú đại thừa. Vì thế giỏi nghĩa mới gọi là đa văn. Dụ xem ngón
tay là quở trách kẻ ngu. Tướng vô kiến là tánh thật của vọng tưởng. Lìa
vòng xúc xích của mười hai nhân duyên tức là phân biệt tuệ không. Hai thứ
ác kiến (thường, đoạn) nhân mê các pháp mới sanh. Ba cõi nảy sanh do tâm,
chỉ y trong tự giác mà trụ. Phi thường và vô thường quyết định không có
tánh. Có nhiếp thọ và không nhiếp thọ, sự sai biệt đều do người. Giác ngộ
pháp có tướng khác, vẫn thuộc về thiền định của nhị thừa. Bồ-tát nhớ nghĩ
đến bản nguyện, còn đợi đến bát địa giác ngộ mới giữ gìn. Mộng qua sông đã
tỉnh, thì ánh sáng của ngọn lửa mạnh mới khắp.
Các bậc trụ không có, cứu kính khác gì sơ tâm. Phật địa trang nghiêm được
nhanh, thủy giác tức là tối thắng. Nếu chấp tự giác thánh trí thường không
sanh thì có lỗi, vì nó khác với hư không kia. Bởi dùng phương tiện tu hành
chứng được, nên chẳng đồng với nhân tác của ngoại đạo. Tự tánh không nhơ,
bất giác mà thành cái nhân các thú. Bảy chuyển thức nhiếp trì, tuy vô ngã
mà vẫn còn cái lỗi của tập khí thừa. Như Lai tàng tánh vốn không sanh
diệt, do khách trần mà in tuồng có trọc có thanh. Từ tục vào chân phải
nương nơi năm pháp. Do trí đến tịnh chỉ rõ được nhất tâm. Chư Phật ba đời
vượt hẳn mọi sự tôn trọng của thế gian, vì dựng lập tự tâm thông suốt,
không phải như hoa ưu-đàm-bát. Tập khí vô lậu không phải là nghĩa sát-na,
nếu an trụ chánh pháp thì xem nó như thành Càn-thát-bà. Lục độ cũng chia
có quyền thật. Ba Phật (pháp, báo, hoá) lẫn nhau phát minh. Thúc đẩy Nhị
thừa đến chỗ cứu kính, khuyên chúng sanh trong ba cõi tu hành trong sạch,
thảy thuộc về quyền lập, đều là Phật hóa thân nói. Nếu bàn về bổn trụ
(pháp thân) trọn không có ngữ ngôn, chỉ nói phi thừa khiến người tự khế
ngộ. Bản giác thanh tịnh chẳng nhờ công huân tập. Tự tánh đã trang nghiêm
đâu cho ô nhiễm. Nên nói “căn bản trí sáng, sai biệt tuệ đầy, trước sau
gốc ngọn hội tột chỗ vô ngôn” ấy vậy.
Tóm lại, đại đạo không dấu vết, chỉ ở trước mắt. Chỗ chí lý bặt nghĩ
lường, chẳng bàn kiếp ngoại. Do đó, đức Thế Tôn đóng cửa thất nơi nước
Ma-kiệt (Magadha), ngài Duy Ma Cật lặng thinh trong thành Tỳ-da (Vaisàli).
Chẳng nói mà nói, phơi bày sum la vạn tượng; chẳng nghe mà nghe, gom ngàn
căn cơ về nơi vắng lặng. Vừa dính tình lượng đã rơi vào hiện giờ. Chỉ cần
trở về, đâu cần phô bày hình tướng. Thế nên, đêm ấy thành Phật, đêm ấy
Niết-bàn, khoảng giữa chẳng nói một chữ. Bản tế sanh tử, bản tế Niết-bàn,
tùy thuận đâu có hai dòng. Diệu tại chẳng biết, lỗi cũng tại chẳng biết.
Mê phi cú này, tức ngộ cũng phi cú này. Toàn thân trong mộng, khi thức
cũng chẳng rời khỏi gối mền. Trong cái tưởng sai biệt, xoay lại không
ngoài việc xem gương. Như nước ngậm trăng, trong ngoài đều loãng. Như
gương soi không, rỗng sáng xen nhau. Từ cổ đến kim, từ sáng đến tối đâu do
có người mà thêm đẹp đẽ. Nào bởi không kiếp mà giảm bớt hư minh. Người mất
đó cũng đồng tâm biết này. Người được đó chẳng đổi nghe thấy. Cần phải
biết có, đâu dùng lại không. Ngọc ma-ni đâu phân làm năm sắc. Toàn thân
con voi đâu giấu với nhóm người mù. Giữ chân bỏ vọng, khó tránh khỏi sự
chê “nối dòng chim le dứt dòng chim cò”. Mở cái tối bít cái sáng, không
khỏi người cười “dời núi lấp rãnh”.
Bởi vì tám thức vốn rỗng, năm pháp đều giả. Hai cái ngã (nhân và pháp) dối
tự gìn giữ. Ba tánh lầm nương nhau mà lập. Ngàn sai muôn khác chẳng qua
một cái mê. Tột trước cùng sau cứu kính trở về niệm hiện tiền. Tin pháp
môn thẳng tắt không do đâu, hội được pháp tổng trì mới chung cục. Cái bất
giác trước, cái bất giác sau, như sữa trong nước thật là khó phân. Thánh
rửa tình phàm, phàm che kiến thánh, mảnh than trong tối dễ nhận. Đâu biết
tình mất trí hiệp, tưởng hết thể tròn. Cho nên nói: “Đại đạo chỉ tại trước
mắt, chỗ chí lý đâu bàn kiếp ngoại”.
A-DUYÊN KHỞI CỦA KINH:
Tôi nghe như vầy, một hôm Phật ở trên đảnh núi Lăng-già tại bờ biển Nam,
dùng các thứ hoa báu trang nghiêm, cùng với các vị đại tỳ-kheo tăng và
chúng đại Bồ-tát câu hội. Chúng đại Bồ-tát ấy ở các cõi Phật khác đến.
Các ngài có sức tự tại vô lượng chánh định và thần thông du hý, đại
Bồ-tát Đại Huệ làm thượng thủ. Các ngài đã được tất cả chư Phật làm phép
quán đảnh, và khéo hiểu nghĩa cảnh giới tự tâm hiện, các loại chúng
sanh, các thứ tâm sắc, vô lượng độ môn, tùy loại khắp hiện. Đối với năm
pháp, ba tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã, các ngài đã thông đạt cứu
kính.
Trên hội Niết-bàn, ngài A-nan hỏi Phật: Khi kết tập các kinh, lấy câu
nào để đầu? Phật dạy: Phải dùng câu “Tôi nghe như vầy, một hôm Phật ở…”
làm thông lệ cho các kinh. Kinh này Phật chỉ thẳng cho chúng sanh căn
thân khí giới hiện tiền đều duy tâm hiện, như mộng như huyễn chẳng phải
có chẳng phải không. Một niệm bất giác muôn pháp này đồng hiện. Chính
nơi đó mà phát minh thì chỉ một tâm không có gì khác. Đây là cảnh giới
bất tư nghì của chư Phật, Bồ-tát, không phải chỗ biết của hàng nhị thừa
và ngoại đạo. Cho nên những vị đương cơ cùng chư đại Bồ-tát đồng đến
trong hội, đều được chánh định tự tại và thần thông du hý, khéo hiểu tất
cả cảnh giới tự tâm hiện. Các ngài tùy các thứ tâm sắc của chúng sanh
lập bày phương tiện để độ thoát, và thông đạt cứu kính năm pháp, ba tự
tánh, tám thức, hai vô ngã. Các ngài đủ khả năng thọ nhận đệ nhất liễu
nghĩa của Như Lai, không rơi vào lưới nghi, không bị tất cả ngoại đạo,
Nhị thừa làm hoặc loạn. Những vị đại tỳ-kheo chung hợp trong hội này đều
là hàng Nhất thừa hóa hiện, không đồng với hàng định tánh Thanh văn,
chẳng kham phát tâm Đại thừa. Cho nên phần duyên khởi này cùng với yếu
chỉ Duy tâm của bản kinh phù hợp nhau hiển bày.
B- ĐƯƠNG CƠ KỆ TÁN
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ cùng Bồ-tát Ma-đế hợp nhau dạo tất cả cõi nước
chư Phật, nương thần lực của Phật từ tòa đứng dậy, bày vai áo mặt, quỳ
gối mặt xuống đất, chắp tay cung kính dùng kệ tán thán Phật:
Cõi nước chư Phật tức là cõi nước chúng sanh. Những vị Bồ-tát này hay
chính chỗ nhật dụng của chúng sanh mà thông đạt cảnh giới Phật. Bảo rằng
“Thấy tất cả sắc đều là sắc Phật, nghe tất cả tiếng đều là tiếng Phật,
dạo tất cả cõi nước đều là cõi nước chư Phật”. Do đó các Ngài trên nương
thần lực chư Phật, dưới vì trong hội chúng phát lời tán thán. Những lời
tán thán Phật đều hàm súc ý nghĩa kinh, không có chỉ thú riêng.
Ví như hoa hư không,
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi.
Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức,
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi.
Xa lìa chấp đoạn thường
Thế gian hằng như mộng,
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi.
Phiền não và sở tri (nhĩ diệm)
Thường thanh tịnh không tướng
Mà khởi tâm đại bi.
Phàm phu chấp trong thân ngũ ấm là ngã nên phiền não y đó mà khởi. Nhị
thừa quán ngũ ấm vô ngã mà cái sở tri chưa quên. Cả hai đều thuộc về mê,
không phải có cạn sâu vậy. Ở đây nói “nhân pháp vô ngã, phiền não sở tri
thường tự thanh tịnh” đều là lời tán Phật. Song cũng chỉ rõ phàm phu Nhị
thừa ngay đó toàn không, bởi do bất giác vọng thấy lưu chuyển. Như Lai
biết rõ nên khởi đại bi độ thoát. Tuy không có chúng sanh được diệt độ,
mà mười câu vô tận bản nguyện sâu rộng vậy. Xét theo Tam tế:
Y tâm động khởi năng kiến gọi là Chuyển tướng.
Y năng kiến mà cảnh giới vọng hiện gọi là Hiện tướng.
Ba thứ này, thuộc về thức thứ tám, là cái tập khí hư ngụy từ vô thủy.
Sau y Hiện tướng đối cảnh phân biệt thành Lục thô.
Trí tướng tức pháp chấp câu sanh.
Y trí khởi niệm chẳng dứt gọi Tương tục tướng là pháp chấp phân biệt.
Hai cái pháp ngã (chấp) này, tuy thuộc thức thứ bảy, song cội gốc nó
thật khó thấy. Vì nó y bất giác mà khởi nên rất vi tế. Đến hàng Thập
nhất địa (Đẳng giác) vẫn có hai phần sở tri ngu, cho nên không phải chỗ
Nhị thừa thấy được. Chữ sở tri tức là nhĩ diệm vậy.
Y niệm khởi chấp gọi Chấp thủ tướng, là nhân chấp câu sanh.
Y chấp khởi kế (tính toán) gọi Kế danh tự tướng, là nhân chấp phân biệt.
Hai cái nhân ngã (chấp) này, khởi ra tất cả cội gốc phiền não, cũng
thuộc về thức thứ bảy. Song vì y cảnh phân biệt làm chỗ chấp giữ, nên
hàng Nhị thừa quán nhân vô ngã cũng hay đoạn được mà pháp ngã của thức
thứ bảy chẳng đoạn. Ngài Huyền Trang cho phân biệt thuộc thức thứ sáu,
câu sanh thuộc thức thứ bảy. Song ở đây xét về nguyên do sanh khởi nên
nói chung là thức thứ bảy.
Y nghiệp chiêu báo gọi Khổ hệ tướng.
Hai phần này thuộc về trời người. Nhưng tóm kết Tam tế và Lục thô thảy
đều do bất giác. Nếu giác thì hoàn toàn không, nên nói “thường thanh
tịnh không tướng”.
Không Niết-bàn của Phật
Không có Phật Niết-bàn
Xa lìa giác, sở giác
Hoặc có hoặc không có
Cả hai thảy đều lìa.
Bốn bài kệ trước nói chỗ nhật dụng của chúng sanh thảy là cảnh giới của
Như Lai. Bài kệ này nói Như Lai Niết-bàn chẳng khác với chúng sanh sanh
tử, nên nói “tất cả không Niết-bàn”. Nếu có Niết-bàn thì đâu không sanh
tử; đã có sanh tử tức có chúng sanh sanh tử và có chúng sanh vào sanh
tử. Có chúng sanh sanh tử tức là có Phật Niết-bàn. Có chúng sanh vào
sanh tử tức có Phật vào Niết-bàn. Thế là cái năng giác và sở giác rõ
ràng thành đối đãi. Đâu biết rằng tất cả chúng sanh đã vào Niết-bàn,
chẳng cần lại Niết-bàn. Như Lai thấy rõ nên hay tùy thuận bản tế, sanh
tử Niết-bàn đều như mộng huyễn. Đã tuyệt tâm năng, sở thì không rơi vào
cái thấy có, không. Bậc Vô thượng chánh chân không thể đem trọn sự suy
xét so lường đến được.
Thế là xa lìa sanh
Ấy gọi là chẳng thủ
Đời này đời sau tịnh.
Nguồn: www.quangduc.com