Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa
với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hoá ấy, các biến hoá
kia đều vô thật sắc, cũng vô thật thọ tưởng hành thức. Các biến hoá kia
đều vô thật nhãn xứ, cũng vô thật nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Các biến hoá kia
đều vô thật sắc xứ, cũng vô thật thanh hương vị xúc pháp xứ. Các biến hoá
kia đều vô thật nhãn giới, cũng vô thật nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Các biến
hoá kia đều vô thật sắc giới, cũng vô thật thanh hương vị xúc pháp giới.
Các biến hoá kia đều vô thật nhãn thức giới, cũng vô thật nhĩ tỷ thiệt
thân ý thức giới. Các biến hoá kia đều vô thật nhãn xúc, cũng vô thật nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc. Các biến hoá kia đều vô thật nhãn xúc làm duyên sanh
racác thọ, cũng vô thật nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Các biến hoá kia đều vô thật địa giới, cũng vô thật thủy hỏa phong không
thức giới. Các biến hoá kia đều vô thật nhân duyên, cũng vô thật đẳng vô
gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên . Các biến hoá kia đều vô
thật các pháp theo duyên sanh ra. Các biến hoá kia đều vô thật vô minh,
cũng vô thật hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh
lão tử sầu thán khổ ưu não. Các biến hoá kia đều vô thật pháp thế gian,
cũng vô thật pháp xuất thế gian. Các biến hoá kia đều vô thật pháp hữu
lậu, cũng vô thật pháp vô lậu. Các biến hoá kia đều vô thật pháp hữu vi,
cũng vô thật pháp vô vi. Các biến hoá kia đều vô thật pháp tạp nhiễm, cũng
vô thật pháp thanh tịnh. Các biến hoá kia đều vô thật luân hồi năm thú
sanh tử, cũng vô thật giải thoát năm thú sanh tử. Làm sao Bồ tát Ma ha tát
đối các hữu tình có dụng thắng sĩ? Phật bảo: Thiện Hiện! Ý ông
hiểu sao? Các Bồ tát Ma ha tát khi xưa hành đạo Bồ tát, vả thấy hưu tình
khá thoát địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, người, trời, các thú chăng? Thiện
Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Bạch Thiện Thệ! Chẳng thấy. Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Các Bồ tát Ma ha tát khi xưa hành đạo Bồ tát chẳng thấy hữu tình
khá thoát ba cõi. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả
pháp biết thấy thông suốt đều như huyễn hóa, đều chẳng phải có thật. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp biết thấy thông
suốt đều như huyễn hóa, đều chẳng có thật. Bồ tát Ma ha tát vì việc gì mà
tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật
đa? Vì việc gì mà tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định? Vì
việc gì mà tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,
năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi? Vì việc gì mà tu hành
không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn? Vì việc gì mà tu hành tám giải
thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ? Vì việc gì mà tu hành
tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn? Vì việc gì mà tu hành Cực hỷ
địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện
tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa? Vì
việc gì mà tu hành năm nhãn, sáu thần thông? Vì việc gì mà tu hành Phật
mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả
mười tám pháp Phật bất cộng? Vì việc gì mà tu hành pháp vô vong thất, tánh
hằng trụ xả? Vì việc gì mà tu hành nt nhất thiết trí, đạo rướng trí, nhất
thiết tướng trí? Vì việc gì mà tu hành tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát? Vì
việc gì mà tu hành chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Vì việc gì mà tu
hành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các
hữu tình đối tất cả pháp năng tự rõ biết đều như huyễn hóa, đều chẳng thật
có, thời Bồ tát Ma ha tát chẳng nên vô số kiếp vì các hữu tình hành đạo Bồ
tát. Bởi các hữu tình đối tất cả pháp tự chẳng năng biết đều như huyễn
hóa, đều chẳng phải thật có. Vậy nên, Bồ tát Ma ha tát ở vô số kiếp vì các
hữu tình hành đạo Bồ tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát
Ma ha tát đối tất cả pháp chẳng như thật biết đều như huyễn hóa, đều chẳng
thật có, thời chẳng ưng vô số kiếp, vì các hữu tình tu hạnh Bồ tát thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Vì Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp
như thật rõ biết đều như huyễn hóa, đều chẳng thật có, nên vô số kiếp vì
các hữu tình tu hạnh Bồ tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Nếu tất cả các pháp như mộng, như huyễn, như
vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như việc biến hóa, như thành
quách tầm hương, hữu tình được hóa trụ ở chổ nào? Các Bồ tát Ma ha tát
hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu cứu vớt khiến ra? Phật bảo: Thiện Hiện! Hữu tình
được hóa trụ ở danh tướng, hư dối phân biệt. Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu từ danh tướng hư dối phân biệt kia cứu vớt khiến
ra. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là danh? Sao gọi là tướng? Phật nói: Thiện Hiện! Danh đều
là khách, đều là giả lập, đều thuộc thi thiết. Nghĩa là đây danh sắc, đây
danh thọ thưởng hành thức. Đây danh nhãn xứ, đây danh nhĩ tỷ thiệt thân ý
xứ. Đây danh sắc xứ, đây danh thanh hương vị xúc pháp xứ. Đây danh nhãn
giới, đây danh nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Đây danh sắc giới, đây danh thanh
hương vị xúc pháp giới. Đây danh nhãn thức giới, đây danh nhĩ tỷ thiệt
thân ý thức giới. Đây danh nam, đây danh nữ. Đây danh tiểu, đây danh đại.
Đây danh địa ngục, đây danh bàng sanh, đây danh quỷ giới, đây danh người,
đây danh trời. Đây danh pháp thế gian, đây danh pháp xuất thế gian. Đây
danh pháp hữu lậu, đây danh pháp vô lậu. Đây danh pháp hữu vi, đây danh
pháp vô vi. Đây danh quả Dự lưu, đây danh quả Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, đây danh Độc giác Bồ đề. Đây danh tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Đây
danh chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Đây danh dị sanh, đây danh Thanh
văn, đây danh Độc giác, đây danh Bồ tát, đây danh Như Lai. Thiện Hiện! Tất cả danh nhu thế
thảy đều giả lập để nêu các nghĩa, thi thiết các danh, nên tất cả danh đều
chẳng thật có. Các pháp hữu vi cũng chỉ có danh. Do đây vô vi cũng chẳng
thật có, ngu phu dị sanh với trong vọng chấp. Bồ tát Ma ha tát khi hành
Bát nhã Ba la mật đa với phương tiện khéo léo dạy khiến xa lìa với các lời
như sau: Danh là do phân biệt vọng tưởng khởi ra, cũng là các duyên hòa
hợp giả lập. Các ngươi chẳng nên với trong chấp trướcdanh vô thật sự, tự
tánh là không. Chẳng phải kẻ có trí chấp trước không pháp. Như vậy, Thiện
Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, phương tiện
khéo léo vì các hữu tình thuyết pháp lìa danh. Thiện Hiện! Đấy gọi là
danh. Sao gọi là tướng? Thiện Hiện!
Tướng có hai thứ, ngu phu dị sanh với trong ấy chấp đắm. Những gì là hai?
Một là sắc tướng, hai là vô sắc tướng. Sao gọi làsắc tướng? Thiện
Hiện! Các sắc sở hữu hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc nội,
hoặc ngoại, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thắng, hoặc liệt, hoặc xa, hoặc gần,
với trong các không pháp giây lát ngắn đây, ngu phu dị sanh phân biệt chấp
đắm, đấy gọi sắc tướng. Sao gọi làvô sắc tướng? Thiện
Hiện! Nhgĩa là trong các pháp sở hữu vô sắc, ngu phu dị sanh phân biệt
chấp đắm lấy tướng sanh các phiền não, đây gọi là vô sắc tướng. Bồ tát Ma ha tát khi hánh Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, phương tiện khéo léo dạy các hữu tình xa lìa
hai tướng ấy, lại dạy an trụ trong cõi vô tướng. Dù dạy an trụ trong cõi
vô tướng mà chẳng cho kia trụ chấp hai bên, rằng đây là tướng, đây là vô
tướng. Như vậy, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa
thẳm sâu, phương tiện khéo léo khiến các hữu tình xa lìa các tướng trụ cõi
vô tướng mà chẳng chấp đắm. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp chỉ có danh tướng, bấy nhiêu
danh tướng đều là giả lập phân biệt khởi ra, tánh chẳng thật có, làm sao
Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối các thiện pháp
năng tự tăng tiến, cũng năng khiến người tăng tiến thiện pháp. Do thiện
pháp mình được tăng tiến mới năng khiến các địa lần lữa tăng tiến viên
mãn, cũng năng an lập các loại hữu tình, tùy kia sở ưng được quả tam thừa. Phật nói: Thiện Hiện! Nếu trong
các pháp có chút thật sự, chẳng chỉ giả lập các danh tướng ấy, thời Bồ tát
Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu lẽ đối thiện pháp chảng
tự tăng tiến được, cũng chẳng khiến người tăng tiến thiện pháp. Thiện
Hiện! Vì trong các pháp không chút thật sự, chỉ có giả lập các danh và
tướng. Vậy nên, Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu,
đem vô tướng làm phương tiện năng viên mãn bát nhã Ba la mật đa. Đem vô
tướng làm phương tiện năng viên mãn tĩnh lự Ba la mật đa.đem vô tướng làm
phương tiện năng viên mãn tịnh tiến Ba la mật đa. Đem vô tướng làm phương
tiện năng viên mãn an nhẫn Ba la mật đa. Đem vô tướng làm phương tiện năng
viên mãn tịnh giới Ba la mật đa. Đem vô tướng làm phương tiện năng viên
mãn bố thí la mật đa. Đem vô tướng làm phương tiện năng viên mãn bốn
tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Đem vô tướng làm phương tiện năng
viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy
đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Đem vô tướng làm phương tiện năng viên
mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Đem vô tướng làm phương
tiện năng viên mãn nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô thế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Đem vô tướng làm phương tiện năng
viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Đem vô tướng làm phương
tiện năng viên mãn khổ tập diệt đạo thánh đế. Đem vô tướng làm phương tiện
năng viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ. Đem vô tướng làm phương tiện năng viên mãn tất cả đà la ni môn, tất cả
tam ma địa môn. Đem vô tướng làm phương tiện năng viên mãn Cực hỷ địa, Ly
cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa,
Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Đem vô tướng làm
phương tiện năng viên mãn năm nhãn, sáu thần thông. Đem vô tướng làm
phương tiện năng viên mãn Phật mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải,
đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Đem vô tướng
làm phương tiện năng viên mãn pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xa. Đem vô
tướng làm phương tiện năng viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí. Đem vô tướng làm phương tiện năng viên mãn đối các thiện
pháp, cũng năng khiến người viên mãn thiện pháp. Như vậy, Thiện Hiện! Vì
tất cả các pháp không chút thật sựﬠchỉ có giả lập các danh và tướng. Các
Bồ tát Ma ha tát với trong đó chẳng khởi điên đảo chấp trước, đối các
thiện pháp năng tự tăng tiến, cũng năng khiến người tăng trưởng thiện
pháp. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu trong
các pháp có tướng thật pháp lượng chừng đầu lông ấy, thời Bồ tát Ma ha tát
khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, dt đối tất cả pháp chẳng ưng giác
biết vô tướng, vô niệm, cũng vô tác ý, vô lậu tánh rồi, chứng được Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề, an lập hữu tình nơi pháp vô lậu. Vì sao? Thiện
Hiện! Vì các pháp vô lậu đều vô tướng, vô niệm, vô tác ý vậy. Như vậy,
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, an
lập hữu tình nơi pháp vô lậu mới gọi là chơn thật nhiêu ích cho người. Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa
với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp thật tánh vô lậu, vô
tướng, vô niệm, cũng vô tác ý. Duyên nào Thế Tôn thường nói như vầy: Đây
là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu lậu, đây là
pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; đây là pháp hữu tội,
đây là pháp vô tội; đây là pháp hữu tranh, đây là pháp vô tranh; đây là
pháp lưu chuyển, đây là pháp hoàn diệt; đây là pháp cộng, đây là pháp bất
cộng; đây là pháp Thanh văn, đây là pháp Độc giác; đây là pháp Bồ tát, đây
là pháp Như Lai ư? Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Pháp thế gian thảy cùng vô tướng thảy vô lậu pháp tánh hãy có
khác chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng khác. Bạch Thiện Thệ!
Chẳng khác. Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Pháp Thanh văn thảy cùng vô tướng thảy vô lậu pháp tánh hãy có
khác chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng khác Bạch Thiện Thệ!
Chẳng khác. Phật bảo: Thiện Hiện! Pháp thế
gian thảy đâu chẳng tức là vô tướng niệm thảy vô lậu pháp tánh? Thiện Hiện
đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy. Bạch Thiện Thệ! Như vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Hoặc quả
Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, pháp Bồ tát Ma ha
tát, hoặc chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đâu chẳng tức vô tướng niệm
thảy vô lậu pháp tánh? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy. Bạch
Thiện Thệ! Như vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Do nhân
duyên đây nên biết tất cả pháp đều là vô tướng thảy. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
khi học tất cả pháp đều là vô tướng, vô niệm, vô tác ý thường hay tăng ích
thiện pháp sở hành. Chỗ gọi bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa. Hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy
đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Hoặc nội không, ngoại không, nội ngoại
không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi
không, tất cánh không, vô thế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh
không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả
đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Hoặc chơn
như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng
tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư
nghì giới. Hoặc khổ tập diệt đạo thánh đế. Hoặc không, vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ. Hoặc tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn. Hoặc Cực hỷ địa,
Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền
địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Hoặc năm
nhãn, sáu thần thông. Hoặc Phật mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải,
mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. hoặc nhất thiết trí, đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí. Các pháp như thế thảy đều là Phật pháp, đều do vô
học, vô tướng, vô niệm, vô tác ý mà được tăng ích. Vì sao? Thiện Hiện! Bồ
tát Ma ha tát ngoại trừ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn lại
không còn pháp yếu nào Bồ tát Ma ha tát cần phải học. Vì sao? Thiện Hiện!
Vì ba môn thoát năng nhiếp tất cả diệu thiện pháp vậy. Vì cớ sao? Thiện
Hiện! Không giải thoát môn quán tất cả pháp tự tướng đều không. Vô tướng
giải thoát môn quán tất cả pháp xa lìa các tướng. Vô nguyện giải thoát môn
quán tất cả phápxa lìa sở nguyện. Do ba môn trên đây năng nhiếp tất cả
thiện pháp thù thắng; lìa ba môn trên đây, chỗ đáng tu tập thiện pháp thù
thắng chẳng sanh trưởng vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát
Ma ha tát năng học ba giải thoát môn như thế thờinăng học năm uẩn, cũng
năng học mười hai xứ. Cũng năng học mười tám giới. Cũng năng học sáu giới.
Cũng năng học bốn thánh đế. Cũng năng học bốn duyên. Cũng năng học các
pháp theo duyên sanh ra. Cũng năng học mười hai duyên khởi. Cũng năng học
nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng
nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thế không, tán
không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không,
nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô
tánh tự tánh không. Cũng năng học chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư
vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Cũng năng học bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo, diệu
nguyện, lực trí Ba la mật đa. Cũng năng học Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát
quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa,
Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Cũng năng học bốn niệm trụ, bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi. Cũng năng học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng
năng học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Cũng năng học tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn. Cũng năng học
năm nhãn, sáu thần thông. Cũng năng học Như Lai mười lực, bốn vô sở uý,
bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng. Cũng năng học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng năng học nt
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng năng học thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Cũng năng học bao nhiêu vô lượng vô
biên Phật pháp. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa năng học năm uẩn? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật biết sắc thọ tưởng hành thức đấy là
năng học năm uẩn. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc? Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc tướng,
như thật biết sắc sanh, như thật biết sắc diệt, như thật biết sắc chơn
như. Đấy là như thật biết sắc. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc tướng? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc có
lỗ rốt ráo, có hở rốt ráo, giống như nước bọt tánh chẳng bền chắc. Thiện
Hiện! Đấy gọi là như thật biết sắc tướng. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc sanh? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
sanh pháp. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết sắc sanh. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc diệt? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
pháp diệt. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết sắc diệt. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc chơn như. Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
sắc chơn như vô sanh vô diệt, vô lai vô khứ, vô nhiễm vô tịnh, vô tăng vô
giảm, thường như tánh nó chẳng hư dối, chẳng biến đổi nên gọi là chơn như.
Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết sắc chơn như. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ? Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ tướng,
như thật biết thọ sanh, như thật biết thọ diệt, như thật biết thọ chơn
như. Đấy là như thật biết thọ. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ tướng? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ
rốt ráo như ung thư, rốt ráo như mũi tên, giống như bọt nổi, hư ngụy chẳng
thật, chóng sanh, chóng diệt. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết thọ
tướng. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ sanh? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
sanh pháp. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết thọ sanh. Thiện Hiện! Sao gọi là Bồ tát
Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ diệt? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
thọ đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
thọ diệt. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết thọ diệt. Thiện Hiện! Sao gọi là Bồ tát
Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thọ chơn như?
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật
biết thọ chơn như vô sanh vô diệt, vô lai vô khứ, vô nhiễm vô tịnh, vô
tăng vô giảm, thường như tánh no,ẳng hư dối, chẳng biến đổi, nên gọi là
chơn như. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết thọ chơn như. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng? Thiện Hiện! Nếu
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng
tướng, như thật biết tưởng sanh, như thật biết tưởng diệt, như thật biết
tưởng chơn như. Đấy là như thật biết tưởng. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng tướng? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
tưởng giống như ánh nắng, nước chẳng thể được, khát ái dối gạt mà khởi
tưởng này, giả thi thiết có, phát lời nói giả. Thiện Hiện! Đấy gọi là như
thật biết tưởng tướng. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng sanh? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
sanh pháp. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết tưởng sanh. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng diệt? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
pháp diệt. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết tưởng diệt. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tưởng chơn như? Thiện
Hiện! Nếy Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
tưởng chơn như vô sanh vô diệt, vô lai vô khứ, vô nhiễm vô tịnh, vô tăng
vô giảm, thường như tánh nó chẳng hư dối, chẳng biến đổi nên gọi chơn như.
Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết tưởng chơn như. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành? Thiện Hiện! Nếu
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành
tướng, như thật biết hành sanh, như thật biết hành diệt, như thật biết
hành chơn như. Đấy là như thật biết hành. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành tướng? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành
giống như cây chuối, lột bỏ từng bẹ riêng thật chẳng thể được, minh vô
minh thảy các duyên làm thành, nghiệp phiền não thảy các duyên tạo thành
giả lập. Thiện Hiện! Đấy là như thật biết hành tướng. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành sanh? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
sanh pháp. Thiện Hiện! Đấy là như thật biết hành sanh. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành diệt? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
pháp diệt. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết hành diệt. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết hành chơn như? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
hành chơn như vô sanh vô diệt, vô lai vô khứ, vô nhiễm vô tịnh, vô tăng vô
giảm, thường như tánh nó, chẳng hư dối, chẳng biến đổi, nên gọi chơn như.
Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết hành chơn như. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức? Thiện Hiện! Nếu
Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức
tướng, như thật biết thức sanh , như thật biết thức diệt, như thật biết
thức chơn như. Đấy gọi là như thật biết thức. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức tướng? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức
như việc huyễn, các duyên hòa hợp, giả thi thiết có thật chẳng khá được.
Nghĩa là như huyễn sư hoặc đệ tử của y nơi ngã tư đường, huyễn làm bốn
quân, đó là tượng quân, mã quân, xa quân, bộ quân. Hoặc huyễn làm các thứ
sắc loại, tướng tuy giống như có, mà không nơi thật. Thức cũng giống như
vậy, thật chẳng có được. Thiện Hiện! Đấy là như thật biết thức tướng. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức sanh? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức
đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
sanh pháp. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết thức sanh. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức diệt? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức
không đến từ đâu, đi không chỗ đến. Dù không đến không đi mà tương ưng
pháp diệt. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết thức diệt. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết thức chơn như ? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
thức chơn như vô sanh vô diệt, vô lai vô khứ, vô nhiễm vô tịnh, vô tăng vô
giảm, thường như tánh no,ẳng hư dối, chẳng biến đổi nên gọi là chơn như.
Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết thức chơn như. Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát
Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sắc, tự tánh sắc
không. Như thật biết thọ, tự tánh thọ không. Như thật biết tưởng, tự tánh
tưởng không. Như thật biết hành, tự tánh hành không. Như thật biết thức,
tự tánh thức không. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát
nhã Ba la mật đa năng học năm uẩn. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học mười hai xứ? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết nhãn xứ, tự
tánh nhãn xứ không. Như thật biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xứﬠtự tánh nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ không. Như thật biết sắc xứ, tự tánh sắc xứ không. Như
thật biết thanh hương vị xúc pháp xứ, tự tánh thanh hương vị xúc pháp xứ
không. Như thật biết nội xứ, tự tánh nội xứ không. Như thật biết ngoại xứ,
tự tánh ngoại xứ không. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành
Bát nhã Ba la mật đa năng học mười hai xứ. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học mười tám giới? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết nhạn giới,tự
tánh nhạn giới không;như thật biết sắc giới,nhãn thức giới và nhãn xúc,
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, tự tánh sắc giới cho đến nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ không. Như thật biết nhĩ giới, tự tánh nhĩ giới
không; như thật biết thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm
duyên sanh ra các thọ, tự tánhthanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra
các thọ không. Như thật biết tỷ giới, tự tánh tỷ giới không; như thật biết
hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, tự
tánh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ không. Như thật
biết thiệt giới, tự tánh thiệt giới không; như thật biết vị giới, thiệt
thức vị giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, tự tánh vị
giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ không. Như thật biết thân
giới, tự tánh thân giới không; như thật biết xúc giới, thân thức giới và
thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, tu tánh xúc giới cho đến
thân xúc làm duyên sanh ra các thọ không. Như thật biết ý giới, tự tánh ý
giới không; như thật biết pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ, tự tánh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ
không. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học mười tám giới. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng họcsáu giới? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết địa giới, tự tánh địa giới không.
Như thật biết thủy hỏa phong không thức giới, tự tánh thủy hỏa phong không
thức giới không. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã
Ba la mật đa năng học sáu giới. Cụ thọ Thiện Hiện thưa với Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học bốn thánh đế? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết khổ thánh đế,
như thật biết đạo thánh đế, như thật biết tập thánh đế, như thật biết diệt
thánh đế. Đấy là năng học bốn thánh đế. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết khổ thánh đế? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
khổ là tướng bức ngặt, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là lý chắc kẻ
thánh. Khổ tức chơn như, chơn như tức khổ, không hai không khác, duy kẻ
chơn thánh năng như thật biết. Thiện Hiện! Đấy là như thật biết khổ thánh
đế. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tập thánh đế? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
tập là tướng sanh khởi, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là lý chắc kẻ
thánh. Tập tức là chơn như, chơn như tức là tập, không hai không khác, duy
kẻ chơn thánh năng như thật biết. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết tập
thánh đế. Thiện Hiện! Sao là như thật
biết diệt thánh đế? Thiện Hiện! Nếu là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát
nhã Ba la mật đa như thật biết diệt là tướng vắng lặng, tự tánh vốn không,
xa lìa hai pháp, là lý chắc kẻ thánh. Diệt tức chơn như, chơn như tức
diệt, không hai không khác, duy kẻ chơn thánh năng như thật biết. Thiện
Hiện! Đấy gọi là như thật biết diệt thánh đế. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết đạo thánh đế? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
đạo là tướng xuất ly, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là lý chắc kẻ
thánh. Đạo tức chơn như, chơn như tức đạo, không hai không khác, duy kẻ
chơn thánh năng như thật biết. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết đạo
thánh đế. Thiện Hiện! Dấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật đa năng học bốn thánh đế. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học bốn duyên? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết nhân duyên,
như thật biết đẳng vô gián duyên, như thật biết sở duyên duyên, như thật
biết tăng thượng duyên. Đấy là năng học bốn duyên. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết nhân duyên? Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết nhân
duyên là tướng chung tử, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp.Thiện Hiện!
Đấy gọi là như thật biết nhân duyên. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết đẳng vô gián duyên?
Thiện Hiện! Nếu là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như
thật biết đẳng vô gián duyên là tướng khai phát, tự tánh vốn không, xa lìa
hai pháp. Thiện Hiện! Đấy gọi là Bồ tát Ma ha tát như thật biết đẳng vô
gián duyên. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết sở duyên duyên? Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết
sở duyên duyên là tướng trụ trì, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp. Thiện
Hiện! Đấy gọi là như thật biết sở duyên duyên. Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tăng thượng duyên?
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật
biết tướng tăng thượng duyên là tướng vô ngại, tự tánh vốn không, xa lìa
hai pháp. Thiện Hiện! Đấy gọi là như thật biết tăng thượng duyên. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật học bốn duyên. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học các pháp theo duyên sanh ra? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết tất cả các
pháp theo duyên sanh ra, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng đoạn chẳng thường,
chẳng nhất chẳng dị, chẳng đến chẳng đi, tuyệt hết hý luận, bản tánh yên
lặng. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa
năng học các pháp theo duyên sanh ra. Cụ thọ Thiện Hiện thưa với Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học mười hai nhân duyên? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết vô minh, vô
sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp. Như
thật biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão
tử sầu thán khổ ưu não vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, tự tánh vốn
không, xa lìa hai pháp. Thiện Hiện! Đây là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành
Bát nhã Ba la mật đa năng học mười hai duyên khởi. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô
thế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết nội không vô
tự tánh chẳng khá dược, mà năng an trụ. Như thật biết ngoại không cho đến
vô tánh tự tánh không vô tự tánh, chẳng khá được, mà năng an trụ. Thiện
Hiện! Đây là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa năng học
nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cụ thọ Thiện Hiện thưa với Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa năng học chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị
tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không
giới, bất tư nghì giới? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết chơn như
không hý luận, không phân biệt, mà năng an trụ. Như thật biết giới cho đến
bất tư nghì giới không hý luận, không phân biệt, mà năng an trụ. Thiện
Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa năng học
chơn như cho đến bất tư nghì giới.