Hội Thứ Sáu
Phẩm Pháp Giới
Thứ 4 – 2
Phật bảo
Tối Thắng: Thiên vương! Phải biết tướng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm bất
khả đắc. Tướng các Bồ tát cũng bất khả đắc. Chỉ do uy lực phương tiện khéo
léo, vì loại hữu tình thị hiện vào thai, cho đến Niết bàn các thứ hoa
tướng. Vì cớ sao? Vì chư Thiên chấp thường bảo không rơi đọa, vậy nên Bồ
tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, vì phá chấp
kia thị hiện vào thai. Nhân khiến Thiên kia khởi nghĩ vô thường: Thế gian
rất hơn rất cao không ai ngang, đối dục chẳng đắm hãy có rơi đọa, huống
các Thiên chúng mà được thường ư? Vậy nên đều phải chớ buông lung nữa,
siêng gắng tinh tiến buộc niệm tu Ðạo. Như thấy mặt trời có lặn mất, tức
biết lửa đom đóm chẳng được trụ lâu. Lại có
chư Thiên đắm vui, chẳng tu Chánh pháp, mặc tình buông lung chơi giỡn. Tuy
cùng Bồ tát đồng ở Thiên cung, mà chẳng đến lễ lạy, chẳng xin thọ pháp,
đều khởi nghĩ này: Vả nay hưởng vui, mai đến Bồ tát sẽ thọ pháp tu. Cùng
bảo nhau rằng: Ta cùng Bồ tát thường đồng ở đây, tu hành muộn gì. Vậy nên,
Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm siêng tu tinh tiến như chữa cháy
đầu, phá buông lung kia thị hiện rơi đọa. Thị hiện
như vậy có hai nhân duyên: Một, khiến chư Thiên lìa hạnh buông lung. Hai,
khiến hữu tình đồng được xem thấy. Thế gian
lại có hữu tình hèn kém, vì căn lành ít nên chẳng kham thấy Phật thành Vô
thượng giác, quay lui diệu pháp. Bồ tát kia vì thị hiện con nít và làm cậu
bé chơi giỡn hậu cung Bồ tát. Nếu làm các tượng khác thuyết pháp, nữ nhân
hậu cung thời chẳng tin muốn, vậy nên thị hiện nam nít, cậu bé. Có người
cao hạnh thường năng lìa tục, Bồ tát vì kia thị hiện xuất gia. Lại có
trời người khởi nghĩ như vầy: Ngồi yên hưởng vui chẳng được Thánh đạo, Bồ
tát vì kia thị hiện khổ hạnh, cũng để hàng phục ngoại đạo khổ hạnh, thị
hiện các thứ khổ hạnh khó hành. Lại có
trời người đêm dài phát nguyện: Khi Bồ tát đi đến tòa Bồ đề, người trời
chúng ta thường dâng cúng dường. Bồ tát vì kia đến tòa Bồ đề vô lượng
người trời đã cúng dường rồi, tất cả đều được nhân duyên Bồ đề. Lại có
người trời khởi nghĩ như vầy: Ác ma ngoại đạo ngăn ngại Chánh pháp, nguyện
được Bồ tát ngồi tòa Bồ đề hàng phục ác ma và các ngoại đạo, có kẻ chánh
tín đều được thấy Chánh pháp. Vậy nên,
Bồ tát thành Chánh đẳng giác rồi, khắp trong hư không thế giới ba ngàn có
các thứ tiếng tăm đồng khen ngợi rằng: Phật Nhật ra đời, sáng đóm lặn mất.
Các trời người thảy đều khởi lời này: Nguyện ta đời sau thành Vô thượng
giác như nay Bồ tát đã chứng Bồ đề, vì hữu tình đây ngồi tòa Bồ đề. Có các
trời người nói lời như vầy: Nguyện thấy Ðại sư thành Nhất thiết trí, Nhất
thiết tướng trí, Vô sư trí, Tự nhiên trí. Các hữu tình đây dù chẳng cầu ra
khỏi mà căn tánh thuần thục là thâm pháp khí, vì hữu tình này thị hiện
quay xe Pháp vô thượng ba phen mười hai hành tướng. Lại có
trời người muốn nghe viên tịch, Bồ tát vì kia thị hiện Niết bàn. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
năng hiện các thứ hóa tướng như thế. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
quyết chẳng sanh ở chỗ không rảnh. Vì cớ sao? Vì người không phước đức
chẳng nghe thắng danh tự Bát nhã Ba la mật đa vậy. Lại nữa,
các Bồ tát này thường lìa tất cả ác nghiệp, trọn chẳng hủy phạm giới Phật
đã nói, tâm không ganh ghét, thân ngữ không lỗi; đã ở chỗ vô lượng Phật
quá khứ trồng nhiều căn lành, đủ thắng phước đức trí huệ phương tiện, trọn
nên đại nguyện, tâm ưa vắng lặng, siêng hành tinh tiến, lìa các lười nhác. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát này không có ác nghiệp đọa thú địa ngục, vì
mười thiện nghiệp đạo thường hiện hành vậy. Các Bồ tát này không có phá
giới đọa thú bàng sanh, vì thường năng hộ trì giới đã thọ vậy. Các Bồ tát
này không có phá giới đọa thú bàng sanh, vì thường năng hộ trì giới đã thọ
vậy. Các Bồ tát này không có ganh ghét, chẳng đọa thú quỉ đói, chẳng sanh
nhà tà kiến, thường gặp bạn lành, xa lìa bạn ác. Vì cớ sao? Vì quá khứ đã
ở vô lượng chỗ Phật, trồng sâu căn lành, vậy nên sanh chỗ nào giàu sang tự
tại, đều đủ chánh kiến. Các Bồ
tát này tùy thân đã thọ, chẳng khuyết các căn, thành đồ đựng Phật Pháp. Vì
cớ sao? Vì ở đời quá khứ cúng đường chư Phật, lóng nghe Chánh pháp, lễ
kính đại chúng. Vậy nên sanh chỗ nào thường đủ các căn, hình tướng đoan
nghiêm, thành đồ đựng Phật Pháp. Các Bồ
tát này chẳng sanh biên địa căn độn ngu si, chẳng biết thiện ác nghĩa thú
lời nói, chẳng phải đồ đựng Phật Pháp, chẳng nhận biết Sa môn, Bà la môn
thảy. Vì cớ sao? Bồ tát thọ sanh tất ở trung quốc, lợi căn trí huệ, lời
nói rõ ràng, giỏi biết nghĩa lời nói, là đồ đựng Phật Pháp, khéo biết Sa
môn Bà la môn thảy. Vì cớ sao? Vì đời trước Bồ tát đủ sức phước đức trí
huệ vậy. Bồ tát
trọn chẳng sanh cung trời Sống lâu, vì chẳng thể lợi người, chẳng thấy
Phật vậy. Các Bồ tát này phần nhiều sanh cõi Dục, thị hiện ra đời lợi vui
hữu tình. Vì cớ sao? Vì đủ sức thắng phương tiện khéo léo vậy. Bồ tát
chẳng sanh thế giới không Phật. Chỗ đây không Phật, không kẻ thuyết Pháp.
Chẳng nghe Chánh pháp, chẳng cúng dường Tăng. Sở dĩ vì sao? Vì chỗ Bồ tát
sanh tất đủ Tam Bảo, nguyện đời trước mạnh vậy. Các Bồ tát này nghe ác thế
giới rất sanh nhàm lìa, tu hạnh vắng lặng, tâm chẳng lười nhác, tinh siêng
mãnh mẽ, dùng tất cả thiện diệt các ác pháp. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
dùng nhiều thứ nhân duyên như thế thảy, trọn chẳng sanh ở những chỗ không
rảnh. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
cho đến trong mộng hãy chẳng quên mất tâm Ðại Bồ đề, huống khi giác tỉnh
lẽ đâu quên mất. Vì cớ sao? Vì tất cả thiện pháp sanh ở tâm đây tức là Vô
thượng Chánh đẳng giác. Nếu không tâm đây thời không có Phật. Không Phật
không Pháp, không Pháp không Tăng, do tâm đây nên được có Tam Bảo và có
người trời tu thiện hưởng vui. Các Bồ
tát này thường lìa nịnh dối, chất trực như hòa, nơi tâm thanh tịnh, đối
pháp chư Phật chẳng sanh do dự. Kẻ muốn nghe thọ chẳng giấu thâm nghĩa.
Lìa các ganh ghét, xa nghiệp tam đồ. Ðối trước giữa sau không tướng thay
đổi, làm chẳng trái lời nói. Hộ pháp Ðại thừa, thấy kẻ đồng học rất sanh
cung kính, khuyên siêng tu tập, khen ngợi Ðại thừa. Ðối Sư thuyết pháp
thường sanh tưởng như Phật. Gần gũi bạn lành, xa lìa bạn ác. Các Bồ tát
này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo trọn nên tâm
Bồ đề như thế. Nương nhờ tâm này được Túc trụ trí. Vì cớ sao? Vì đã
từng cúng dường vô lượng chư Phật, hộ trì Chánh pháp, tu giới thanh tịnh,
xa lìa ác nghiệp, hẳn không ngăn ngại, tâm thường vui mừng, tâm siêng tu
học, tâm chẳng tán loạn, tâm trí chẳng mất. Sở dĩ vì sao? Các Bồ tát này
do từng cúng dường vô lượng chư Phật thời trọng Chánh pháp. Do trọng Pháp
nên rộng vì người nói. Vì hộ Chánh pháp chẳng tiếc thân mạng. Nghiệp thân
ngữ ý thảy đều thanh tịnh. Nghiệp thanh tịnh rồi được lìa ngăn ngại. Lìa
ngăn ngại nên tâm thường vui mừng. Tâm vui mừng thời siêng tinh tiến. Tâm
tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí nên biết đời sống quá khứ
một mười trăm ngàn, cho đến vô số. Các Bồ
tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thật biết rõ chỗ sanh quá
khứ. Ðã rõ đời trước gần gũi bạn lành. Do bạn lành nên ở chỗ chư Phật
chẳng thất ba việc là nghe thấy niệm, thường ưa nghe Pháp, cúng dường Tam
Bảo, với tất cả thời từng không bỏ qua. Chỗ Phật Bồ tát thường sanh cung
kính, lễ bái cúng dường, không lúc tạm bỏ. Ði đứng ngồi nằm chẳng lìa đa
văn. Thiên
vương phải biết: Vì các Bồ tát này trì tịnh giới nên thường nghe công đức
danh tự Bát nhã Ba la mật đa, thường siêng tu tập trợ Bồ đề phần, từng
chẳng xa lìa ba môn giải thoát. Ở tất cả thời tu bốn vô lượng, thường nghe
danh Nhất thiết trí vô thượng. Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, do nhân duyên đây gần gũi bạn lành. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
cho đến trong mộng chẳng gần bạn ác, huống ở khi giác tỉnh mà gần kề kia.
Sở dĩ vì sao? Vì các Bồ tát Ma ha tát đối người phá giới, người đắm tà
kiến, người chẳng luật nghi, người hành tà mạng, người nói vô nghĩa, người
trụ lười biếng, người vui sanh tử, người trái Bồ đề, người yêu việc tục,
mặc dù thường thương xót mà chẳng ở chung. Thiên vương phải biết: Các Bồ
tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm do pháp như thế nên xa
lìa bạn ác. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
năng được Như Lai mười thân sai khác. Những gì là mười? Một: Thân bình
đẳng. Hai: Thân thanh tịnh. Ba: Thân vô tận. Bốn: Thân tu thiện. Năm: Thân
pháp tánh. Sáu: Thân lìa tìm tòi. Bảy: Thân bất tư nghì. Tám: Thân tịch
tĩnh. Chín: Thân hư không. Mười: Thân diệu trí. Bấy giờ,
Tối Thắng bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật
đa sâu thẳm đén ngôi nào năng được Như Lai mười thân? Phật bảo
Tối Thắng: Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm ở trong sơ địa được thân bình đẳng. Vì cớ sao? Vì thông
suốt pháp tánh, lìa các tà vạy, thấy bình đẳng vậy. Trong đệ
nhị địa được thân thanh tịnh. Vì cớ sao? Vì lìa lỗi phạm giới, giới thanh
tịnh vậy. Trong đệ
tam địa được thân vô tận. Vì cớ sao? Vì lìa dục tham sân, được thắng định
vậy. Trong đệ
tứ địa được thân tu thiện. Vì cớ sao? Vì thường siêng tu tập Bồ đề phần
vậy. Trong đệ
ngũ địa được pháp thân. Vì cớ sao? Vì quán các đế lý chứng pháp tánh vậy. Trong đệ
lục địa được thân lìa tìm tòi. Vì cớ sao? Vì quán lý duyên khởi, lìa tìm
tòi vậy. Trong đệ
thất địa được thân bất tư nghì. Vì cớ sao? Vì phương tiện khéo léo, tín
hành mãn vậy. Trong đệ
bát địa được thân tịch tĩnh. Vì cớ sao? Vì lìa các việc phiền não hý luận
vậy. Trong đệ
cửu địa được thân hư không. Vì cớ sao? Vì thân tướng vô tận khắp tất cả
vậy. Trong đệ
thập địa được thân diệu trí. Vì cớ sao? Vì tất cả giống trí tu viên mãn
vậy. Liền đây
Tối Thắng lại thưa Phật rằng: Thân Phật Bồ tát đâu không sai khác? Phật bảo
Tối Thắng: Thiên vương phải biết: Thân không sai biệt, công đức có khác.
Nghĩa ấy thế nào rằng thân Phật Bồ tát không sai biệt? Sở dĩ vì sao? Vì
tất cả pháp đồng một tánh tướng. Công đức khác ấy là thân Như Lai đủ các
công đức. Bồ tát chẳng vậy. Ta sẽ vì người lược nói thí dụ. Ví như
ngọc quí, nếu đủ trau dồi, chẳng đủ trau dồi, chẳng đủ trau dồi, chất ngọc
không khác. Thân Phật Bồ tát cũng lại như thế, công đức có khác, pháp tánh
không riêng. Sở dĩ vì sao? Vì công
đức Như Lai tất cả viên mãn, tận nơi mười phương khắp cõi hữu tình, thanh
tịnh lìa bẩn hẳn không chướng ngại. Thân Bồ tát công đức chưa đầy, còn có
dư chướng vậy. Ví như mặt trăng có đầy chưa đầy, tánh trăng không khác.
Hai thân cũng thế. Các thân như vậy thảy đều bền chắc, chẳng thể phá hoại,
in như kim cương. Sở dĩ vì sao? Vì ba
độc chẳng phá, pháp đời chẳng hiểm, ác thú người trời khổ chẳng thể bức
ép, thảy đều xa lìa sanh lão bệnh tử, năng dẹp ngoại đạo, vượt cảnh giới
ma, chẳng hướng tới bậc Ðộc Giác và Thanh văn thừa. Vì nhân duyên này
chẳng thể phá hoại. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
năng giỏi dẫn đem thế gian trời, người, a tố lạc thảy đều đồng tín dụng. Ví như
có người giỏi làm dẫn đem, hoặc các quốc vương, hoặc ngang hàng cùng
vương, trưởng giả, cư sĩ đều trọng tín dụng. Các Bồ tát đây cũng lại như
thế, Thanh văn, Ðộc Giác, Bồ tát, Như Lai thảy đều công nhận là dẫn đem
giỏi. Như Lai dẫn đem quốc vương, đại thần, Bà la môn thảy đều đồng tôn
kính. Các Bồ tát đây cũng lại như thế, đều được trời, rồng, dược xoa, a tố
lạc thảy, bậc hữu học vô học cúng dường. Như đồng
nội mênh mông, hiểm nạn, kẻ hành nhân mỏi mệt gặp giỏi dẫn đem năng khiến
dược yên ổn. Các Bồ tát đây cũng lại như thế, dùng sức phương tiện khéo
léo dẫn đem hữu tình khiến ở sanh tử được ra yên ổn. Như các
người nghèo nương ông trưởng giả giàu mới khỏi hiểm nạn. Tất cả ngoại đạo
và Bà la môn ở trong sanh tử nương Bồ tát đây mới được ra khỏi. Như đại
trưởng giả của cải vô lượng được tất cả người mến dùng nhờ. Các Bồ tát đây
cũng lại như thế, hữu tình sanh tử được chung thọ dụng. Như đại
trưởng giả muốn qua hiểm nạn tất nhờ nhiều bạn, uống ăn của gạo thảy đều
đầy đủ vậy, mới qua khỏi được. Các Bồ tát đây cũng lại như thế, muốn ra
hiểm nạn sanh tử thế gian, tất nhờ phước huệ nhiếp các hữu tình mới qua
thế gian đến Nhất thiết trí. Như
người đi xa đem nhiều của báu là được lợi vậy. Các Bồ tát đây cũng lại như
thế, từ biển sanh tử đến Nhất thiết trí cần rộng tu nhóm của báu phước
huệ, là mau chứng được Nhất thiết trí vậy. Như
người thế gian tìm của không chán. Các Bồ tát đây cũng lại như thế, vui
cầu thắng pháp tâm từng không chán. Như kẻ
dẫn đem cần có bốn việc hơn người: giàu có, ngôi cao, tài giỏi, nói tin.
Các Bồ tát đây cũng lại như thế, giàu các công đức, ở ngôi cao tôn, đối
pháp tự tại, nói ra không khác. Như
người giỏi dẫn đến nơi thành lớn. Các Bồ tát đây cũng lại như thế, dẫn đem
hữu tình đến Nhất thiết trí. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
thạo biết đường nên đi, chẳng nên đi, chỗ gọi đạo tà chánh, cong ngay, an
nguy, có nước không nước, hoặc có lưu nạn, hoặc ra khỏi được, đều thạo
thông suốt. Các Bồ
tát này biết đường không trái, hễ đã chỉ dẫn chẳng trái căn cơ của chúng.
Vì người Ðại thừa nói đạo vô thượng, chẳng nói đạo Ðộc Giác và Thanh văn.
Vì người Ðộc Giác nói đạo Ðộc Giác, chẳng nói đạo Bồ tát và Thanh văn. Vì
người Thanh văn nói đạo Thanh văn, chẳng nói đạo Ðộc Giác và Bồ tát. Vì kẻ
chấp ngã nói đạo vô ngã, vì kẻ chấp pháp nói đạo pháp không, kẻ chấp hai
bên vì nói trung đạo. Vì kẻ mê loạn nói đạo chỉ quán khiến hết mê loạn. Vì
kẻ hý luận nói đạo chơn như khiến chẳng hý luận. Vì kẻ chấp sanh tử nói
đạo Niết bàn cho ra khỏi thế gian. Vì kẻ mê đường nói đạo chánh trực khiến
xa đường tà. Thiên
vương! Ðấy gọi các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
biết đường tà chánh dẫn đem hữu tình khiến được ra khỏi.
Hội Thứ Sáu
Phẩm Niệm Trụ
Thứ 5
Phật bảo
Tối Thắng: Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm, tâm chánh không loạn. Sở dĩ vì sao? Vì các Bồ tát này
khéo tu nhớ trụ Thân-Thọ-Tâm-Pháp. Hễ ra dạo đi thành ấp xóm làng nghe nói
lợi dưỡng tâm không tham nhiễm. Như Phật Thế Tôn nói trong kinh: “Khéo tự
nghĩ nhớ lìa các phiền não”. Thiên
vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tu
nhớ trụ Thân? Nghĩa là Bồ tát đây dùng trí như thật xa lìa tất cả pháp ác
bất thiện tương ưng với thân. Quán sát thân này từ chân đến đỉnh chỉ có
các thứ bất tịnh tội lỗi, không ngã không vui vô thường bại hoại, tanh hôi
thúi uế, gân mạch dính liền, ác sắc như đấy ai ma ưa thấy! Quán như thế
rồi tham dục chấp thân ngã kiến trong thân đều chẳng sanh lại. Do đây bèn
năng thuận theo các pháp lành. Thiên
vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tu
nhớ trụ Thọ? Nghĩa là Bồ tát khởi suy nghĩ này: Các thọ đều khổ, hữu tình
điên đảo quấy khởi tưởng vui, dị sanh ngu si lấy khổ làm vui. Thánh giả
chỉ nói tất cả đều khổ. Vì dứt trừ khổ nên tu tinh tiến, cũng phải khuyên
người siêng tu pháp đây. Khởi quán đây rồi hằng trụ nhớ Thọ, chẳng theo
thọ hành, tu hạnh dứt thọ, cũng khiến người học. Thiên
vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tu
nhớ trụ Tâm? Nghĩa là Bồ tát đây khởi suy nghĩ này: Tâm đây vô thường, ngu
bảo thường trụ, thật khổ bảo vui, không ngã bảo ngã, chẳng sạch bảo sạch.
Tâm đây chẳng trụ, chóng nhanh chuyển đổi; cội gốc cho tùy miên, cửa của
các ác thú, nhân duyên phiền não, hoại diệt thiện thú, là chẳng thể tin.
Sanh tham sân si, đối tất cả pháp tâm dẫn trước. Nếu khéo biết tâm, hiểu
hết các pháp. Các thứ thế pháp đều bởi tâm gây. Tâm chẳng tự thấy các thứ
tội lỗi do mình, hoặc thiện hoặc ác đều bởi tâm khởi. Tâm tánh chuyển
nhanh như vòng lửa quay bỗng chốc chẳng dừng, như gió ngựa đồng, như nước
bạo động, như lửa năng đốt. Làm quan như thế khiến nhớ chẳng động, khiến
tâm theo mình, chẳng theo tâm hành. Nếu đè được tâm thời đè được các pháp. Thiên
vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tu
nhớ trụ Pháp? Nghĩa là Bồ tát đây năng như thật biết thế gian có bao pháp
ác bất thiện, là tham sân si và các phiền não. Ðối các phiền não nên tu
đối trị, là tu đối trị tham dục, giận dữ, ngu si và các phiền não sai
khác. Như thật biết rồi liền quay khởi nhớ chẳng hành pháp kia, cũng khiến
người lìa. Thiên
vương! Sao là các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối
cảnh khởi nhớ? Nghĩa là Bồ tát đây nếu gặp cảnh sắc thanh hương vị xúc
pháp bèn khởi nghĩ rằng: Lẽ nào đối đây pháp chẳng chơn thật mà sanh tham
ái? Ðây là chỗ dị sanh ngu si say đắm, tức là bất thiện. Như Thế Tôn dạy:
“Ái tức sanh đắm, đắm tức mê lầm. Bởi đây chẳng biết pháp thiện pháp ác,
vì nhân duyên này đọa nơi ác thú”. Như vậy Bồ tát tự chẳng lầm lỗi, chẳng
đắm cảnh giới, khiến người cũng vậy. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
nhớ chỗ vắng vẻ, là Bồ tát đây khởi suy nghĩ này: Chỗ vắng vẻ là nương ở
được không người tranh giành. Trụ chỗ vắng lặng trời, rồng, dược xoa, kẻ
tha tâm trí đều năng biết pháp tâm tâm sở của ta, chẳng lẽ trụ đấy khởi
suy nghĩ tà. Do suy nghĩ đây tức được bỏ lìa, đối pháp chánh nhớ siêng tu
hành tới. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
khởi suy nghĩ này: Thành ấp xóm làng các ồn tạp nhiều, chẳng phải chỗ
người xuất gia nên đi đến thời chẳng nên tới. Nghĩa là bán rượu, mãi dâm,
vương cung, đánh bạc, ca múa, những chỗ như thế thảy đều nên xa lìa. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
nghe danh lợi dưỡng khởi chánh nhớ nghĩ, là khởi nghĩ này: Vì sanh phước
cho kia nên nhận của đây; chẳng bởi tham ái nhận rồi lẫn tiếc, để nuôi
dưỡng vợ con, đã chẳng nói ta có của vật như thế khắp chu cấp tất cả nghèo
cùng. Hành giả như thế được người khen ngợi, trọn chẳng chấp đắm ngã và
ngã sở. Lại khởi
nghĩ này: Người đều khen ta tiếng đồn ơn thí; thế gian vô thường chốc lát
mòn diệt, lẽ nào người trí đối không thường không thật, không chủ chẳng
hằng, theo kia mà hành chấp ngã ngã sở? Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
nhớ lời Phật Thế Tôn đã nói cấm giới, tức khởi nghĩ này: Chư Phật ba đời
đều học giới đây thành Vô thượng giác, chứng đại Niết bàn. Biết như thế
rồi tinh siêng tu học. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
vì hóa hữu tình và tự tu tập, ít muốn vui đủ, mặc áo giẻ hư lượm nơi đống
rác, tâm thường trong sạch, sức tin vững chắc, thà mất thân mạng đối giới
chẳng phạm. Tâm lìa kiêu mạn, dạo đi thành ấp dù mặc áo xấu mà chẳng sanh
hổ. Xa lìa lười biếng, thường tu tinh tiến. Chỗ làm chưa xong quyết chẳng
giữa chừng bỏ dở. Ðối chiếc áo giẻ lượm chẳng thấy tội lỗi, cũ mục hư nát
trọn không khinh chê, chỉ lấy nơi đức. Vì lẽ kẻ ly dục là phải mặc áo này,
được Như Lai khen, dứt đắm tham lam; cũng chẳng tự khen ta năng mặc đây mà
kia chẳng mặc, trọn không lời chê. Hành giả như đấy các trời phải kính
lạy, được chư Phật khen ngợi, các Bồ tát hộ trì, Bà la môn thảy cung kính
cúng dường. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
mới tu được diệu hạnh thanh tịnh như thế. Bấy giờ,
Tối Thắng bèn thưa Phật rằng: Bồ tát cao hạnh hành Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm dùng mặc áo giẻ hư lượm đây chi ư? Phật
nói: Thiên vương! Các Ðại Bồ tát vì hộ thế gian nên mặc áo giẻ hư lượm
đống rác. Sở dĩ vì sao? Vì thế gian nếu được thấy đắp mặc áo đây, dứt ác
sanh thiện. Thiên
vương! Nơi ý hiểu sao? Cao hạnh Bồ tát ai bằng Thế Tôn? Tối
Thắng thưa rằng: Trăm ngàn vạn ức cho đến cực số phần cũng chẳng kịp một.
Vì cớ sao? Vì Phật là đấng Pháp Vương, đủ tất cả trí, không có một pháp
chẳng năng soi vậy. Thiên
vương! Nơi ý hiểu sao? Phật đối tất cả trời rồng dược xoa và người phi
người thảy thị hiện khổ hạnh và thường khen ngợi công đức Ðầu đà Ðổ đa,
đây là hành vi nào? Tối
Thắng thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Vì muốn giáo hóa các loại hữu tình dộ được
và các Bồ tát mới phát tâm thảy chưa dứt phiền não, vì nói pháp đối trị. Phật
nói: Như vậy, như vậy. Thiên vương! Bồ tát cao hạnh mặc áo giẻ lượm cũng
lại như thế. Vậy nên, Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo làm nhiêu ích hữu tình. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
vì thế gian nên chỉ dùng ba áo. Vì cớ sao? Vì tâm vui đủ nên lại chẳng cầu
nhiều, tức là ít muốn. Chẳng cầu xin nên không cần chứa nhóm. Vì không
chứa nhóm thời chẳng mất mát. Vì không mất mát thời chẳng buồn khổ. Vì
không buồn khổ thời lìa phiền não. Vì lìa phiền não thời không bị đắm. Vì
không bị đắm thời là hết lậu. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
vì muốn nhiêu ích các hữu tình nên vào thành ấp cầm bát xin ăn. Vì cớ sao?
Vì các Bồ tát này lòng đại bi thúc giục, quán các hữu tình phần nhiều
nghèo khổ, muốn khiến giàu vui nhận kia cúng dường. Khi vào thành ấp, uy
nghi tề chỉnh, tâm chánh chẳng loạn, khéo nhiếp các căn, chậm bước mà đi,
xem trước chừng sáu cánh tay, chẳng ngó hai bên; đúng phép xin ăn, thứ lớp
mà qua chẳng vượt nhà nghèo; xứng lượng lấy cơm, trọn chẳng nhận nhiều,
với vừa đủ phải; lại để một phần toan thí nghèo thiếu, cúng dường phước
điền. Vì cớ sao? Bởi tín thí khó tiêu, vì sanh phước vậy. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
chỉ một ngồi ăn mà chẳng dời động. Vì cớ sao? Vì Bồ tát một ngồi tòa diệu
Bồ đề, ma đến rối loạn cũng chẳng dời động. Ở trong định xuất thế, pháp
trí huệ không, thật tế chơn như, như lý Thánh đạo, tất cả chủng trí đều
chẳng dời động. Vì cớ sao? Vì pháp Nhất thiết trí một ngồi đắc vậy. Vậy
nên, Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chỉ một ngồi ăn. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
phương tiện khéo léo vì các hữu tình thị hiện xin ăn. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
thường siêng tu học hạnh vắng vẻ. Nghĩa là tu phạm hạnh, với trong các căn
chẳng khởi tội lỗi, ưa sức đa văn, kham tu chánh hạnh, lìa ngã sợ hãi,
chẳng chấp đắm thân, thường hành vắng lặng. Các Bồ tát này đối với Chánh
pháp thường muốn xuất gia, trì giới ba luân, khéo biết pháp tướng. Như Lai
đã vì nói giới, ba hạng người là thiếu tráng lão niên đều được rõ thấu.
Chẳng duyên cảnh ngoài, chuyên nhớ tự tâm, quở chê thế pháp, khen ngợi
xuất thế, điều phục các căn, chẳng lấy cảnh ác. Nương ở chỗ vắng vẻ không
tai nạn, xin ăn thành ấp chẳng xa chẳng gần. Có suối nước trong tắm rửa dễ
dàng, rừng nhiều hoa quả, không cầm thú dữ, hang nham vắng lặng, rộng
trống ít người. Thắng xứ như thế mà làm chỗ ở. Pháp đã từng nghe ngày đêm
ba thời siêng gắng tán dụng, tiếng chớ cao thấp, tâm chẳng duyên ngoài,
chuyên trì nghĩ nhớ. Bà la môn thảy đến tới chỗ ấy, niềm nở mời ngồi, vui
mừng thăm hỏi, quán căn tánh kia vì nói Chánh pháp khiến được vui mừng,
tín thọ tu hành. Ðầy đủ phương tiện khéo léo như thế, xa lìa ngã tâm, dùng
vô ngã nên ở chỗ vắng vẻ chẳng sanh sợ hãi. Lìa sợ hãi nên vui hành hạnh
vắng lặng. Bồ tát sức phương tiện khéo léo như thế thị hiện tu hành hạnh ở
chỗ vắng vẻ. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
khéo quán các hành, khởi suy nghĩ này: Tất cả uống ăn thanh tịnh thơm
sạch, lửa thân chạm đó tức thành bất tịnh, tan nát hôi hám, đứa ngu vô trí
yêu đắm thân này và các uống ăn. Nếu nương Thánh trí như thật quán sát,
tức sanh chán ghét chẳng khởi ưa đắm. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
khởi suy nghĩ này: Hành nhiều giận dữ bèn khởi ác nghiệp ta nay phải lìa,
sanh tâm tới đạo suy nghĩ chơn thật, chẳng những miệng nói suông. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
khởi nghĩ như vầy: Nếu pháp có sanh tức là nhân duyên, pháp nhân duyên lại
từ duyên khởi; vì sao kẻ trí đối pháp nhân duyên hư dối sanh đây mà gây
tội lỗi? Trong thân Bồ tát có pháp chướng thiện tức tự trừ dứt. Nếu chẳng
thể dứt pháp chướng thiện cho người khác tâm bèn sanh xả, chẳng khởi vô
minh. Vì sao
gọi là pháp chướng thiện? Nghĩa là chẳng cung kính Phật Pháp Tăng bảo và
giới thanh tịnh, chẳng kính đồng học, già trẻ ấu tiểu tự cao khinh kia.
Hướng tới năm dục, trái bỏ Niết bàn mà khởi ngã kiến, hoặc hữu tình kiến,
cho đến tri giả kiến, kiến giả kiến; chấp không khởi đoạn kiến, chấp có
khởi thường kiến. Xa lìa Hiền Thánh, gần kề đứa ngu, bỏ người trì giới,
dựa kẻ phá giới; đeo gần bạn ác, lìa xa bạn lành; nghe pháp sâu thẳm bèn
sanh hủy báng. Thân ác luật nghi, lời không khéo nói, tâm đủ nịnh cong, bị
phiền não che, tham đắm lợi dưỡng. Sanh đủ năm khinh mạn: Một: Họ hàng quý
phái khinh. Hai: dòng họ cao sang khinh. Ba: Thấy biết hơn người khinh.
Bốn: Cõi nước giàu có khinh. Năm: Ðồ chúng đông giỏi mà khinh mạn. Thấy ác
bèn giúp sức, gặp thiện bỏ tránh xa, khen mỹ đàn bà con nít ngoại đạo,
chẳng muốn tu tập hạnh ở chỗ vắng vẻ, ăn uống chẳng hiểu thời tiết, xa lìa
thầy bạn. Dù có đọc tụng chẳng biết thì giờ, thấy thiện chẳng trọng, thấy
ác chẳng sợ. Như voi không móc, ngựa không dây cương, buông lung chẳng thể
được. Ưa sanh giận dữ, tâm chẳng từ niệm, thấy khốn khổ chẳng thương, gặp
tật bệnh không xem. Ðối chết chẳng sợ, ở đống lửa trọn chẳng cầu xa. Việc
đáng làm không làm, chẳng nên làm lại làm; chẳng nghĩ mà nghĩ, nên nghĩ
chẳng nghĩ, chẳng phải mong mà cầu. Chẳng ra bảo đã ra, chẳng phải đường
gọi đường, chưa đắc cho đã đắc. Ưa tập trọng ác, tránh xa đại thiện. Hủy
chê Ðại thừa và người Ðại thừa, khen ngợi Tiểu đạo và học kẻ tiểu. Muốn
nhiều đấu loạn, ưa nói thô ác. Lòng không từ bi khiến người sợ hãi, thốt
lời thô bỉ, lý không một thật. Ưa đắm hý luận mà chẳng thể bỏ được. Những
việc như thế thảy gọi là pháp chướng thiện. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
tu tập không hạnh, diệt pháp hý luận, khởi suy nghĩ này: Cảnh giới sở quán
thảy đều trống không, tâm năng quán cũng lại chẳng có. Không quán năng sở
thứ sai khác, các pháp nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Suy nghĩ như thế
khiển tướng trong ngoài, chẳng thấy thân tâm cũng chẳng thấy pháp, thứ lớp
nối nhau tu học chỉ quán. Quán là như thật thấy, pháp chỉ là nhất tâm
chẳng loạn. Như vậy
Bồ tát tu quán hạnh rồi tức được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hành
cũng thanh tịnh. Ðấy gọi Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm quán
hạnh thanh tịnh. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
hộ trì pháp tạng Vô thượng Như Lai, nghe thọ Chánh pháp, vì hộ pháp nên
chẳng vì lợi dưỡng, vì hạt giống Tam bảo chẳng dứt tuyệt nên chẳng vì cung
kính, vì muốn giữ hộ hạnh Ðại thừa nên chẳng vì danh dự. Kẻ không về nương
khiến được về nương, kẻ không cứu giúp khiến được cứu giúp, kẻ không an
vui khiến được an vui, kẻ không mắt huệ khiến được mắt huệ, kẻ tu Tiểu
thừa chỉ đạo Thanh văn, kẻ tu Trung thừa chỉ đạo Ðộc Giác, kẻ hành Ðại
thừa chỉ đạo Vô thượng. Nghe pháp như thế vì trí Vô thượng trọn chẳng vì
được thừa thấp kém. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
khéo biết các thứ pháp Tỳ nại da. Nghĩa là Tỳ nại da, hạnh Tỳ nại da, Tỳ
nại da sâu thẳm, Tỳ nại da nhiệm mầu, tịnh cùng bất tịnh, có lỗi không
lỗi, gốc giải thoát riêng, Tỳ nại da Thanh văn, Tỳ nại da Bồ tát. Các Bồ
tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối pháp Tỳ nại da như thế thảy
đều khéo biết hết. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
khéo biết tất cả uy nghi giới hạnh, khéo học giới Thanh văn, Ðộc Giác, Bồ
tát sở thọ trì. Ðã tu giới hạnh, nếu thấy uy nghi chẳng xứng ý chúng thời
nên bỏ lìa. Chỗ phi xứ chẳng đi, nếu có Sa môn uy nghi giới hạnh thanh
bạch đầy đủ tức gần gũi đó. Nếu Bà la môn các học hành khác thời khuyên xa
lìa, tu Tỳ nại da. Tu tập giới hạnh thành mãn như thế tâm chẳng xảo ngụy,
ganh ghét bèn diệt. Tự hành
bố thí, cũng khuyên người hành, khen ngợi bố thí khiến người tu học, thấy
người bố thí tâm sanh tùy hỷ. Chẳng khởi nghĩ này: Thí ta chẳng ai khác.
Chỉ nên suy nghĩ: Các loại hữu tình phần nhiều bị nghèo thiếu đói lạnh
khốn khổ, nguyện kia được của, đời hiện an vui, vì nghe Chánh pháp, đời
sau an vui. Ta nên đời nay tinh siêng tu Ðạo, nguyện cùng hữu tình đồng
được ra khỏi. Ðấy gọi Bồ tát không tâm ganh ghét đối các hữu tình đều được
bình đẳng. Nếu hành
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, cho đến Nhất
thiết tướng trí, vì khắp hữu tình, nơi tâm không hai. Vì cớ sao? Vì Pháp
sở tu cùng chung hữu tình nghĩ vì cảnh giới khiến mau được Ðạo. Ở lửa sanh
tử tự đã được ra, cũng nguyện hữu tình đồng được ra khỏi. Thiên
vương! Ví như trưởng giả sáu con nhỏ dại, thảy đều yêu mến không lòng
chênh lệch. Trưởng giả ở ngoài, nơi nhà lửa cháy. Nơi ý hiểu sao? Trưởng
giả bấy giờ, vả có nghĩ này: Ðối sáu con kia cứu trước sau chăng? Bạch Thế
Tôn! Chẳng có vậy. Vì cớ sao? Vì người cha đối con lòng bình đẳng vậy. Thiên
vương phải biết: Bồ tát cũng thế. Ðứa ngu tham đắm ở nơi sáu thú nhà lửa
sanh tử chẳng biết ra khỏi. Các Bồ tát này đem tâm bình đẳng dùng nhiều
phương tiện dụ hóa khiến ra, thảy đều an để trong cõi viên tịch. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
đối pháp cũng bình đẳng. Vì hộ Chánh pháp cúng dường Như Lai. Các thứ phẩm
cúng dường Như Lai như thật tu hành. Cúng dường Như Lai lợi ích an vui tất
cả hữu tình, giữ hộ thiện pháp tất cả hữu tình, tùy thuận hữu tình khéo
năng hóa đạo, hành đạo Bồ tát, hành và nói chẳng trái nhau, tâm không mỏi
mệt cầu Vô thượng giác. Nếu được như thế mới được gọi là cúng dường chư
Phật, chẳng đem của cải mà vì cúng dường. Vì cớ sao? Vì Pháp
là thân Phật, nếu cúng dường pháp tức cúng dường Phật. Chư Phật Thế Tôn
đều như thật tu hành mà đến, đều vì làm lợi ích an vui hữu tình, hộ trì
thiện pháp, tùy thuận hữu tình. Nếu kẻ chẳng làm vậy, trái bản thệ nguyện,
lười nhác biếng trễ chẳng thể thành tựu tâm Bồ đề. Vì cớ sao? Vì Bồ tát
cầu tới Vô thượng Bồ đề chung cùng hữu tình, nếu không hữu tình làm sao
năng được Vô thượng Bồ đề? Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
tu hành Chánh pháp, cúng dường Như Lai gọi chơn cúng dường. Cúng dường như
thế nhổ bỏ ngã mạn, xa lìa việc tục. Cạo rơi râu tóc, đối với cha mẹ anh
em bà con nội ngoại chẳng còn quan hệ dính dự nhau nữa, giống như đã chết.
Hành trạng y phục, đều khác với thường. Cầm nắm bình bát đi vào thành ấp,
hoặc đến bà con xóm làng, nhà kẻ hàng thịt cũng dẹp ngã mạn thấp ý ăn xin,
rằng khởi nghĩ này: Mạng ta thuộc người, do kia thí cho ăn, giúp mạng ta
sống còn. Bởi nhân duyên này trừ được ngã mạn. Lại khởi
nghĩ này: Ta nay nên lấy ý Thầy bạn thảy khiến sanh vui mừng, xưa Pháp
chưa nghe vì được nghe vậy. Nếu thấy bị người khác giận dữ đấu tranh tức
nên nhẫn nhục thấp ý tránh đi. Bồ tát như thế nhổ bỏ được ngã mạn. Thiên
vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
sanh chánh tín bền vững. Vì cớ sao? Vì nhiều các công đức đã trồng đời
trước, sức mạnh căn lành, nhân lành đầy đủ, chánh kiến thành tựu, chẳng
tin duyên ngoài, trong tâm thanh tịnh, chẳng nương thầy khác, tâm hành
điều hòa ngay thẳng, xa lìa dối trá; các căn thông lanh, đầy đủ Bát nhã Ba
la mật đa, lìa các che ngăn, nơi tâm thanh tịnh; xa lìa bạn ác, gần kề bạn
lành, tìm tòi lời thiện, chẳng sanh lười biếng, nghe pháp nói ra biết công
đức Phật. Bấy giờ,
Tối Thắng bèn thưa Phật rằng: Cúi xin Ðấng Ðại Từ thương xót vì nói tướng
đại uy thần công đức Như Lai. Phật
bảo: Tối Thắng thiên vương! Ngươi nay lóng nghe khéo nghĩ, Ta sẽ vì ngươi
nói phần ít tướng uy thần công đức Phật. Tối Thắng thưa rằng: Dạ, xin nói
cho, chúng tôi muốn nghe. Phật
nói: Thiên vương! Như Lai đầy đủ vô biên đại từ khắp soi hữu tình, nhiếp
cõi hữu tình, cho đến mười phương hết cõi hư không cũng đều soi khắp,
chẳng thể đo lường. Ðại bi
Như Lai, Thanh văn, Ðộc Giác và các Bồ tát đều không có được. Vì cớ sao?
Vì pháp bất cộng vậy. Mười phương thế giới không một hữu tình đại bi Như
Lai chỗ chẳng năng soi. Như Lai
nói pháp vô tận rốt ráo, vì khắp các loại hữu tình mười phương lâu vô
lượng kiếp nhiều thứ nhân duyên nói các pháp yếu cũng chẳng thể hết được.
Nếu các thứ lời lẽ tất cả cú nghĩa cõi hữu tình nạn hỏi Như Lai trong một
gảy móng tay, mỗi mỗi hữu tình đều vì phân biệt, không ai hoại được, vì
Như Lai đã được vô ngại tĩnh lự, cảnh giới sâu thẳm không kẻ so lường
được. Giả sử
hữu tình tất cả thế giới đều trụ nơi mười bậc Bồ tát nhiều trăm ngàn kiếp
vào thắng đẳng trì, chẳng thể so lường cảnh định Như Lai. Thân Như
Lai lượng không ngằn mé. Vì cớ sao? Vì tùy chỗ muốn thấy, với trong một
niệm năng hiện vô biên thân các loại vậy. Thiên
nhãn Như Lai thanh tịnh hơn hết. Tất cả thế giới tất cả hữu tình sắc tướng
sai khác và các thứ vật loại món món chẳng đồng mà Như Lai đều thấy như
xem quả a ma lạc trong lòng bàn tay, thiên nhãn các người chẳng thể kịp
được. Thiên
nhĩ Như Lai thanh tịnh hơn hết. Tất cả hữu tình tiếng tăm sai khác và các
loại bao nhiêu tiếng tăm một niệm nghe hết, hiểu rõ ý nghĩa. Như Lai
lại có tịnh tha tâm trí, tất cả thế giới hữu tình mỗi mỗi suy nghĩ gây
nghiệp chịu quả sai khác vô biên, Phật bốn uy nghi đối trong một niệm thảy
chẳng đều biết. Vì cớ sao? Vì Phật thường ở trong định không tán loạn vậy. Thiên
vương phải biết: Phật không nghĩ lầm, tâm chẳng tán loạn, căn không duyên
khác. Vì cớ sao? Vì lìa thói quen phiền não, rất là thanh tịnh, vắng lặng
không bẩn. Kẻ có phiền não mất nhớ tán loạn, căn có duyên khác; Như Lai
Thế Tôn vô lậu lìa bẩn, đối được tất cả pháp tự tại bình đẳng, thường ở
đẳng trì và đẳng chí vậy. Như Lai
chỉ trụ một thứ uy nghi, dạo một đẳng trì cho đến viên tịch, các người
trời thảy hãy chẳng năng biết, huống lại Như Lai lâu vô lượng kiếp tu tập
vô lượng vô biên đẳng trì mà có người trời năng rõ biết được ư? Vì cớ sao?
Vì công đức Như Lai chẳng thể so lường, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể quán
vậy. Bấy giờ,
Tối Thắng bèn thưa Phật rằng: Tôi nghe Như Lai ba vô số kiếp tu hành thành
Phật, vì sao nay nói tu vô lượng kiếp? Phật
nói: Thiên vương! Nghĩa ấy chẳng phải vậy. Vì cớ sao? Vì Bồ tát cầu tới Vô
thượng Bồ đề vô lượng công đức mới được thành xong, chẳng phải chẳng trải
qua nơi kiếp số chừng ấy, mà năng chứng vào được lý pháp bình đẳng, tu đến
rốt ráo mới xứng thành Phật. Liền đấy
Tối Thắng thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Hay thay, hay thay! Khoái nói pháp yếu,
khéo năng khuyên phát cho tất cả hữu tình vun trồng căn lành, xa lìa
nghiệp chướng, vui muốn quả Phật, tu hạnh Bồ tát. Nếu các loài hữu tình
nghe uy thần công đức Như Lai tâm sanh vui mừng tin chịu khen ngợi, phải
biết chẳng lâu sẽ thành pháp khí uy thần công đức Phật. Huống lại có năng
thọ trì đọc tụng biên chép cúng dường, vì người giải nói, kia phải được
phước chẳng thể nghĩ bàn. Phật
nói: Thiên vương! Như vậy, như vậy. Loại hữu tình kia Như Lai hộ trì đã
trồng căn lành lâu nhiều kiếp số. Nếu ở quá khứ cúng dường nhiều Phật mới
được nghe uy thần công đức Phật. Thiên
vương phải biết: Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân tâm không nghi ngờ, ở
trong bảy ngày tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới tịnh, hoa hương cúng dường,
nhất tâm chánh niệm như trước đã nói công đức và đại uy thần Như Lai. Bấy
giờ Như Lai từ bi hộ niệm, hiện thân cho thấy, khiến nguyện đầy đủ. Nếu có
khuyết thiếu việc hương hoa thảy, chỉ một lòng nhớ công đức uy thần, khi
sắp mạng chung tất được thấy Phật. Bấy giờ,
Tối Thắng lại thưa Phật rằng: Vả có hữu tình nghe nói công đức và đại uy
thần Như Lai như thế chẳng khởi lòng tin mà hủy báng chăng? Phật
nói: Cũng có. Nghĩa là có hữu tình nghe nói pháp môn công đức uy thần Như
Lai như thế khởi tâm bất thiện, giận dữ hủy báng, đối Sư thuyêt pháp sanh
tưởng bạn ác. Kia sau bỏ mạng tất đọa địa ngục chịu khổ nhiều kiếp. Nếu
các hữu tình nghe nói công đức và đại uy thần Như Lai như thế vui mừng tín
thọ, đối Sư thuyết pháp sanh tưởng bạn lành, kia sau bỏ mạng định lên
người trời, lần hồi tiến hơn cho đến thành Phật. Bấy giờ,
Thế Tôn phóng tướng lưỡi rộng dài tự phủ diện luân, kế phủ đầu đỉnh, kế
phủ khắp thân, kế phủ tòa Sư tử, kế phủ chúng Bồ tát, kế phủ chúng Thanh
văn, nhiên hậu mới phủ Thích, Phạm hộ thế, người phi người thảy tất cả đại
chúng. Thu tướng lưỡi lại, bảo đại chúng rằng: Như Lai Thế Tôn có tướng
lưỡi này đâu phải vọng ngữ? Ðại chúng các người đối Ta đã nói ra, đều nên
tín thọ, đêm dài được yên vui. Khi
thuyết pháp này, trong chúng có tám muôn bốn ngàn Bồ tát được Vô sanh pháp
nhẫn. Vô lượng hữu tình xa trần lìa bẩn, sanh mắt tịnh pháp. Vô số hữu
tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.
Nguồn: www.quangduc.com