Phần
20
Chương
IX : Tương Ưng Thí Dụ
I. Chóp
Mái (S.ii,262)
1) Như
vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm),
tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc).
2) Ở đây,
Thế Tôn nói như sau:
3) Ví như,
này các Tỷ-kheo, một ngôi nhà có nóc nhọn cao, phàm có
những cây kèo xa nào, tất cả chúng đều đi đến góc nhọn,
đều quy tựa vào góc nhọn, đều châu đầu vào góc nhọn,
tất cả chúng đều đâm đầu vào một gốc.
4) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những bất thiện pháp nào,
tất cả chúng đều lấy vô minh làm cội rễ, đều lấy vô
minh làm điểm tựa, đều châu đầu vào vô minh, tất cả chúng
đều đâm đầu vào một gốc.
5) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng ta hãy sống không phóng dật".
II. Đầu
Ngón Tay (Tạp, Đại 2. 345a) (Đơn tạp 22. Trảo Thổ, Đại 2,
498a) (S.ii,263)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Rồi
Thế Tôn lấy một ít đất trên đầu móng tay và nói với các
Tỷ-kheo:
3) Này các
Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Cái gì nhiều hơn, chút đất
này Ta lấy trên đầu móng tay, hay quả đất lớn này?
4) Cái này,
bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là quả đất lớn này và
ít hơn là chút đất mà Thế Tôn lấy trên đầu móng tay. Không
thể đi đến ước tính, không thể đi đến so sánh, không
thể đi đến một vi phần, khi so sánh quả đất lớn với chút
đất mà Thế Tôn lấy trên đầu móng tay.
5) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, rất ít là chúng sanh được tái sanh làm
người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra
ngoài loài Người!
6) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ sống không phóng dật".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
III.
Gia Đình (Tạp, 47.14, Nhơn Gia, Đại 2, 344c) (S.ii,263)
1) Ở Sàvatthi.
2) Ví như,
này các Tỷ-kheo, những gia đình nào có nhiều phụ nữ và ít
đàn ông, thời những gia đình ấy rất dễ bị các đạo
tặc, trộm ghè não hại.
3) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không tu tập từ tâm
giải thoát, không làm cho sung mãn, thời vị ấy dễ bị phi
nhân não hại.
4) Ví như,
này các Tỷ-kheo, những gia đình nào có ít phụ nữ và
nhiều đàn ông, thời gia đình ấy khó bị các đạo tặc,
trộm ghè não hại.
5) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào tu tập từ tâm giải thoát,
làm cho sung mãn, thời vị ấy rất khó bị phi nhân não hại.
6) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn,
làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và
khéo thực hiện".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo các Ông cần phải học tập.
IV. Cái
Nồi (Tạp, Đại 2, 344b) (S.ii,264)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Này các
Tỷ-kheo, ai vào buổi sáng bố thí một trăm cái nồi, ai
buổi trưa bố thí một trăm cái nồi, hay ai buổi chiều bố
thí một trăm cái nồi, và ai buổi sáng chỉ trong thời gian bóp
vú sữa con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm
giải thoát, hay ai buổi trưa chỉ trong thời gian bóp vú sữa
con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát,
hay ai buổi chiều chỉ trong thời gian bóp vú sữa con bò một
lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát, sự việc này
đối với sự việc trước, quả có lớn hơn.
3) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn,
làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và
khéo thực hiện".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
V. Cây
Lao (Satti) (Tạp, Đại 2, 344c) Sakti, S.(Hoernh, 1.44-45) (S.ii,265)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Ví như,
này các Tỷ-kheo, một cây lao có lưỡi sắc bén. Rồi một người
đến và nói: "Với tay hay với nắm tay, tôi sẽ bẻ gập
đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, tôi sẽ đánh phía
cạnh cho nó quặp dài lại, tôi sẽ uốn cong nó lại".
3) Này các
Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể với tay
hay nắm tay bẻ gập đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, đánh
phía cạnh cho nó quặp dài lại, uốn cong nó lại không?
- Thưa
không, bạch Thế Tôn.
4) Vì
sao?
Bạch
Thế Tôn, không dễ gì, với tay hay nắm tay bẻ gập đôi lưỡi
sắc bén của cây lao này, đánh phía cạnh cho nó quặp dài
lại, uống cong nó lại, mà không khiến cho người ấy mệt
nhọc và bị não hại.
5) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, khi một ai (vị Tỷ-kheo) tu tập từ tâm
giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn
cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện, thời một phi
nhân nào nghĩ rằng, có thể đánh ngã một tâm như vậy, kẻ
phi nhân ấy ở đây sẽ mệt nhọc và bị não hại.
6) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn,
làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và
khéo thực hiện".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
VI. Người
Bắn Cung (Tạp 24.9, Cung, Đại 2, 171c) (S.ii,265)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Ví như,
này các Tỷ-kheo, bốn người bắn cung dõng mãnh, lão luyện,
thuần tay, thiện xảo về cung thuật, đứng tại bốn phương.
3) Rồi
một người đến và nói rằng: "Ta sẽ nắm bắt và đem
lại những mũi tên được bắn đi bốn phương, trước khi chúng
rơi xuống đất, do bốn người bắn cung này bắn đi, những
người dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung
thuật".
4) Này các
Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Như vậy có vừa đủ chăng
để gọi người nhanh nhẹn ấy đầy đủ với sự nhanh
nhẹn tối thượng?
5) Bạch
Thế Tôn, nếu chỉ từ một người bắn cung dõng mãnh, lão
luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật, có thể nắm
bắt và đem lại một mũi tên được bắn đi, như vậy là
vừa đủ để gọi người nhanh nhẹn ấy, đầy đủ với
sự nhanh nhẹn tối thượng. Còn nói gì từ bốn người bắn
tên, dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung
thuật!
6) Và như
vậy, này các Tỷ-kheo, là sự nhanh nhẹn của người ấy. Và
như vậy là sự nhanh nhẹn của mặt trăng, mặt trời, còn
nhanh hơn sự nhanh nhẹn trước. Và như vậy, này các Tỷ-kheo
là sự nhanh nhẹn của người ấy, và như vậy là sự nhanh
nhẹn của mặt trăng, mặt trời, và như vậy là sự nhanh
nhẹn của các chư Thiên chạy trước mặt trăng, mặt trời.
Còn nhanh nhẹn hơn là sự biến diệt của thọ hành (thọ
mạng của các sự vật).
7) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ sống không phóng dật".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
VII. Cái
Chốt Trống (Tạp 47.18, Cổ, Đại 2, 315b) (S.ii,166)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Thuở
xưa, này các Tỷ-kheo, dân chúng Dasàrahà có một cái trống tên
là Anaka.
3) Khi cái
trống Anaka bắt đầu nứt ra, dân chúng Dasàrahà đóng vào
một cái chốt khác. Cho đến một thời gian, này các Tỷ-kheo,
cả cái thùng ván của trống Anaka biến mất và chỉ còn
lại những cái chốt tụ tập lại.
4) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sẽ thành trong tương
lai.
5)
Những bài kinh nào do Như Lai thuyết, thâm sâu, nghĩa lý thâm
diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không, họ sẽ không nghe
khi các kinh ấy được thuyết giảng; họ sẽ không lóng tai;
họ sẽ không an trú chánh tri tâm, và họ sẽ không nghĩ
rằng các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải
thấu đáo.
6) Còn
những bài kinh nào do các thi sĩ làm, những bài thơ với
những danh từ hoa mỹ, với những câu văn hoa mỹ, thuộc
ngoại điển, do các đệ tử thuyết giảng, họ sẽ nghe khi các
kinh ấy được thuyết giảng; họ sẽ lóng tai; họ sẽ an trú
chánh tri tâm và họ sẽ nghĩ rằng, các pháp ấy cần phải
học thuộc lòng, cần phải học thấu đáo. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các kinh do Như Lai thuyết, thâm sâu, nghĩa lý thâm
diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không sẽ đi đến tiêu
diệt.
7) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Những bài kinh nào do Như Lai thuyết giảng, thâm sâu, nghĩa
lý thâm diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không, chúng tôi
sẽ nghe khi các kinh ấy được thuyết giảng; chúng tôi sẽ lóng
tai; chúng tôi sẽ an trú chánh tri tâm. Và chúng tôi sẽ nghĩ
rằng, các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải
học thấu đáo".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
VIII.
Cỏ Rơm (Tạp, Đại 2, 344b) (S.ii,267)
1) Như
vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Vesàli (Tỳ-xá-ly), Mahàvana (Đại Lâm), Kuutàgàrasàlà
(Trùng Các giảng đường).
2) Ở đấy,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". - "Thưa
vâng bạch Thế Tôn".
Các vị
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3) Sống
trên các gối rơm, này các Tỷ-kheo, là lối sống hiện nay
của dân chúng Licchavi, không phóng dật, nhiệt tâm trong
nhiệm vụ. Ajàtasattu, con bà Vedehi, vua nước Magadha không có
được cơ hội, không có được đối tượng (để xâm lăng).
4) Trong
tương lai, này các Tỷ-kheo, dân chúng Licchavi trở thành nhu nhược,
tay chân mềm mỏng. Họ nằm trên những đồ nằm mềm mại.
Họ ngủ cho đến mặt trời mọc trên những gối bông. Ajàtasattu,
con bà Vedehi, vua nước Magadha, sẽ nắm được cơ hội, sẽ
nắm được đối tượng (để xâm, lăng).
5) Sống
trên các gối rơm, này các Tỷ-kheo, là nếp sống hiện nay
của các Tỷ-kheo, không phóng dật, nhiệt tâm trong các nỗ
lực. Ác ma không có cơ hội, không có đối tượng (để xâm
lăng).
6) Trong
tương lai, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sẽ trở thành nhu nhược,
tay chân mềm mỏng. Họ nằm trên những đồ nằm mềm mại.
Họ ngủ cho đến mặt trời mọc trên những gối bông. Ác ma
sẽ nắm được cơ hội, sẽ nắm được đối tượng (để
xâm lăng).
7) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ sống trên những gối rơm, không phóng
dật, nhiệt tâm trong nỗ lực".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
IX.
Voi (Tạp, Đại 2, 284a) (Biệt Tạp 122. Đại 2, 380c) (S.ii,268)
1) Tại
ngôi vườn ở Sàvatthi.
2) Lúc
bấy giờ, một vị tân Tỷ-kheo đi đến các gia đình quá
nhiều thì giờ. Các Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo ấy:
- Tôn
giả chớ có đi đến các gia đình quá nhiều thì giờ.
3) Được
nói vậy, vị Tỷ-kheo ấy nói:
- Những
Tỷ-kheo Trưởng lão này nghĩ rằng, họ có thể đi đến các
gia đình. Sao không phải ta?.
4) Rồi
nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn... rồi ngồi xuống một bên.
5) Ngồi
xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Ở đây,
bạch Thế Tôn, có người tân Tỷ-kheo đi đến các gia đình
quá nhiều thì giờ. Các Tỷ-kheo nói với Tỷ-kheo ấy: "Tôn
giả chớ có đi đến các gia đình quá nhiều thì giờ".
Được các Tỷ-kheo nói vậy, Tỷ-kheo ấy nói: "Những Trưởng
lão Tỷ-kheo này nghĩ rằng họ có thể đi đến các gia đình.
Sao không phải ta?"
6) Thuở
xưa, này các Tỷ-kheo, gần một hồ nước lớn, tại một khu
rừng, các con voi sống ở đấy. Chúng lặn xuống hồ, lấy vòi
nhổ lên các củ và rễ sen, rửa chúng thật sạch, làm cho chúng
sạch bùn rồi ăn chúng. Nhờ vậy, các con voi ấy được dung
sắc và sức mạnh, và không vì nhân duyên ấy những con voi
đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như chết.
7) Được
huấn luyện theo các con voi lớn ấy, này các Tỷ-kheo, các con
voi trẻ và nhỏ lặn xuống hồ, lấy vòi nhổ lên các củ,
rễ sen, không rửa chúng thật sạch, không làm cho chúng sạch
bùn rồi ăn chúng. Do vậy, các con voi ấy không được dung
sắc và sức mạnh, và vì nhân duyên ấy những con voi đi đến
chết hay đi đến đau khổ gần như chết.
8) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây các Trưởng lão Tỷ-kheo vào
buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn để
khất thực. Tại đấy họ thuyết pháp. Các gia chủ hoan hỷ
làm bổn phận của mình với các vị ấy. Các Tỷ-kheo ấy
thọ dụng các lợi đắc, không tham trước, không say đắm,
không phạm tội, thấy những nguy hiểm, hiểu sự xuất ly
với trí tuệ. Nhờ vậy, các Tỷ-kheo ấy được dung sắc và
sức mạnh, và không vì nhân duyên ấy họ đi đến chết hay
đi đến đau khổ gần như chết.
9) Nhưng
này các Tỷ-kheo, được huấn luyện theo các Trưởng lão
Tỷ-kheo, các tân Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi
vào làng hay thị trấn để khất thực.
10) Tại
đấy, các vị thuyết pháp. Các gia chủ hoan hỷ làm bổn
phận của mình. Các Tỷ-kheo ấy thọ dụng các lợi đắc,
tham trước, say đắm, phạm tội, không thấy sự nguy hiểm,
không hiểu sự xuất ly với trí tuệ. Do vậy, các vị
Tỷ-kheo ấy không được dung sắc và sức mạnh, và vì nhân
duyên ấy họ đi đến chết hay đi đến đau khổ gần như
chết.
11) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ thọ dụng các lợi đắc, không tham đắm,
không say mê, không phạm tội, thấy những nguy hiểm, hiểu rõ
sự xuất ly với trí tuệ".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
X. Con
Mèo (Tạp, Đại 2, 345c) (S.ii,270)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Lúc
bấy giờ có Tỷ-kheo thường dùng quá nhiều thì giờ giữa các
gia đình. Các Tỷ-kheo nói với vị ấy: "Tôn giả chớ có
dùng quá nhiều thì giờ giữa các gia đình".
3)
Tỷ-kheo ấy được các Tỷ-kheo nói vậy, tâm không hoan hỷ.
4) Rồi
nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn... và bạch Thế Tôn:
5) Ở đây,
bạch Thế Tôn, có Tỷ-kheo thường dùng quá nhiều thì giờ
giữa các gia đình. Các Tỷ-kheo nói với vị ấy: "Tôn
giả chớ có dùng quá nhiều thì giờ giữa các gia đình".
Tỷ-kheo ấy được các Tỷ-kheo nói vậy, tâm không hoan hỷ.
6) Thuở
xưa, này các Tỷ-kheo, có con mèo đứng rình con chuột bên
cạnh một đống rác tại một ống cống và nghĩ rằng:
"Nếu có một con chuột nhắt nào đi kiếm ăn chạy ra, ta
sẽ bắt lấy và ăn thịt".
7) Rồi
này các Tỷ-kheo, có con chuột nhắt vì kiếm ăn chạy ra. Và
con mèo ấy bắt lấy nó, mau chóng hành động (sankharirva) và
nuốt nó. Và con chuột nhắt ấy cắn ruột, cắn phủ tạng
con mèo. Do nhân duyên ấy, con mèo đi đến chết hay đi đến
đau khổ gần như chết.
8) Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, một số Tỷ-kheo vào buổi sáng
đắp y, cầm y bát, đi vào làng hay thị trấn để khất
thực, thân không phòng hộ, lời nói không phòng hộ, tâm không
phòng hộ, niệm không an trú, các căn không chế ngự.
9) Ở đấy,
các vị ấy thấy các phụ nữ mặc không đứng đắn, hay
mặc không kín đáo. Sau khi các vị ấy thấy các phụ nữ
mặc không đứng đắn, hay mặc không kín đáo, tham dục não
hại tâm. Các vị ấy bị tham dục não hại tâm, đi đến
chết hay đi đến đau khổ gần như chết.
10) Đây
là sự chết, này các Tỷ-kheo, trong giới luật của bậc Thánh,
tức là sự từ bỏ học giới và hoàn tục. Đây là đau
khổ gần như chết, này các Tỷ-kheo, tức là sự vi phạm
một uế tội, một tội phạm còn có thể tuyên bố xuất
gỡ được.
11) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Phòng hộ thân, phòng hộ lời nói, phòng hộ tâm, an trú
chánh niệm, chế ngự các căn, chúng tôi sẽ đi vào làng hay
thị trấn để khất thực".
Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
XI.
Con Chó Rừng (Giả-can) (Tạp 47.22. Đại 2, 346a) (S.ii,271)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Các
Ông có nghe chăng, này các Tỷ-kheo, trong ban đêm khi trời
gần sáng, con giả-can đang tru lớn tiếng?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
3) Đó là
con-giả can, này các Tỷ-kheo, bị mắc bệnh ghẻ lở. Chỗ nào
nó muốn đi, chỗ nào nó muốn đứng, chỗ nào nó muốn
ngồi, chỗ nào nó muốn nằm, gió lạnh buốt thổi lên trên
nó.
4) Lành
thay, này các Tỷ-kheo, nếu ở đây có người nào, tự cho là
Thích tử, lại có thể cảm thọ được một trạng huống
tự ngã như vậy.
5) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ không phóng dật".
6) Như
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
XII.
Con Giả Can (S.ii,272)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Các
Ông có nghe chăng, này các Tỷ-kheo, trong ban đêm lúc gần sáng,
có con giả-can tru lớn tiếng?.
- Thưa
không, bạch Thế Tôn.
3) Rất
có thể, này các Tỷ-kheo, trong con giả-can già ấy, có nhiều
biết ơn, có nhiều cảm tạ, hơn là ở đây trong một người
tự xưng là Thích tử về biết ơn và về cảm tạ!
4) Do
vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau:
"Chúng tôi sẽ biết ơn, cảm tạ. Dầu cho có chút ít gì
làm giữa chúng tôi, chúng tôi cũng không để cho mất đi".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.
--- o0o ---
| Mục lục Kinh Tương Ưng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11| 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22a | 22b | 22c | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29
| 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35a | 35b | 35c | 35d | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42
| 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nguyên Hân
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ Kinh này.
(Trang nhà Quảng Đức, 1/2002)
Nguồn: www.quangduc.com