Lời
Dịch Giả
Kinh Kim Cang là một
phẩm trong Kinh Đại Bát Nhã 600 quyển. Kinh này từ đầu đến cuối đều hiển
bày nghĩa ba câu, nếu đọc giả thấu suốt được nghĩa ba câu của Kinh này,
thì đối với tất cả kinh đại thừa liễu nghĩa đều thấu suốt cả. Nghĩa ba
câu cũng như nghĩa tứ cú kệ, phá hết tất cả tứ tướng chấp thật, chẳng
hai chẳng khác. Nói chấp thật tức là lọt vào tương đối, thuộc về biên
kiến, bất cứ chấp có là thật, chấp không là thật, chấp chơn là thật,
chấp giả là thật, đều là chấp thật cả. Tiếng Hán có văn ngôn và bạch
thoại. Văn ngôn đời xưa quá súc tích, thường hay có ý mà chẳng có lời,
người xưa nói "đọc chỗ chẳng có chữ" là vậy. Chúng tôi gặp những trường
hợp này thì thêm lời vào để sáng tỏ ý nghĩa ẩn trong văn, những danh từ
tiếng Hán mà tiếng Việt ít dùng, lại chẳng thể dịch ra tiếng Việt thì
chúng tôi ghi chú, còn những nghĩa lý thâm sâu khó hiểu thì chúng tôi
lược giải thêm. Vì đọc giả cảm thấy phần 27 còn hơi tối nghĩa, nên kỳ in
này chúng tôi lược giải thêm để sáng tỏ nghĩa kinh trong phần này. Nói
tóm lại, chúng tôi dịch Kinh này là mong giúp cho đọc giả dễ hiểu nghĩa
kinh, theo đó tu hành để đưa đến kiến tánh (giải thoát).
Thích Duy Lực
1. Pháp Hội Nhân Do
Tôi nghe như vầy, một
thuở Phật ở nước Xá Vệ, nơi tịnh xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng chúng Đại Tỳ
Kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị. Bấy giờ đến giờ ăn, Thế Tôn đắp mang
y bát, vào đại thành Xá Vệ, theo thứ tự khất thực từng nhà trong thành
xong, trở về chổ ở thọ trai, rồi cất y bát, đại chúng rửa chân, trải tọa
cụ cùng ngồi.
2. Thiện Hiện Khởi Thỉnh
(Tu Bồ Đề là tiếng Phạn, nghĩa Hán là Thiện Hiện.)
Khi ấy, trưởng lão Tu Bồ
Đề ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quỳ
gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
-Hy hữu Thế Tôn! Như Lai
khéo hộ niệm cho các Bồ Tát, khéo phó chúc cho các Bồ Tát. Bạch Thế Tôn!
Những thiện nam tín nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên an
trụ tâm như thế nào? Hàng phục tâm như thế nào?
Phật bảo:
Lành thay! Lành thay! Tu
Bồ Đề! Theo như ngươi nói, Như Lai khéo hộ niệm cho các Bồ Tát, khéo phó
chúc cho các Bồ Tát. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi nói rõ.
Những thiện nam tín nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên an
trụ tâm như vầy, hàng phục tâm như vầy.
-Bạch Thế Tôn, con rất
mong được nghe.
3. Đại Thừa Chánh Tông
Phật bảo Tu Bồ Đề:-Các
Bồ Tát Ma Ha Tát nên hàng phục tâm như vầy: Tất cả các loài chúng sanh,
hoặc noãn sanh, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc hữu
sắc, hoặc vô sắc, hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc phi hữu tướng,
hoặc phi vô tướng, ta đều khiến vào Vô Dư Niết Bàn mà diệt độ. Diệt độ
vô lượng vô số chúng sanh như thế, mà thật ra chẳng có chúng sanh nào
được diệt độ cả. Tại sao? Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhơn tướng,
chúng sanh tướng, thọ giả tướng ắt chẳng phải Bồ Tát.
Lược Giải
Tứ tướng có hai thứ:
1) Mê Thức Tứ Tướng
của phàm phu: Chấp thật cái thân ngũ uẩn này là ta, gọi là ngã tướng. Bỏ
ngã tướng chấp vào toàn nhân loại gọi là nhơn tướng. Bỏ nhân loại chấp
vào toàn chúng sanh gọi là chúng sanh tướng. Bỏ chúng sanh tướng cho là
chỉ có Chơn Như Phật tánh vĩnh viễn tồn tại trong thời gian gọi là thọ
giả tướng (thọ là thời gian).
2) Mê Trí Tứ Tướng
của bậc thánh: Bậc thánh tâm biết có sở chứng, dù chứng đến thanh tịnh
Niết Bàn đều thuộc về ngã tướng. Nay ngộ thêm một bậc, biết chẳng phải
ta chứng, siêu việt tất cả chứng, nhưng còn cái tâm năng ngộ gọi là nhơn
tướng. Nay tiến thêm một bậc nữa, liễu tri năng chứng năng ngộ là ngã
tướng nhơn tướng, chỗ ngã tướng nhơn tướng chẳng thể đến (năng chứng
năng ngộ chẳng thể đến), chỉ còn tâm liễu tri, gọi là chúng sanh tướng.
Rồi tiến thêm một bậc nữa, chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ
một giác thể thanh tịnh, gọi là cứu kính giác, tất cả tịch diệt, cũng
gọi là Niết Bàn. Nếu còn trụ nơi Niết Bàn thì mạng căn chưa dứt, gọi là
thọ giả tướng. (Lược giải hết)
4. Diệu Hạnh Vô Trụ
-Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bồ
Tát ở nơi các pháp, ưng vô sở trụ mà hành việc bố thí, tức là chẳng trụ
sắc bố thí, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Tu Bồ Đề! Bồ
Tát bố thí nên chẳng trụ nơi tướng như thế. Tại sao? Nếu Bồ Tát chẳng
trụ nơi tướng bố thí thì phước đức chẳng thể suy lường.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Hư không bên phương đông có thể suy lường chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
-Tu Bồ Đề! Hư không bên
các phương nam, tây, bắc và trên, dưới có thể suy lường được chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
-Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí
chẳng trụ nơi tướng, phước đức cũng như vậy, chẳng thể suy lường. Tu Bồ
Đề! Bồ Tát cần an trụ tâm như ta đã bảo.
5. Như Lý Thật Kiến
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Có thể nhờ thân tướng mà thấy Như Lai chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Chẳng thể nhờ thân tướng thấy được Như Lai. Tại sao? Như Lai nói thân
tướng tức phi thân tướng. Phật bảo Tu Bồ Đề:
-Phàm tất cả tướng đều
là hư vọng. Nếu thấy các tướng phi tướng, tức là thấy Như Lai.
Lược Giải
Ý Phật ở đây là phá
chấp tướng. Nếu thấy các pháp có tướng là chấp vào tướng có. Nếu thấy
các pháp không tướng là chấp vào tướng không. Nên ở đây Kinh nói "các
tướng phi tướng", mà nếu chấp vào phi tướng cho là chẳng phải tướng, cho
là không tướng thì vẫn còn chấp tướng. (Lược giải hết)
6. Chánh Tín Hy Hữu
Tu Bồ Đề Thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn! Nếu có
chúng sanh được nghe những lời nói, văn tự kể trên có thể sanh lòng tin
chơn thật chăng?
Phật bảo:
-Tu Bồ Đề, đừng nói vậy!
Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm về sau, từ tượng pháp cho đến mạt
pháp, nếu có người tu phước trì giới đối với lời nói, văn tự kể trên
được sanh lòng tin, cho đó là thật. Phải biết người ấy đã nghe lời nói
văn tự này, cho đến được một niệm sanh khởi lòng tin trong sạch, là vì
đã từng gieo trồng thiện căn nơi muôn ngàn vô lượng Phật, chứ chẳng phải
gieo trồng thiện căn nơi một Phật, hoặc ba, bốn, năm Phật. Tu Bồ Đề! Như
Lai biết rõ, thấy rõ những chúng sanh ấy được vô lượng phước đức như
thế. Tại sao? Vì những chúng sanh ấy chẳng còn có ngã tướng, nhơn tướng,
chúng sanh tướng, thọ giả tướng, chẳng chấp pháp tướng, cũng chẳng chấp
phi pháp tướng. Tại sao? Vì những chúng sanh ấy nếu khởi tâm chấp tướng
(tiền trần) tức là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
Nếu chấp pháp tướng (pháp trần) cũng là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn,
chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp phi pháp tướng (là bóng phân biệt của pháp
trần), cũng là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Vì thế
chẳng nên chấp pháp, chẳng nên chấp phi pháp. Do nghĩa này Như Lai
thường nói: Các Tỳ Kheo phải biết lời thuyết pháp của ta ví như chiếc bè
qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè; vậy pháp còn phải bỏ, huống là phi
pháp!
7. Vô Đắc Vô Thuyết
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Như Lai có chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chăng? Như Lai
có thuyết pháp chăng?
Tu Bồ Đề đáp:
-Như con hiểu nghĩa của
Phật nói thì chẳng có pháp nhất định gọi là pháp Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, cũng chẳng có pháp nhất định cho Như Lai thuyết. Tại sao? Vì
pháp của Như Lai thuyết đều chẳng thể chấp thật, chẳng thể nói là pháp,
là phi pháp hay phi phi pháp. Tại sao? Vì tất cả hiền thánh đều dựa theo
pháp vô vi mà nói có sai biệt.
Lược Giải
Tất cả hiền thánh đều
dựa theo pháp vô vi mà nói có sai biệt: Pháp vô vi tức là pháp vô sanh,
chẳng thể tu chứng, chẳng thể suy lường, chẳng thể diễn tả. Nay dựa theo
đường đi vô vi, vì chưa đến chỗ vô vi nên mới có đủ thứ sai biệt như
thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, cho đến thập địa, đẳng
giác, nếu đã đến diệu giác tức là chỗ vô vi thì chẳng còn sai biệt.
(Lược giải hết)
8. Y Pháp Xuất Sanh
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Như có người đem thất bửu đầy khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới
dùng để bố thí, người ấy được phước đức nhiều chăng?
Tu Bồ Đề đáp:
-Bạch Thế Tôn, rất
nhiều. Tại sao? Phước đức ấy tức phi phước đức tánh, nên Như Lai nói là
phước đức nhiều.
Phật bảo:
-Nếu có người thọ trì
(tín thọ mà thực hành) Kinh này, cho đến chỉ thực hành theo tứ cú kệ rồi
giảng cho người khác nghe, thì phước đức lại nhiều hơn người kia. Tại
sao? Tu Bồ Đề! Tất cả chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
của chư Phật đều từ Kinh này ra. Tu Bồ Đề, gọi là Phật pháp, tức phi
Phật pháp.
Ghi
Chú
Tứ Cú Kệ:
Có là cú thứ nhất,
Không là cú thứ
nhì,
Cũng có cũng
không là cú thứ ba,
Chẳng có chẳng
không là cú thứ tư.
Chẳng lọt vào tứ
cú là thực hành theo tứ cú kệ. (Ghi chú hết)
9. Nhất Tướng Vô Tướng
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Tu Đà Hoàn có thể nghĩ rằng "Ta đắc quả Tu Đà Hoàn" chăng?
Tu Bồ Đề đáp:
-Bạch Thế Tôn, không ạ.
Tại sao? Tu Đà Hoàn gọi là Nhập Lưu mà vô sở nhập; chẳng nhập sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là Tu Đà Hoàn.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Tư Đà Hàm có thể nghĩ rằng "Ta đắc quả Tư Đà Hàm" chăng?
-Bạch Thế Tôn, không ạ.
Tại sao? Tư Đà Hàm gọi là Nhất Vãng Lai mà thật chẳng vãng lai, ấy gọi
là Tư Đà Hàm.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? A Na Hàm có thể nghĩ rằng "Ta đắc quả A Na Hàm" chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Tại sao? A Na Hàm gọi là Bất Lai mà thật chẳng phải bất lai, ấy gọi là A
Na Hàm.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? A La Hán có thể nghĩ rằng "Ta đắc đạo A La Hán" chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Tại sao? Thật chẳng có pháp gọi là A La Hán. Thế Tôn! Nếu A La Hán nghĩ
rằng "Ta đắc đạo A La Hán", tức là dính mắc bốn tướng ngã, nhơn, chúng
sanh, thọ giả. Thế Tôn! Phật nói con đắc Vô Tranh Tam Muội, là hạng nhất
trong loài người, là hạng nhất trong bậc ly dục A La Hán. Thế Tôn! Nhưng
con nghĩ rằng con là ly dục A La Hán. Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc
đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh
hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành, nên mới gọi Tu Bồ Đề là hành giả
thanh tịnh hạnh.
10. Trang Nghiêm Tịnh Độ
Phật bảo:
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Xưa kia Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng có đắc pháp gì chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng thật vô sở đắc. -Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Bồ Tát có trang nghiêm Phật độ chăng? -Bạch Thế Tôn, không. Tại
sao? Nói trang nghiêm Phật độ, tức phi trang nghiêm, thị danh trang
nghiêm (nghĩa ba câu).
-Cho nên Tu Bồ Đề! Chư
Bồ Tát Ma Ha Tát nên sanh tâm trong sạch như thế, là chẳng nên khởi tâm
trụ sắc, chẳng nên khởi tâm trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, ưng vô sở
trụ mà sanh kỳ tâm.
-Tu Bồ Đề! Ví như có
người thân như núi chúa Tu Di, ý ngươi thế nào? Thân ấy có đại chăng?
-Bạch Thế Tôn, rất đại.
Tại sao? Phật nói phi thân thị danh đại thân (Chữ đại ở đây là siêu việt
số lượng).
Lược Giải
Nói trang nghiêm Phật
độ, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm. Đây là nghĩa ba câu
trong Kinh này: Câu thứ nhất cho trang nghiêm Phật độ là thật; câu thứ
nhì dùng chữ phi để phá cái chấp thật của câu thứ nhất; câu thứ ba cho
tất cả tên gọi đều là giả danh. Câu thứ nhất trang nghiêm Phật độ là giả
danh, câu thứ nhì phi trang nghiêm cũng là giả danh, câu thứ ba thị danh
trang nghiêm cũng là giả danh. Vậy giả danh thì chẳng có nghĩa thật, cho
nên Phật nói: "Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật." (Lược giải
hết)
11. Vô Vi Phước Thắng
-Tu Bồ Đề! Như có nhiều
sông Hằng bằng số cát trong một sông Hằng. Ý ngươi thế nào? Số cát ở
trong những sông Hằng ấy có phải nhiều chăng? Tu Bồ Đề đáp:
-Bạch Thế Tôn, rất
nhiều. Chỉ những sông Hằng ấy cũng nhiều vô số rồi, huống chi là cát.
-Tu Bồ Đề! Nay ta nói
thật cho nghe, như có thiện nam tín nữ, đem thất bửu chứa đầy các đại
thiên thế giới bằng số cát kể trên dùng để bố thí, được phước nhiều
chăng?
-Bạch Thế Tôn, rất
nhiều.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
-Nếu có thiện nam tín nữ
thọ trì Kinh này, cho đến chỉ thực hành theo tứ cú kệ, rồi giảng cho
người khác nghe, thì phước đức lại nhiều hơn người kia.
12. Tôn Trọng Chánh Giáo
-Lại nữa, Tu Bồ Đề! Bất
cứ nơi nào có thuyết Kinh này, cho đến chỉ thuyết tứ cú kệ, phải biết
nơi đó tất cả thế gian, trời, người, A Tu La đều nên cúng dường như tháp
miếu của Phật, huống chi có người được thọ trì đọc tụng cả Kinh này. Tu
Bồ Đề! Nên biết người ấy thành tựu pháp hy hữu tối thượng hạng nhất. Vậy
phàm nơi nào có kinh điển này tức là có Phật, được Phật tử tôn trọng.
13. Như Pháp Thọ Trì
Khi ấy Tu Bồ Đề thưa
rằng:
-Bạch Thế Tôn! Kinh này
nên đặt tên gì? Chúng con phải thọ trì như thế nào? Phật bảo Tu Bồ Đề:
-Kinh này tên là Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật, ngươi cứ theo tên gọi thọ trì. Tại sao? Tu Bồ
Đề, Phật nói Bát Nhã Ba La Mật, tức phi Bát Nhã Ba La Mật, thị danh Bát
Nhã Ba La Mật (đây cũng là nghĩa ba câu đã được giải ở trên).
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Như Lai có thuyết pháp chăng?
-Bạch Thế Tôn, Như Lai
vô sở thuyết.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Tất cả vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới có nhiều chăng?
Tu Bồ Đề thưa:
-Bạch Thế Tôn, rất
nhiều.
-Tu Bồ Đề! Như Lai nói
những vi trần ấy tức phi vi trần, thị danh vi trần. Như Lai nói thế giới
tức phi thế giới, thị danh thế giới (nghĩa ba câu). Tu Bồ Đề! Ý ngươi
thế nào? Có thể nhờ ba mươi hai tướng thấy
Như Lai chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Chẳng thể nhờ ba mươi hai tướng thấy được Như Lai. Tại sao? Như Lai nói
ba mươi hai tướng tức là phi tướng, thị danh ba mươi hai tướng (nghĩa ba
câu).
-Tu Bồ Đề! Như có thiện
nam tín nữ đem thân mạng nhiều bằng số cát sông Hằng dùng để bố thí; với
người thọ trì kinh này, cho đến chỉ thực hành theo tứ cú kệ và giảng cho
người khác nghe, thì được phước hơn người kia rất nhiều.
14. Ly Tướng Tịch Diệt
Bấy giờ Tu Bồ Đề nghe
Phật thuyết Kinh này, hiểu thấu nghĩa thâm sâu, xúc động chảy nước mắt
mà bạch Phật rằng:
-Hy hữu Thế Tôn! Phật
thuyết kinh điển thâm sâu như thế, con từ khi được huệ nhãn đến nay,
chưa từng được nghe kinh như vậy. Bạch Thế Tôn! Lại nếu có người nghe
được Kinh này lòng tin trong sạch, liền sanh thật tướng, phải biết ngươì
ấy thành tựu được công đức hy hữu hạng nhất.
Bạch Thế Tôn! Đây nói
thật tướng tức là phi tướng, cho nên Như Lai nói giả danh thật tướng
(nghĩa ba câu).
Bạch Thế Tôn! Nay con
được nghe Kinh này tín, giải, thọ trì chẳng cho là khó. Nếu năm trăm năm
về sau, đời vị lai có chúng sanh nghe được Kinh này, tín, giải, thọ trì
thì người ấy là hy hữu hạng nhất. Tại sao? Vì người ấy vô ngã tướng,
nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Tại sao? Vì ngã tướng tức
là phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng cũng là phi
tướng. Tại sao? Lìa tất cả chư tướng, tức gọi là chư Phật.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
-Đúng thế! Đúng thế! Lại
nếu có người được nghe Kinh này mà chẳng kinh ngạc, chẳng khiếp sợ, phải
biết người ấy rất là hy hữu. Tại sao? Tu Bồ Đề! Như Lai nói đệ nhất Ba
La Mật, tức phi đệ nhất Ba La Mật, thị danh đệ nhất Ba La Mật (nghĩa ba
câu).
Tu Bồ Đề! Như Lai nói
nhẫn nhục Ba La Mật, tức phi nhẫn nhục Ba La Mật, thị danh nhẫn nhục Ba
La Mật. Tại sao? Tu Bồ Đề! Như ta xưa kia bị vua Ca Lợi xẻ nát thân thể,
lúc đó ta vô ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Tại
sao? Vì xưa kia khi ta bị phanh xé thân thể từng miếng, nếu có ngã
tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thì phải sanh tâm sân
hận.
Tu Bồ Đề! Nhớ lại kiếp
quá khứ, ta làm tiên nhẫn nhục trãi qua năm trăm đời, những đời ấy đều
vô ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Tu Bồ Đề! Vì
thế Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác phải lìa tất cả
tướng. Chẳng nên sanh tâm trụ nơi sắc, và cũng chẳng nên sanh tâm trụ
nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên sanh tâm vô sở trụ; nếu tâm có trụ
tức là phi trụ, thị danh tâm trụ (nghĩa ba câu).
Cho nên Phật nói tâm của
Bồ Tát chẳng nên trụ nơi sắc bố thí, chẳng nên trụ nơi thanh, hương, vị,
xúc, pháp bố thí. Tu Bồ Đề! Bồ Tát vì lợi ích tất cả chúng sanh, cần
phải bố thí như thế. Như Lai nói Tất cả các tướng tức là phi tướng, lại
nói Tất cả chúng sanh tức phi chúng sanh.
Tu Bồ Đề! Như Lai là
người chơn ngữ, thật ngữ, như ngữ, bất cuống ngữ, bất dị ngữ. Tu Bồ Đề!
Pháp của Như Lai chứng đắc, ấy là pháp vô thật vô hư.
Tu Bồ Đề! Nếu tâm của Bồ
Tát trụ nơi pháp mà hành việc bố thí, thì cũng như người vào chỗ tối
chẳng thấy gì cả. Nếu tâm của Bồ Tát chẳng trụ nơi pháp mà hành việc bố
thí, thì cũng như người có mắt dưới ánh sáng mặt trời, tất cả thấy rõ đủ
thứ sắc tướng.
Tu Bồ Đề! Về đời sau
này, nếu có thiện nam tín nữ thọ trì, đọc tụng Kinh này, thì trí huệ của
Như Lai biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy, đều được thành tựu công đức
vô lượng vô biên.
Lược Giải
Ngũ ngữ: Chơn ngữ,
thật ngữ, như ngữ, bất cuống ngữ, bất dị ngữ.
Phật thuyết chơn
ngữ là nghĩa chung với nhị thừa (có sanh Tụ để diệt, có Niết Bàn để
chứng), thật ngữ là nghĩa chung với Bồ Tát (nghĩa đại thừa, sanh tử Niết
Bàn đều như hoa đốm trên không), như ngữ là nghĩa chung với tam thừa
(trí huệ chẳng thể suy lường, lời nói chẳng thể diễn tả), bất cuống ngữ:
chẳng dối tức là vô hư; bất dị ngữ: thấy trước việc chưa đến gọi là bất
dị, tức là vô thật, nên Phật nói pháp ấy là vô thật vô hư. (Lược giải
hết)
15. Trì Kinh Công Đức
-Tu Bồ Đề! Nếu có thiện
nam tín nữ, buổi sáng bố thí thân thể nhiều bằng số cát sông Hằng, buổi
trưa lại bố thí thân thể nhiều bằng số cát sông Hằng, buổi chiều cũng bố
thí thân thể nhiều bằng số cát sông Hằng, cứ bố thí thân thể như thế cho
đến vô lượng trăm, nghìn, muôn ức kiếp. Với người nghe kinh điển này
lòng tin vững chắc, thì được phước nhiều hơn người kia, huống chi lại
còn biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng giải cho người khác nghe.
Tu Bồ Đề! Nói tóm lại,
Kinh này có công đức vô biên, bất khả tư nghì, chẳng thể suy lường. Như
Lai vì người phát tâm đại thừa và người phát tâm tối thượng thừa mà
thuyết. Nếu có người nào hay thọ trì đọc tụng, phổ biến cho người, thì
Như Lai biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy đều được thành tựu vô biên
công đức, bất khả tư nghì, chẳng thể suy lường. Những người như thế mới
là gánh vác được đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai. Tại
sao? Tu Bồ Đề! Nếu người ưa pháp tiểu thừa, dính mắc ngã kiến, nhơn
kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến (chẳng ngoài sáu mươi hai kiến
chấp), thì chẳng thể tín thọ, đọc tụng Kinh này và giảng giải cho người
khác nghe.
Tu Bồ Đề! Bất cứ nơi
nào, nếu có Kinh này, tất cả thế gian,trời, người, A Tu La, đều nên cúng
dường. Phải biết chỗ đó chính là tháp Phật, đều nên cung kính lễ bái,
dùng các thứ hương hoa rải quanh chỗ đó.
16. Năng Tịnh Nghiệp Chướng
-Lại nữa, Tu Bồ Đề! Như
thiện nam tín nữ thọ trì đọc tụng Kinh này, nếu bị người khinh rẽ, thì
những nghiệp nhân đời trước đáng lẽ phải đọa ác đạo, vì nay bị người đời
khinh rẽ, nên những nghiệp nhân đời trước liền được tiêu diệt, lại còn
được đắc đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tu Bồ Đề! Ta nhớ đời quá
khứ, trước Phật Nhiên Đăng vô lượng vô số kiếp, được gặp tám trăm bốn
nghìn muôn ức na do tha chư Phật, ta đều cúng dường thờ phụng, chẳng bỏ
sót Phật nào. Lại, nếu có người đời mạt kiếp hay thọ trì đọc tụng Kinh
này, được nhiều công đức, đem công đức cúng dường chư Phật của ta so với
công đức ấy, chẳng bằng một phần trăm, một phần nghìn, muôn ức, cho đến
toán số, thí dụ đều chẳng thể sánh bằng.
Tu Bồ Đề! Nếu ở đời mạt
kiếp, có thiện nam tín nữ thọ trì đọc tụng Kinh này, được công đức vô
lượng. Nếu ta kể ra hết, hoặc có người nghe rồi tâm liền cuồng loạn,
nghi ngờ chẳng tin. Tu Bồ Đề! Phải biết ý nghĩa Kinh này bất khả tư
nghì, quả báo cũng bất khả tư nghì.
17. Cứu Kính Vô Ngã
Lúc bấy giờ, Tu Bồ Đề
thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn! Những
thiện nam tín nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nên an trụ tâm
như thế nào? Hàng phục tâm như thế nào? Phật bảo Tu Bồ Đề:
- Những thiện nam tín nữ
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên sanh tâm như thế này: Ta
phải diệt độ cho tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà
chẳng có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát
có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thì chẳng phải
Bồ Tát. Tại sao? Tu Bồ Đề! Vì thật chẳng có pháp gì để phát tâm Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Theo con hiểu nghĩa của Phật nói, Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng thật
chẳng có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật bảo:
-Đúng thế! Đúng thế! Tu
Bồ Đề! Như Lai thật chẳng đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu
Bồ Đề! Nếu Như Lai có đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì Phật
Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho ta rằng: "Về đời sau ngươi sẽ được thành
Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni." Bởi thật chẳng có đắc pháp Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, nên Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta rằng: "Về
đời sau ngươi sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni." Tại sao? Nói
Như Lai tức là các pháp như nghĩa. Nếu có người nói rằng Như lai đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là chẳng đúng như nghĩa. Tu Bồ Đề! Vì thật
ra Phật chẳng đắc pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Nói
Như Lai đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong đó vô thật vô hư.
Cho nên Như Lai nói "Tất
cả các pháp đều là Phật pháp." Tu Bồ Đề! Nói tất cả pháp, tức phi tất cả
pháp, thị danh tất cả pháp (nghĩa ba câu). Tu Bồ Đề! Ví như thân người
cao lớn đã kể trên, nghĩa là siêu việt số lượng.
Tu Bồ Đề thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn! Như Lai
nói thân người cao lớn, tức phi thân lớn, thị danh thân lớn (nghĩa ba
câu).
-Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng
như thế. Nếu nói rằng ta phải diệt độ vô lượng chúng sanh thì chẳng thể
gọi là Bồ Tát. Tại sao? Tu Bồ Đề! Thật chẳng có pháp gọi là Bồ Tát. Cho
nên Phật thuyết tất cả pháp vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả.
Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát nói
rằng ta phải trang nghiêm cõi Phật thì chẳng thể gọi là Bồ Tát. Tại sao?
Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật, tức phi trang nghiêm, thị danh
trang nghiêm (nghĩa ba câu).
Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát
thông đạt pháp vô ngã thì Như Lai nói ấy mới gọi là Chơn Bồ Tát.
Ghi Chú
Các pháp như nghĩa:
là đúng như thật nghĩa, thật nghĩa vô nghĩa cũng như Phật nói "thật
tướng vô tướng " vậy. (Ghi chú hết)
18. Nhất Thể Đồng Quán
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Như Lai có nhục nhãn chăng?
-Bạch Thế Tôn, đúng
thế! Như Lai có nhục nhãn.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi
thế nào? Như Lai có thiên nhãn chăng?
-Bạch Thế Tôn, đúng
thế! Như Lai có thiên nhãn.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi
thế nào? Như Lai có huệ nhãn chăng?
-Bạch Thế Tôn, đúng
thế! Như Lai có huệ nhãn.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi
thế nào? Như Lai có pháp nhãn chăng?
-Bạch Thế Tôn, đúng
thế! Như Lai có pháp nhãn.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi
thế nào? Như Lai có Phật nhãn chăng?
-Bạch Thế Tôn, đúng
thế! Như Lai có Phật nhãn.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Như số cát trong sông Hằng kia, Phật nói là cát chăng?
-Bạch Thế Tôn, đúng thế!
Như Lai nói là cát.
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Như có những sông Hằng nhiều bằng số cát trong một sông Hằng, rồi
lại có cõi Phật nhiều bằng số cát trong những sông Hằng ấy, như thế có
phải là nhiều chăng?
-Bạch Thế Tôn, rất
nhiều.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
-Bao nhiêu thứ tâm niệm
của chúng sanh trong cõi Phật ấy, Như Lai đều biết rõ. Tại sao? Như Lai
nói các tâm, đều là phi tâm, thị danh là tâm (nghĩa ba câu). Tại sao? Tu
Bồ Đề! Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất
khả đắc (Phá chấp tâm là thật có).
Lược Giải
Để lược giải nghĩa
Ngũ nhãn, có bài kệ rằng:
Thiên nhãn thông phi
ngại,
Nhục nhãn ngại
phi thông.
Pháp nhãn duy
quán tục,
Huệ nhãn liễu tri
không.
Phật nhãn như
thiên nhật,
Chiếu dị thể hoàn
đồng.
Dịch nghĩa:
Thiên nhãn thông
chẳng ngại,
Nhục nhãn ngại
chẳng thông.
Pháp nhãn hay
quán tục (tục đế),
Huệ nhãn thấu rõ
không (chơn đế).
Phật nhãn như
ngàn nhật (mặt trời),
Chiếu dị (khác)
thể vẫn đồng. (Lược giải hết)
19. Pháp Giới Thông Hóa
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Nếu có người đem thất bửu chất đầy tam thiên đại thiên thế giới
dùng để bố thí, người ấy nhờ nhân duyên đó, được phước đức nhiều chăng?
-Bạch Thế Tôn, đúng thế!
Người ấy nhờ nhân duyên đó, được phước đức rất nhiều.
-Tu Bồ Đề! Nếu phước đức
có thật thì Như Lai chẳng nói được phước đức nhiều. Vì phước đức vốn
chẳng thật nên Như Lai nói được phước đức nhiều.
20. Ly Sắc Ly Tướng
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Có thể nhờ sắc thân đầy đủ thấy Phật chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Chẳng nên nhờ sắc thân đầy đủ mà thấy Phật. Tại sao? Như Lai nói sắc
thân đầy đủ, tức phi sắc thân đầy đủ, thị danh sắc thân đầy đủ (nghĩa ba
câu).
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Có thể nhờ các tướng đầy đủ thấy Như Lai chăng?
-Bạch Thế Tôn, không.
Chẳng nên nhờ các tướng đầy đủ mà thấy Như Lai. Tại sao? Như Lai nói các
tướng đầy đủ, tức phi các tướng đầy đủ, thị danh các tướng đầy đủ (nghĩa
ba câu).
21. Phi Thuyết Sở Thuyết
-Tu Bồ Đề! Ngươi chớ nói
Như Lai có nghĩ rằng "Ta phải có thuyết pháp," đừng nghĩ vậy. Tại sao?
Nếu người nào nói Như Lai có thuyết pháp tức là phỉ báng Phật, chẳng
hiểu lời nói của ta. Tu Bồ Đề! Nói thuyết pháp là vô pháp để thuyết, thị
danh thuyết pháp (nghĩa ba câu).
Bấy giờ, Huệ Mạng Tu Bồ
Đề thưa Phật rằng:
-Bạch Thế Tôn! Những
chúng sanh đời vị lai nghe được pháp này sanh lòng tin chăng?
Phật bảo:
-Tu Bồ Đề! Những chúng
sanh ấy là phi chúng sanh, phi bất chúng sanh. Tại sao? Tu Bồ Đề! Chúng
sanh cho là chúng sanh, Như Lai nói phi chúng sanh, thị danh chúng sanh
(nghĩa ba câu).
Ghi Chú
Huệ Mạng: Pháp thân
là thể của tự tánh, huệ mạng là dụng của tự tánh; sự nghiệp hoằng pháp
độ sanh chẳng gián đoạn gọi là huệ mạng. (Ghi chú hết)
22. Vô Pháp Khả Đắc
Tu Bồ Đề thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn! Phật đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là vô sở đắc chăng?
-Đúng thế! Đúng thế! Tu
Bồ Đề! Ta ở nơi pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thật chẳng đắc một
chút gì cả, thị danh Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (nghĩa ba câu).
23. Tịnh Tâm Hành Thiện
-Lại nữa, Tu Bồ Đề! Pháp
ấy bình đẳng, chẳng có cao thấp, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vì vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả mà tu tất cả thiện pháp,
thì liền được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Như Lai nói
thiện pháp tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp (nghĩa ba câu).
24. Phước Trí Vô Tỷ
-Tu Bồ Đề! Nếu có người
đem thất bửu chất đầy bằng núi Tu Di chúa trong tam thiên đại thiên thế
giới dùng để bố thí, với người thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật
này, cho đến chỉ hành theo tứ cú kệ, và giảng giải cho người khác nghe,
thì phước đức bố thí so với phước đức thọ trì chẳng bằng một phần trăm,
một phần nghìn, muôn ức, cho đến toán số thí dụ cũng chẳng thể sánh
bằng.
25. Hóa Vô Sở Hóa
-Tu Bồ Đề! Các ngươi chớ
cho Như Lai có nghĩ rằng "Ta phải độ chúng sanh." Tu Bồ Đề, đừng nghĩ
vậy! Tại sao? Thật chẳng có chúng sanh mà Như Lai độ. Nếu nói Như Lai có
độ chúng sanh, thì Như Lai mắc vào bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ
giả. Tu Bồ Đề! Như Lai nói có ngã tức phi có ngã, mà phàm phu chấp là có
ngã. Tu Bồ Đề! Như Lai nói phàm phu tức phi phàm phu, thị danh phàm phu
(nghĩa ba câu)
26. Pháp Thân Phi Tướng
-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế
nào? Có thể dùng ba mươi hai tướng để quán Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề đáp:
-Đúng thế! Đúng thế! Có
thể dùng ba mươi hai tướng quán Như Lai.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
-Nếu dùng ba mươi hai
tướng để quán Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai sao?
(Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng)
Tu Bồ Đề thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, như con
hiểu ý nghĩa lời Phật, thì chẳng nên dùng ba mươi hai tướng để quán Như
Lai.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói
kệ rằng:
Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu
ngã,
Thị nhơn hành tà
đạo,
Bất năng kiến Như
Lai.
Dịch nghĩa:
Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu
ta.
Là người hành tà
đạo,
Chẳng thể thấy Như
Lai.
Lược Giải
Nếu dùng sắc thấy
ta,
Dùng âm thanh cầu
ta.
Là người hành tà
đạo,
Chẳng thể thấy
Như Lai.
Chữ Ta ở đây là tự
tánh Phật. Tự tánh bất nhị, chẳng có năng sở, nên chẳng phải sở thấy sở
cầu. Nếu đuổi theo căn trần để thấy để cầu là hành theo tà đạo, chẳng
thể đạt đến kiến tánh. (Lược giải hết)
27. Vô Đoạn Vô Diệt
-Tu Bồ Đề! Nếu ngươi
nghĩ rằng: "Như Lai vì chẳng nhờ tướng đầy đủ mới đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác," Tu Bồ Đề, đừng nghĩ như vậy! Nói Như Lai vì chẳng nhờ
tướng đầy đủ mới đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là chẳng đúng.
Tu Bồ Đề! Nếu ngươi nghĩ
như thế thì người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là nói các
pháp đoạn diệt sao! Đừng nghĩ vậy. Tại sao? Vì người phát tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, nơi pháp chẳng nói tướng đoạn diệt.
Lược Giải
- phần 20 nói "Chẳng
nên nhờ các tướng đầy đủ mà thấy Như Lai" là phá chấp sắc tướng. Phần 27
nói "Chớ nên nghĩ rằng Như Lai vì chẳng nhờ tướng đầu đủ mới đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác" là phá chấp phải lìa sắc tướng. Vì chấp
sắc tướng và chấp lìa sắc tướng đều chẳng thể đạt đến kiến tánh. (Lược
giải hết)
28. Bất Thọ Bất Tham
-Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát
đem thất bửu chất đầy những thế giới như số cát sông Hằng dùng để bố
thí, với Bồ Tát biết tất cả pháp vô ngã, được thành tựu pháp nhẫn (lòng
tin vững chắc), thì Bồ Tát này được công đức hơn Bồ Tát kia. Tại sao? Tu
Bồ Đề, vì các Bồ Tát này chẳng thọ phước đức.
Tu Bồ Đề thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn! Sao nói
Bồ Tát chẳng thọ phước đức?
-Tu Bồ Đề! Vì Bồ Tát làm
việc phước đức chẳng sanh khởi lòng tham, cho nên nói chẳng thọ phước
đức.
29. Oai Nghi Tịch Tịch
-Tu Bồ Đề! Nếu có người
nói rằng "Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm" thì người ấy
chẳng hiểu được ý nghĩa lời ta nói. Tại sao? Vì Như Lai chẳng từ đâu
đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai.
Lược Giải
Tự tánh cùng khắp
không gian và thời gian, khắp không gian thì chẳng có khứ lai, nên gọi
là Như Lai, khắp thời gian thì chẳng có gián đoạn (chẳng có sanh diệt),
nên gọi là Niết Bàn. (Lược giải hết)
30. Nhất Hợp Tướng Lý
-Tu Bồ Đề! Nếu có thiện
nam tín nữ, đem cõi tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát ra thành vi
trần, ý ngươi thế nào? Những vi trần chúng có phải nhiều chăng?
Tu Bồ Đề thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn, rất
nhiều. Tại sao? Nếu những vi trần chúng là thật có thì Phật chẳng nói là
vi trần chúng. Tại sao? Vì Phật nói vi trần chúng, tức phi vi trần
chúng, thị danh vi trần chúng (nghĩa ba câu). Bạch Thế Tôn! Như Lai nói
tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới. Tại
sao? Nếu thế giới thật có, tức là nhất hợp tướng. Như Lai nói nhất hợp
tướng, tức phi nhất hợp tướng, thị danh nhất hợp tướng (nghĩa ba câu).
31. Tri Kiến Bất Sanh
-Tu Bồ Đề! Nếu có người
nói Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến là
thật, Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Người ấy có hiểu được ý nghĩa lời ta
nói chăng?
-Bạch Thế Tôn, không!
Người ấy chẳng hiểu ý nghĩa của Như Lai nói. Tại sao? Như Lai nói ngã
kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức phi ngã kiến, nhơn
kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhơn kiến, chúng
sanh kiến, thọ giả kiến (nghĩa ba câu).
-Tu Bồ Đề! Người phát
tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với tất cả pháp nên tri như
thế, kiến như thế, tín giải như thế, chẳng sanh pháp tướng. Tu Bồ Đề!
Như Lai nói pháp tướng, tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng (nghĩa
ba câu).
32. Ứng Hóa Phi Chơn
-Tu Bồ Đề! Nếu có người
đem thất bửu chất đầy vô lượng A Tăng Kỳ thế giới dùng để bố thí, với
thiện nam tín nữ phát tâm Bồ Đề thọ trì đọc tụng Kinh này, cho đến chỉ
hành theo tứ cú kệ, và giảng giải cho người khác nghe, thì phước đức hơn
người kia. Vậy phải giảng giải như thế nào? Nên giảng giải như thế này:
Như như bất động, chẳng nên chấp nơi tướng.Tại sao?
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn,
bào, ảnh,
Như lộ diệc như
điện,
Ưng tác như thị
quán.
Dịch nghĩa:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn,
bọt, bóng,
Như sương mù, điện
chớp,
Nên quán theo như
thế. .
Phật thuyết Kinh này
xong, trưởng lão Tu Bồ Đề với các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà
Di và tất cả thế gian, trời, người, A Tu La, nghe lời Phật thuyết, đều
rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Lược Giải
Như Như Bất Động,
chẳng nên chấp nơi tướng: Theo lời Phật thì hai chữ Như Như là như thật
tế, là như bản thể của tự tánh. Hai chữ Bất Động chẳng phải đối với động
mà nói bất động, vì tự tánh bất nhị, chẳng có biến chuyển nên nói bất
động. Về bề mặt thì chẳng thể diễn tả, nếu tả theo bề trái thì chẳng
động chẳng tịnh, chẳng thêm chẳng bớt, chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng một
chẳng nhiều ... Nên chỉ có thể nói là Như Như Bất Động. Tất cả những đối
đãi như động - tịnh, lớn - nhỏ, v.v... cho đến Bồ Đề - Niết Bàn đều là
tướng, chẳng chấp nơi tướng mới được gọi là Như Như Bất Động. (Lược giải
hết)
Kinh Kim Cang Hết
---o0o---
Nguồn: Thư Viện Hoa Sen
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 9-2007