Thực vậy, tâm là một vấn đề không đơn
giản. Không như cái hiểu thông thường của nhiều người quan niệm.
Nếu không phải đệ tử Phật dùi mài trong giáo lý, thiền quán
để tư duy thì người ta khó có thể hiểu được thế nào là:
- Chân tâm
- Vọng tâm
- Tích tập tâm
- Tập khởi tâm
- Duyên lự tâm
- Tích tụ tinh yếu tâm
- Nhục đoàn tâm
- Tâm Vương
- Tâm Sở
Cho nên muốn hiểu đượcv tâm, cần có quá
trình học Phật và dụng công tu tập tư duy. Tâm là căn bản của Bồ
Đề, Niết Bàn nếu khéo vận dụng sống theo con đường chánh pháp;
trái lại tâm là nguồn gốc của luân hồi sanh tử; nếu "đánh
mất" hoặc không phát hiện được cái chơn tâm thường trú
sẵn có của mình.
Đạo Phật, cũng như nền giáo lý Phật, xem
trọng, rất trọng giá trị của tâm trong nghĩa tâm tánh của con
người. Muốn sử dụng tốt cái tâm đó cần phải dụng công tu tập
giới, định, tuệ để thân chứng. Nói đến sự tu tập phải đúng
chánh pháp, không khéo ý những mong vẻ cọp, nhưng kết quả lại là
con chó vện khẳng khiu ! Bởi vì người ta rất dễ lầm tâm
Sự
thấy nghe hiểu biết, sự ưa muốn, sự ghét thương
Những tác
dụng tâm lý đó, nó không rời tâm, nhưng nó không phải chơn
tâm, nó là vọng tưởng, là cái bóng dáng còn sót lại của tiền
trần, của "ngũ câu ý thức" (là pháp trần vậy).
Người khéo biết tu tập sẽ có được chân
tâm thường trú hiện ở cõi đời nầy. Phật chỉ là một người,
nhưng có khác với nhiều người ở chỗ: Phật sống bằng chơn tâm
thường trú ấy. Thế cho nên biết rằng: Chân tâm thường trú
không phải là cái gì xa rời thực tế. Nó là cái dữ kiện căn
bản đem lại sự giải thoát giác ngộ cho con người khi người có
biết sử dụng đến, phát hiện ra Chơn Tâm Thường Trú Của Mình.
*
* *
ÔNG
A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở TRONG THÂN(^)
Ông
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Không riêng gì tôi mà tất cả mọi
người trên thế gian đều cho cái tâm hiểu biết ở trong thân, còn
con mắt thì ở trên mặt.
Phật
bảo: A-Nan ! Ông nói rằng tâm hiểu biết ở trong thân là không có
lý. A-Nan ! Nay tôi hỏi ông: Phỏng có chúng sanh nào ngồi trong giảng
đường nầy mà không thấy không biết Như Lai và đại chúng mà
lại thấy biết mọi vật bên ngoài giảng đường không ?
-
Bạch Thế Tôn ! Không thể có sự việc như thế được. Nếu ngồi
trong giảng đường, trước hết phải thấy biết trong giảng đường,
rồi sau nhìn ra cửa mới thấy biết cảnh vật bên ngoài.
-
Thật vậy, A-Nan ! Ở trong giảng đường, trước hết phải thấy bên
trong, nhìn ra cửa mới thấy biết hoa lá vườn rừng, sự vật bên
ngoài. Nhưng theo lời ông nói: Cái tâm hiểu biết ở trong thân thì
lẽ ra khi người bị bệnh thổ huyết, cái tâm phải biết gốc bệnh
xuất huyết do tỳ, phế hay viêm loét dạ dày. Nầy, A-Nan ! Mọi người
trên thế gian không một ai biết được gốc bệnh của mình như vậy.
A-Nan
! Người ngồi trong giảng đường mà không thấy biết Như Lai và
đại chúng, lại thấy biết mọi việc bên ngoài đã là vô lý thì
cái tâm hiểu biết ở trong thân mà không hiểu biết thương tật
của tâm cang tỳ phế thận, lại biết rõ hết trần cảnh bên ngoài,
hai sự kiện này đều vô lý như nhau !
Thế
cho nên ông nói Tâm Ở Trong Thân là không đúng lý.
*
* *
ÔNG
A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở NGOÀI THÂN(^)
Ông
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Vừa nghe lời Phật dạy, tôi nghĩ ra rằng:
Tâm tôi thiệt ở ngoài thân. Bởi vì tất cả mọi người không ai
thấy biết bên trong thân, ví như ngọn đèn để ở ngoài phòng thì
chỉ sáng bên ngoài mà không thể sáng bên trong phòng được. Bạch
Thế Tôn ! Nghĩa nầy thật quá rõ ràng chắc không còn lầm nữa !
Phật
bảo: A-Nan ! Vừa rồi tôi và đại chúng cùng đi khất thực trong
thành Thất La Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Vậy ông hãy xem trong
các hàng tỳ kheo, khi một người ăn, các người khác có no không ?
-
Bạch Thế Tôn ! Không. Dù các tỳ kheo là A La Hớn, nhưng thân thể
khác nhau, không thể người nầy ăn mà người khác no được.
-
Cũng vậy, A-Nan ! Nếu cái tâm hiểu biết của ông ở ngoài thân thì
thân và tâm riêng cách, tất không dính líu gì nhau. Vậy cái gì tâm
biết thì thân không thể biết, cái gì thân biết thì tâm không thể
biết. Thế mà, này A-Nan ! Khi tôi đưa tay tôi lên cho ông xem, mắt
ông vừa thấy thì tâm ông liền biết. Thân tâm biết cùng một lúc
với nhau, thì sao lại bảo là tâm ở ngoài thân cho được.
Vậy
nên biết rằng: Ông nói tâm hiểu biết ở ngoài thân, hẳn là
không phải vậy.
*
* *
ÔNG
A-NAN CHO RẰNG TÂM NÚP SAU CON MẮT(^)
Ông
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Như lời Phật dạy: Vì không biết trong, cho
nên tâm không phải ở trong thân. Vì thân tâm cùng biết nên không
phải tâm ở ngoài thân. Nay tôi suy nghĩ: Cái tâm hiểu biết đã
không biết bên trong mà lại nhận biết rõ sự vật bên ngoài, vậy
là nó núp sau con mắt, ví như người lấy chén thủy tinh úp vào hai
con mắt, con mắt dù có vật úp vào, nhưng không làm ngăn ngại sự
thấy. Và vì tâm núp sau con mắt nên khi mắt thấy thì tâm liền phân
biệt. Sở dĩ tâm không biết tạng phủ trong thân, vì nó không ở
trong thân; nhưng tâm lại nhận biết cảnh vật bên ngoài, vì nó ở
trên cái mặt.
Phật
bảo: A-Nan ! Ông nên nhớ rằng: Con mắt núp sau chén thủy tinh như
lời ông nói, thì khi ông trông thấy núi sông cảnh vật, đồng
thời cũng trông thấy chén thủy tinh. Nếu tâm núp sau con mắt, thì
khi nhận thấy núi sông cảnh vật lúc đó cũng phải nhận thấy con
mắt. Nầy, A-Nan ! Thực tế không phải vậy, khi ông nhận biết núi
sông cảnh vật, tâm ông không nhận biết được con mắt của ông.
Do
đó, biết rằng: Ông nói cái tâm núp sau con mắt, như con mắt núp
sau chén thủy tinh là không hợp lý.
*
* *
ÔNG
A-NAN CHO RẰNG NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ TÂM THẤY TRONG THÂN(^)
Ông
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Giờ đây tôi suy nghĩ thế nầy: Thân thể
con người trong có ngũ tạng lục phủ, ngoài có thất khiếu cửu
huyệt. Tạng phủ có tánh che ngăn nên tối, khiếu huyệt có tánh
rỗng không nên sáng. Nay tôi xin thưa với Phật rằng: Nhắm mắt thấy
tối, tôi gọi là tâm thấy biết bên trong thân; mở mắt thấy sáng,
gọi là tâm thấy biết bên ngoài.
Phật
bảo: A-Nan ! Đã gọi là thấy thì cái bị thấy phải "đối"
ở trước mắt. Không "đối" trước mắt thì cái nghĩa thấy
không còn.
Nếu
cái tối đã đối trước mắt mà cứ cho là thấy biết trong thân,
vậy khi ở trong một phòng tối, không có ánh sáng, bấy giờ cái
gì có ở trong phòng tối ấy đều là tạng phủ của ông cả hay sao ?
Vả
lại khi nhắm mắt thấy tối, ông cho là thấy bên trong thân, vậy khi
mở mắt thấy sáng, sao ông không thấy cái mặt ?
Đã
không thấy mặt thì không thể nói con mắt đối vào trong mà thấy.
Còn như thấy được mặt thì cái tâm và con mắt ắt đã lơ lững
giữa hư không rồi, còn tương quan gì đến ông nữa ?
Vậy
nên biết rằng: Nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân, chỉ là một
ngụy thuyết không thành lập được.
*
* *
ÔNG
A-NAN CHO RẰNG SỰ SUY NGHĨ HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ TÂM LIỀN CÓ Ở
CHỖ ĐÓ(^)
Ông
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi thường nghe Phật dạy tứ chúng: Rằng
tâm sanh nên các pháp sanh, các pháp sanh nên tâm sanh. Nay tôi suy
nghĩ thì sự suy nghĩ đó là tâm của tôi. Nó hợp với chỗ nào,
tâm liền có ở chỗ đó, nó không ở trong, ở ngoài hay ở chặng
giữa.
Phật
bảo: A-Nan ! Ông cho sự suy nghĩ là tâm, sự suy nghĩ hợp chỗ nào,
tâm liền ở chỗ đó. Nay tôi hỏi ông: Cái tâm có suy nghĩ hòa
hợp sanh ra, vậy nó có tự thể hay không ? Nếu nó không tự thể
thì không thể hợp được với cái gì. Cũng như giới thứ 19 và
trần thứ 7 thì làm gì có chuyện hợp nhau ? Bảo rằng nó có tự
thể, vậy ông thử thí nghiệm: Lấy tay gãi vai, rồi để ý xem cái
tâm "biết đã ngứa", nó từ trong thân ông ra hay từ bên
ngoài chạy vào ? Nếu từ trong thân ra thì nó phải biết ngũ tạng
lục phủ trong thân ông, nếu từ ngoài vào thì trước hết nó phải
thấy biết cái mặt.
Vả
lại, tự thể ấy là một hay là nhiều ? Nó khắp thân hay chẳng
khắp thân ?
Nếu
tự thể có một, khi lấy tay gãi một chỗ, lẽ ra khắp mình đều đã
ngứa. Nếu biết đã ngứa khắp mình thì lại không còn biết gãi
chỗ nào ! Còn như nhiều tự thể thì hóa ra của nhiều người, còn
biết tự thể nào là thể của ông ?
Bảo
rằng tự thể khắp mình thì không còn biết được chỗ gãi
Bảo
rằng không khắp mình, tại sao khi đầu chạm xà nhà, dưới chân
đạp đinh lại cùng một lúc biết đau ?
Do
vậy, bảo rằng: Sự suy nghĩ hợp chỗ nào, tâm ở chỗ đó là
không có lý.
*
* *
ÔNG
A-NAN CHO RẰNG TÂM Ở CHẶNG GIỮA(^)
Ông
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi nhớ lại có lần nghe Phật dạy Bồ
Tát Văn Thù về nghĩa thật tướng: Rằng tâm không ở trong cũng
không ở ngoài. Nay tôi suy nghĩ: Nếu tâm ở trong thân sao lại không
biết bên trong, tâm nếu ở ngoài thân sao thân tâm đồng biết. Tâm
không biết bên trong nên không thể nói trong thân. Thân và tâm
đồng biết nên không thể nói tâm ở ngoài thân. Do lẽ đó, tôi
phát minh rằng: Tâm ở chặng giữa.
Phật
bảo: A-Nan ! Ông nói chặng giữa, thật khó mà nêu một chặng giữa
nhất định. Giữa thân hay giữa cảnh ? Nếu giữa thân thì đồng như
tâm ở trong thân. Bảo rằng: giữa cảnh thì làm sao nêu cái giữa
ra được ? Ví như có người lấy một cành cây cắm nêu làm một
chỗ giữa, nhưng giữa thế nào được ? Nếu người đứng ở
phương Đông thì thấy cây nêu ở phía Tây; đứng ở phương Nam
lại thấy cây nêu thuộc về hướng Bắc. Cái giữa đã lẫn lộn
như thế, thì cái tâm ở chặng giữa rắc rối bời rời thì làm
thế nào nhận biết được sự vật cho chính xác ?
Ông
A-Nan thưa: Tôi nói chặng giữa là giữa nhãn căn và sắc trần,
nhãn thức sanh ra ở chặng giữa ấy.
Phật
bảo: Nếu tâm ông ở giữa nhãn căn và sắc trần, vậy cái tâm
giữa ấy có gồm cả hai hay không gồm cả hai ? Nếu gồm cả hai thì
vật và tâm xen lộn lẫn nhau, còn biết cái gì là tâm cái gì là
vật ? Và đã lộn lạo với nhau thì không có cái giữa. Còn như
không gồm cả hai bên thì là một. Đã là một bên thì cái chặng
giữa ông định đặt nó vào đâu ?
Vì
vậy, biết rằng: Ông nói tâm ở chặng giữa là một điều không
hợp lý.
*
* *
ÔNG
A-NAN CHO RẰNG TÂM LÀ CÁI KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU CẢ(^)
Ông
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Tôi nhớ trước đây có lần Phật chuyển
pháp luân cùng bốn đại đệ tử: Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú
Lâu Na và Xá Lợi Phất, khi đó Phật dạy: Cái tâm tánh hiểu biết
nó không ở trong, không ở ngoài, không có chặng giữa và không
chỗ trụ, tất cả không dính dáng.
Bạch
Thế Tôn ! Nay tôi lấy cái không dính dáng ấy gọi là tâm có
được không ?
Phật
bảo: A-Nan ! Ông nói cái tâm hiểu biết của ông không dính dáng,
vậy tôi hỏi ông: Biển cả, đất liền, núi rừng, hoa, cỏ
nói
chung mọi sự vật hiện tượng trên thế gian mà ông cho là không
dính dáng, chúng có hay là không có ? Nếu chúng là không, thì ông
khỏi đề cập: Rằng dính dáng hay không dính dáng. Bởi vì có ai dính
với chuyện lông rùa sừng thỏ bao giờ ! Nếu đã có cái
"không dính dáng" thì không thể nói sự vật hiện tượng
là không. Đã không phải không thì có tướng. Đã có tướng thì
có dính dáng, làm sao không dính dáng được ?
Vậy
nên biết rằng: Ông nói cái không dính dáng là tâm, lại càng
không hợp lý.
*
* *
TRỰC CHỈ
Cho rằng tâm ở trong thân, đó là sự hiểu
biết thông thường mọi người cùng hiểu giản đơn như vậy. Cho
rằng tâm ở ngoài thân là một ý nghĩ táo bạo lạ thường chẳng
mất ai đồng tình, còn có thể bị cho là ngờ nghệch ! Cho rằng tâm
núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén thủy tinh
Rằng tâm bị
tạng phủ che thì tối, khiếu huyệt mở thì sáng
thực chất là
chủ trương tâm ở trong thân bằng hình thức lý luận khác. Bảo
rằng cái suy nghĩ là tâm, thực chất là trở lại chấp: Tâm ở
ngoài thân vậy. Rằng tâm ở chặng giữa điều này nói lên sự
bí lối, chạy càng !
Bảo rằng: Tâm là cái không dính dáng,
càng chứng tỏ lý cùng trí kiệt, chỉ hy vọng chút ánh sáng mơ
màng ở cuối đường hầm lý giải.
Ông A Nan được Phật khen là đa văn đệ
nhất, vậy mà qua bảy chỗ gạn hỏi cái tâm, lý đã cùng, trí đã
kiệt, vẫn chưa xác định được tâm là cái gì và hiện ở đâu.
Là đệ tử Phật, ai nghe mà chẳng băn khoăn soát lại tâm mình, ai
mà chẳng quạt tim mọc óc.
Thật vậy, thuyền đi thì thấy bờ chạy, mây
bay người ta thấy trăng xê dịch, mắt giật nhìn mặt nước thấy rung
rinh. Thuyền chưa đậu, mây chưa tan, mắt chưa hết giật mà muốn cho
bờ đừng chạy, trăng đừng xê dịch, mặt nước đừng rung rinh,
hãy còn không thể được, huống hồ đem cái ý thức sanh diệt
vọng tưởng, bóng dáng tiền trần mà suy lường thường trú chơn
tâm, thì làm sao hội nhập được ư ?
Ông A Nan luận tâm sai lầm là phải, vì ông
chưa tu học Xa ma tha
cho nên nông nổi, vướng vào tà thuật của
Ma Đăng Già. Còn Phật tử chúng ta, không chuyên cần học hỏi giáo
lý, chẳng dụng ý tinh tấn tư duy mà thích luận đàm, nầy tâm, kia
vật, đây vọng, đó chơn của vấn đề vật tâm, thì phỏng có
nói
bậy đi nữa, tưởng cũng nên tha thứ, không có gì đáng
trách !
Cái
kho tàng bí mật ! Thường trú chơn tâm, đức Phật chưa vội mở
cửa ở đây, cho nên ông A Nan chưa sao hiểu được, mà phải nhiều
lần tha thiết cầu xin Phật chỉ dạy sau nầy. Bởi lẽ, một kiến
thức về kỹ thuật khoa học, trong môi trường sinh hoạt vật chất
thế gian, muốn hiểu nó phải có quá trình học hỏi, tư duy chuyên
môn nghiên cứu. Ở đây ngoài điều kiện văn tư ra, còn đòi hỏi
nhiều ở vấn đề thể nghiệm, tu tập, thực hành, trong lãnh vực tu
chứng của đạo Phật nữa.
Cái tâm mà ông A Nan thưa trình lên Phật qua
bảy chỗ; đó mới chỉ thuộc phạm vi ý thức mà thôi. Đối với
bát thức tâm vương, với thường trú chân tâm, còn phải tiến
lên những bước khá dài mới có cơ may gặp gỡ !
*
* *
LUÂN
HỔI SANH TỬ KHÔNG PHẢI LÀ HIỆN TƯỢNG HỌA GỞI TAI BAY. BỔ ĐỀ
NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI CẢNH GIỚI SIÊU NHIÊN DO ĐẤNG SIÊU NHÂN NÀO
BAN TẶNG(^)
Phật
bảo: A Nan ! Rằng tất cả chúng sanh vô thỉ đến nay, điên đảo nhiều
cách, giống nghiệp tự nhiên gắn bó với nhau như chùm nho chen chúc
trái. Những người tu hành không thành vô thượng Bồ Đề mà lại
thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương hoặc Thanh Văn, Duyên Giác đều
do không biết hai thứ căn bản cho nên tu tập sai lầm, chẳng khác
nào nấu cát mong được thành cơm, dù trải qua nhiều kiếp như vi
trần, rốt cuộc vẫn không kết quả.
Những
gì là hai thứ căn bản ?
Một,
là căn bản sanh tử vô thỉ. Như ông hiện nay và tất cả chúng sanh
cũng thế, hằng ngày sử dụng cái tâm phan duyên mà lầm cho là
tự tánh của chính mình.
Hai,
là căn bản Bồ Đề, Niết Bản vô thỉ. Như ông hiện nay, cái tánh
thanh tịnh bản minh vốn có, nó nhậm vận tùy duyên, nhưng ông và
tất cả chúng sanh lại bỏ sót mất đi, cho nên tuy cả ngày sống ở
trong tánh thanh tịnh bản minh mà không hay không biết. Đành oan uổng
lặn lội trong lục đạo chuyển luân !
*
* *
LẠI
GẠN HỎI CÁI TÂM(^)
Phật
bảo: A Nan ! Ông muốn biết đường tu Xa ma tha để ra khỏi sống chết,
ông hãy trả lời tôi.
Phật
liền đưa cánh tay co năm ngón bảo A Nan rằng: Ông có thấy gì không?
Ông
A Nan thưa: Tôi thấy Như Lai đưa cánh tay và co ngón tay lại thành cái
nắm tay, nó phản ánh tác động vào tâm và con mắt của tôi. Tôi
và đại chúng đều do con mắt mà thấy.
Phật
bảo: A Nan ! Ông trả lời với tôi: Rằng: Như Lai co ngón tay làm
thành nắm tay, phản ánh tác động vào tâm và con mắt của ông. Con
mắt của ông thì thấy việc đó tất nhiên. Còn ông lấy cái gì
làm tâm để nhận biết cái nắm tay tôi ?
-
Bạch Thế Tôn: Như Lai gạn hỏi tâm tôi, tôi dùng tâm suy nghĩ để
trả lời Phật, thì rõ là cái suy nghĩ ấy là tâm tôi vậy.
*
* *
TÂM
THÌ PHẢI CÓ THỂ TÁNH, KHÔNG THỂ TÁNH KHÔNG PHẢI LÀ TÂM(^)
Phật
bảo: Sai rồi ! A Nan ! Cái suy nghĩ ấy không phải là tâm của ông.
Trong
dáng vẻ kinh ngạc, ông A Nan đứng dậy chấp tay thưa:
-
Bạch Thế Tôn ! Cái suy nghĩ ấy không phải tâm tôi thì gọi nó là
cái gì ?
Phật
bảo: Đó là cái tưởng tượng tướng hư vọng của tiền trần.
Chính cái đó làm mê lầm chân tánh của ông. Từ vô thỉ đến nay,
ông nhận tên giặc ấy làm con, bỏ mất tâm tánh bản lai thường
trú, nên phải chịu luân hồi.
Ông
A Nan thưa: Tôi là em của Phật, vì tâm yêu thương Phật nên mới
xuất gia. Tôi cúng dường chư Phật mười phương, phụng sự thiện
tri thức, phát tâm đại dũng mãnh, làm tất cả pháp sự khó làm,
đều dùng cái tâm ấy. Giả sử có hủy báng Phật pháp, đoạn
diệt thiện căn, bất tin tam bảo cũng đều dùng đến cái tâm ấy.
Nay Phật phát minh cái suy nghĩ đó không phải là tâm, thì tôi thành
ra không có tâm, như gỗ, như đất. Bởi vì, ngoài cái suy nghĩ nhận
biết ấy ra, tôi không còn có gì nữa ! Sao Như Lai lại bảo cái đó
không phải là tâm ? Tôi kinh sợ quá ! Và cả đại chúng nầy
không ai là không hoang mang dao động ! Xin Phật rủ lòng từ chỉ dạy
cho chúng tôi những điều chưa liễu ngộ ?
Bấy
giờ Thế Tôn rời sư tử tòa, xoa đầu ông A Nan và bảo:
-
Nầy A Nan ! Như Lai thường nói: Các pháp sanh ra duy tâm biến hiện.
Tâm là cái thể của tất cả thế giới vi trần, của mọi nguyên
nhân và kết quả
A
Nan ! Tất cả hiện tượng có trong thế giới, lớn như biển cả, núi
cao, nhỏ như lá cây ngọn cỏ
gạn xét căn nguyên đều có thể
tánh. Cả đến hư không cũng còn có tên và dáng mạo; huống chi
cái tâm sáng suốt nhiệm mầu thanh tịnh, thể tánh của sự vật mà
tự mình không có thể tánh sao ?
Nếu
ông quả quyết cho cái tính hay biết, cái suy nghĩ phân biệt là tâm
của ông thì cái tâm ấy rời sắc, thanh, hương, vị, xúc ra, nó phải
còn tính độc lập riêng của nó tồn tại. Hiện giờ ông đang nghe
tôi nói pháp, đó là nhân tiếng mà có phân biệt. Nếu không
tiếng thì sự phân biệt của ông không còn. Giả sử diệt hết cái
thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết, chỉ nắm giữ cái u nhàn lặng lẽ
bên trong, thì đó cũng là sự phân biệt bóng dáng pháp trần mà
thôi.
A
Nan ! Chẳng phải tôi bảo ông phủ nhận cái tính tư duy phân biệt ấy
không phải là tâm, nhưng ông phải chín chắn suy nghĩ: Rời tiền
trần mà vẫn có cái biết, thì đó mới thật là tâm của ông.
Còn nếu tính biết rời tiền trần không còn tự thể, thì nó chỉ
là sự phân biệt bóng dáng tiền trần. Tiền trần không phải
thường còn, khi thay đổi diệt mất đi rồi, thì cái tâm nương tiền
trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ. Thế thì pháp thân của
ông cũng thành đoạn diệt, còn gì mà tu chứng vô sanh pháp nhẫn !
*
* *
TRỰC CHỈ
Chúng sanh mà gọi là chúng sanh, sự thật họ
không phải là chúng sanh, Như Lai gọi chúng sanh vậy thôi. Khi mê thì
gọi chúng sanh, hết mê thì mọi người đều là Phật. Mê thì vô
minhh hiển, Phật chất ẩn. Giác thì Phật chất hiển vô minh ẩn và
tự hóa giải diệt vong.
Căn bản Bồ Đề, Niết Bàn từ vô thỉ chúng
sanh nào cũng sẵn có. Thế mà chúng sanh mãi luân hồi trong sanh tử
khổ đau. Sự thật, luân hồi sanh tử không phải là hiện tượng
họa gởi tai bay mà là do sự vô minh bất giác của con người chiêu
cảm lấy, thông qua những bất thiện nghiệp của thân khẩu ý của con
người. Bồ Đề, Niết Bàn không phải cảnh giới siêu nhiên do
đấng siêu nhân nào ban tặng, mà nó sẽ hiện hữu khi con người
phải giũ sạch hành động bất giác vô minh sai trái ấy. Con người
hoàn toàn có khả năng cải tạo những tư tưởng hành động của
mình. Muốn được vậy phải tu học Thủ Lăng Nghiêm tam muội để tạo
điều kiện cho chân tâm thường trú sẵn có hiện ra.
Căn bản Bồ Đề, Niết Bàn cũng như căn bản
luân hồi sanh tử, vốn không phải là cảnh giới khổ vui cố định do
ai đó tạo ra, để khi sử dụng uy quyền, tùy hứng thưởng cho chúng
sanh nào trông thấy dễ thương và phạt những chúng sanh nào nhìn qua
mà lòng mình không hạp nhãn.
Nền giáo lý trác tuyệt thượng thừa đã
phát hiện:
"Thật tánh vô minh là Phật tánh
Ảo hóa thân nầy tức pháp thân
Pháp thân nhận rõ không vương chấp
Phật tánh chơn thường lộ bản nguyên
Ngũ uẩn mây thưa chi để dạ
Bọt bèo tam độc bận lòng chi
"
(Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Ảo hóa không thân tức pháp thân
Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tánh thiên chơn Phật
Ngũ uẩn phù hư không khứ lai
Tam độc Thủy bào hư xuất một
)
HUYỀN GIÁC THIỀN SƯ.
Thông thường người ta quan niệm: Mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, năm cơ quan vật chất ấy hợp lại thành một con
người. Con người vật chất ấy được gọi là thân. Còn cái tác
dụng tư duy phân biệt, không rờ mó nắm bắt được, người ta gọi
nó là tâm, cũng có trường hợp gọi là ý thức. Ông A Nan đại
diện cho Phật tử chúng ta, đóng vai trò một người có quan niệm
nhận thức thông thường đó, để cùng Phật luận bàn tìm hiểu
cái tâm. Nhưng sự tranh luận giữa Phật và ông A Nan ở đây,
không phải nhằm để xác định các dạng nhận thức tư duy ấy là
tâm hay là ý thức. Bởi vì tâm hay ý thức, với giáo lý đạo
Phật, không có gì cần phải tranh luận. Mỗi khi thuyết pháp Phật đề
cập vấn đề tâm, ý, bàn bạc ở các kinh là một việc thông
thường. Đức Phật há chẳng răn dạy đệ tử mình hãy đề cao
cảnh giác, Tâm viên ý mã, đó sao ?
Vấn đề Phật muốn dạy ông A Nan và Phật
tử chúng ta là: Hãy phát hiện chơn tâm thường trú sẵn có của
mình. Nó là căn bản Bồ Đề Niết Bàn đó. Không phát hiện
được chân tâm thường trú, dù có lý luận: Rằng nó là cái
nầy, nó là cái kia, nó ở trong thân, nó ở ngoài thân hoặc ở
chặng giữa
đều không đem lại lợi ích gì. Giả sử có nói
đúng thực đi nữa, cái đó cũng vẫn là căn nguyên của tai họa,
là động cơ của mọi phiền não: Tham, sân, si, mạn
cái hiện
tượng tư duy mà ta gọi là tâm hay ý ấy vốn là vọng tưởng. Mà
vọng tưởng thì không chơn. Nó là vang bóng của tiền trần: sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Rời tiền trần, cái gọi là tâm hay ý
thức ấy sẽ tan biến mất theo. Cho nên trọng tâm tranh luận giữa
Phật và ông A Nan không phải ở chỗ tìm kiếm cái tâm qua hình
dáng: lớn, nhỏ, rộng, hẹp, dài, ngắn, vuông, tròn
cũng không
phải cần thấy cái tâm qua màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng,
lục hay sô-cô-la
mà tranh luận để phát hiện cái trong sáng,
cái thanh tịnh, cái giải thoát an lành, cái giác ngộ bất động, cái
tự tại như như vốn có ở trong mọi con người. Những cái đó,
dù con người đang bị phiền não vô minh che phủ, mà bản chất tiềm
tàng cố hữu của nó ở trong tâm thể mọi người thì vô thỉ vô
chung không lúc nào gián đoạn.
Do vậy, Phật nói rõ với ông A Nan rằng:
Không phải tôi bảo ông phủ nhận cái tánh thấy nghe nhận thức
không phải là tâm; nhưng ông hãy chín chắn nghĩ suy, làm thế nào
rời cái vọng tưởng đến đi, ông phải còn một cái: cái không
vọng tưởng đến đi. Cái đó nó ở luôn với ông, nó ở trong
ông, nó thật là của ông đấy. Còn muốn gọi nó là tâm hay là
ý thức, không quan trọng, việc đó tùy người và hồi sau sẽ còn
phân giải
*
* *
CÁI
TÁNH THẤY CỦA MẮT CHỈ LÀ HIỆN TƯỢNG(^)
Ông
A Nan và đại chúng chưa nhận rõ thế nào là chơn tâm thường trú,
lòng còn bối rối ngẩn ngơ.
Phật
bảo: A Nan ! Trong thế gian những người tu học tuy đã được chín
thứ thiền định, nhưng không diệt hết được mê lầm chỉ thành A La
Hớn đều do lầm chấp cái vọng tưởng tử sanh là chơn thật. Thế
nên, ông nay tuy học rộng nghe nhiều mà không thành chánh quả.
Ông
A Nan khóc lóc bạch Phật: Từ khi tôi phát tâm theo Phật xuất gia,
thường ỷ lại lòng thương của Phật, tự nghĩ rằng rồi đây Như
Lai sẽ ban cho tam muội, chia sớt đạo quả cho. Giờ đây mới biết:
Thân tâm không ai có thể thay thế cho ai. Từ lâu tôi đã bỏ mất
bản tâm của tôi rồi. Thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Như
đứa con hoang cùng khổ, bỏ cha bỏ nhà ra đi. Ngày nay mới biết, tuy
được nghe Phật pháp nhiều mà không tu hành, thì chẳng khác gì
người không nghe, như nói ăn mà không ăn rốt cuộc không thể nào
no được.
Kính
Bạch Thế Tôn ! Chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng buộc ràng, do
vì không biết tâm tánh vắng lặng thường nhiên, xin Như Lai thương
xót kẻ nghèo cùng rách rưới, phát minh cho cái tâm nhiệm mầu,
sáng suốt và khai mở con mắt đạo cho chúng tôi !
Bấy
giờ đức Như Lai từ tướng cát tường hải vân trước ngực
phóng ra ánh sáng rực rỡ soi khắp thế giới chư Phật mười
phương và chiếu khắp đảnh các Như Lai trong hằng sa cõi nước, rồi
xoay về chiếu đến đảnh ông A Nan và đại chúng.
Phật
bảo: A Nan ! Trước ông trả lời: rằng ông thấy cái nắm tay của
tôi, vậy cái nắm tay do đâu mà có ? Và ông lấy cái gì để thấy
?
Bạch
Thế Tôn ! Cái nắm tay có là do bàn tay Phật co các ngón tay lại.
Tôi thấy nắm tay của Phật là do con mắt của tôi.
Phật
bảo: Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay. Nếu không có con
mắt (mắt bị đui) thì không có cái thấy. Hai sự việc đó có giống
nhau chăng ?
Bạch
Thế Tôn ! Đúng vậy. Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay;
nếu không có con mắt thì không có cái thấy.
Phật
bảo A Nan ! Ông nói như vậy là không đúng. Không có bàn tay thì
tuyệt nhiên không có nắm tay, chứ không có con mắt (đui) không
phải hoàn toàn không thấy. Ông thử hỏi những người đui xem họ
có thấy gì không ? Chắc hẳn họ sẽ trả lời với ông: Rằng họ
thấy tối đen trước mắt. Lấy nghĩa đó mà suy nghĩ tiền trần tự
tối, chứ cái tánh thấy nào có hao kém gì ?
Bạch
Thế Tôn ! Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi
rằng thấy ?
Phật
bảo: Dù thấy tối đen cũng vẫn là thấy còn thấy sáng hay thấy
tối là do tiền trần sáng tối, tánh thấy vẫn y nhiên. Nếu vì tối
mà cho là không thấy, vậy thì khi người ta ngồi trong nhà tối không
thấy gì hết, chỉ thấy trước mắt tối đen, bỗng nhiên được đèn
sáng thấy rõ các vật, chẳng lẽ ông bảo đó là cái đèn thấy
hay sao ? Vậy nên suy biết: đèn làm tỏ rõ các vật, nhưng thấy như
vậy là mắt chứ không phải đèn. Mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy
là tâm, chứ không phải là mắt.
*
* *
TRỰC CHỈ
Ai ăn nấy no, ai ngủ nấy khỏe, thì sự tu
hành, ai tu nấy chứng, không ai tu thế giúp đỡ cho ai được. Có
giúp đỡ chăng chỉ làm tăng thượng duyên, mà nhân duyên phải
là tự lực của chính mình. Đó là sự thật hiển nhiên, người
trí không ai có thể phủ nhận. Vì đó là chân lý. Chân lý đó,
nói lên cái chân lý Nhân quả của thế gian và xuất thế gian.
Nó bao trùm xuyên suốt hết nền giáo lý Phật. Ông A Nan nói lên
lần nầy là lần thứ hai, sau khi ông thoát nạn trở về: Rằng sự
tu hành không thể ỷ lại tha nhân, dù tha nhân đó là Như Lai Thế
Tôn Vô thượng. Càng không thể có sự ân sủng, ban cho hay tặng
thưởng trong tiến trình tiến lên đạo quả giải thoát giác ngộ.
Nếu ai đó làm cái việc tặng thưởng, ban cho là tự trái với
chân lý, mâu thuẫn với quy luật nhân quả khách quan của vũ trụ
vạn hữu, người trí không tin có việc đó xảy ra.
Học Phật cốt ở thực hành. Học không hành
chẳng khác nào nói ăn mà không ăn, thì không thể no được.
Ánh sáng là biểu trưng cho trí tuệ. Ánh sáng
soi khắp hằng sa cõi nước Phật và chiếu khắp đảnh chư Như Lai trong
cõi nước mười phương; sau đó, xoay về chiếu lên đảnh ông A Nan
và đại chúng. Sự kiện nầy, nói lên ý nghĩa: Dùng trí huệ giác
mà nhìn vũ trụ vạn hữu, thì vũ trụ vạn hữu trở thành thế
giới đại đồng, thành nhất chân pháp giới. Trí tuệ giác xóa bỏ
hết ranh giới, cõi nước đất đai ngăn cách bởi ý thức hệ vô
minh: Tham, sân, si, mạn
Phật và hằng hà sa chư Phật trong mười
phương, cùng chung thọ dụng một ánh sáng báu rực rỡ, lung linh màu
sắc, trong đó có ông A Nan và đại chúng cũng có phần thụ hưởng
của phần mình, trong bầu thế giới đại đồng, nhất chân huy hoàng
ấy. Qua bài học thậm thâm đó, Phật tử chúng ta hãy tự cảnh
tỉnh lòng mình:
Thân tại hải trung hưu mích thủy
Nhật hành lảnh thượng mạc tầm
sơn
Ánh sáng mặt trời lúc nào cũng có, chỉ vì
mù trong bụng mẹ nên không thưởng thức được cảnh trúc biếc,
mai vàng, thông xanh, mây bạc, thường xuyên phô diễn dưới ánh
sáng của gầm trời.
Vấn đề nắm tay và cái thấy; cái thấy là
mắt hay là tâm, làm cho người đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, không thể
không phân vân, kiểm tra lập trường nhận tức của mình. Ông A Nan
mệnh danh là con người đa văn đệ nhất, thế mà còn lúng túng
chưa ngã ngũ được bằng nhận thức của mình huống hồ Phật tử
chúng ta chẳng mấy tí đa văn, giải quyết sự kiện ấy còn khó
khăn vạn bội. Phật tử đừng xem thường vấn đề thấy, nghe,
ngửi, nếm
và vấn đề tâm vật trong đời sống hằng ngày.
Bảo rằng con mắt thấy thì sai lầm, vì thiển
cận. Bảo rằng không phải con mắt thấy, càng ngớ ngẩn ngô nghê.
Bảo rằng tâm thấy, thì đó là phương tiện của Như Lai chứ chưa
hẳn vậy. Bởi vì: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm
bất khẳ đắc, vị lai tâm bất khả đắc". Vậy thì tâm thấy là
cái tâm nào ?
Nói rằng tâm thấy, là ý Phật muốn dạy cho
ông A Nan biết về "ngũ câu ý thức" về hiện tượng, tỷ
lượng và phi lượng của bát thức tâm vương, nói theo thuật ngữ
của duy thức học. Tiền ngũ thức, nhãn thức là một, tiếp xúc
với ngũ trần, chỉ thông qua hiện lượng. Hiện lượng là sự
lượng biết còn trong đệ nhất sát na nghĩa là chưa qua tư duy phân
biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ thức, giống như sự
tiếp thu hình ảnh và âm thanh của chiếc máy quay phim màu. Hình ảnh,
màu sắc và âm thanh có đủ, nhưng cuồn phim, chiếc máy, thì bình
đẳng tiếp thu không mảy may phân biệt. Vậy mà ông A Nan cho rằng
mắt thấy thì làm sao không bị Phật quở rầy ! Mắt, chỉ tiếp thu làm
tỏ rõ các vật sắc, mà thấy biết là phải có ý thức tâm vương
cộng vào.
Nghĩa là: Nhãn thức cộng với ý thức tâm
vương thành nhãn câu ý thức. Đử ngần ấy điều kiện mới thành
cái thấy biết của mắt. Vì vậy Như lai nói: Mắt không phải thấy
mà thấy là do tâm. Tâm ở đây, chỉ cho tâm vương ý thức vậy.
Do đó, ta thấy rõ: Cái thấy của mắt, chỉ
là hiện lượng thôi, cho nên chưa đầy đủ yếu tố để gọi là
mắt thấy. Vì vậy:
Nói mắt thấy đã sai
Nói không phải mắt thấy càng sai
Nói tâm thấy, chỉ là Như Lai phương
tiện !
Mà phải nói: cái thấy của mắt chỉ
là hiện lượng !
*
* *
GẠN
HỎI NGHĨA KHÁCH TRẦN NHẰM CHỈ RÕ HIỆN TƯỢNG VỌNG TƯỞNG DIỆT
SANH.
VÍ DỤ CHỦ
VÀ HƯ KHÔNG ĐỂ KHAI THỊ BẢN THỂ CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ(^)
Bấy
giờ đức Thế Tôn giơ cánh tay mềm mại lên, bảo ông A Nan và
đại chúng: Sau khi thành đạo, lần đầu tiên ở Lộc Giả Uyển, tôi
có dạy cho nhóm ông A Nhã Kiều Trần Như rằng tất cả chúng sanh
không thành Vô thượng Bồ Đề và A La Hớn, do vì phiền não khách
trần làm mê hoặc. Thuở đó, bọn ông do đâu mà tỏ ngộ, hiện nay
được thành chánh quả ?
Ông
Kiều Trần Như đứng dậy thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi đã già ở
trong đại chúng, tôi được cái tên Giải, là do thuở đó tôi tỏ
ngộ được ý nghĩa hai chữ khách trần. Khách là người đi
đường, khi cần, họ vào quán trọ thuê phòng hoặc ở, hoặc ngủ,
hoặc ăn. Ăn ngủ xong xếp hành lý lên đường, không ở luôn
được, còn người chủ thì ở vĩnh viễn không phải đi đâu nữa.
Từ suy nghĩ đó, tôi hiểu ra rằng: Khách có đến, đi; còn chủ thì
ở luôn không đi đâu hết.
Về
nghĩa chữ trần, thì vào lúc mặt trời mới lên, ánh sáng xuyên
vào các kẽ hở, lỗ thủng của mái nhà, nhìn theo làn ánh sáng
trong khoảng hư không yên lặng ấy, tôi thấy vô số bụi trần li ti
loạn động, cuồn cuộn tuôn bay. Do đó tôi nhận ra được nghĩa chữ
trần: Trần thì lay động, còn hư không thì yên lặng tuyệt nhiên !
Phật
bảo: Đúng vậy.
Đoạn,
Phật đưa tay lên, co năm ngón tay lại rồi mở ra và hỏi:
-
A Nan ! Ông thấy gì ?
-
Tôi thấy bàn tay Phật, nắm lại rồi mở ra. A Nan đáp.
-
Ông thấy tay tôi có nắm có mở hay cái thấy của ông có nắm có
mở ?
-
Thưa ! Tay Phật có nắm có mở, chứ cái thấy của tôi làm sao có
nắm mở được !
-
Cái gì động ? Cái gì tĩnh ? Phật hỏi.
-
Thưa ! Bàn tay của Phật không yên, chứ cái thấy của tôi còn
không có tĩnh thì làm chi có động !
Phật
bảo: đúng vậy.
Bấy
giờ Phật dùng tay phát ra một luồng ánh sáng, chiếu qua phía bên
phải của ông A Nan. Ông A Nan quay nhìn qua bên phải. Phật lại phát qua
phía trái, ông A Nan quay đầu nhìn qua phía trái.
Phật
bảo: A Nan ! Hôm nay vì sao đầu ông động lay qua lại như thế ?
-
Bạch Thế Tôn ! Tôi vì thấy hào quang của Phật phóng ra bên phải
và bên trái của tôi. Đầu tôi lay động bởi ngó theo hào quang
của Phật.
-
Đầu ông lay động quay bên phải bên trái. Vậy cái đầu ông động
mà cái thấy của ông có động chăng ?
-
Bạch Thế Tôn ! Đầu tôi tự lay động, chứ cái thấy còn không
biết nó ở chỗ nào, thì lấy gì mà lay động !
Phật
bảo: Đúng vậy.
Bấy
giờ, Phật bảo ông A Nan và đại chúng: Rằng mọi người ai cũng
có thể nhận biết: Không ở luôn là khách, chủ thì vĩnh viễn
không đi đâu. Bụi trần thì lay động còn hư không yên lặng tuyệt
nhiên. Có nắm có mở là tay, cái thấy thì không có nắm mở. Quay
qua quay lại là đầu, tánh thấy thì không hề xoay chuyển.
Vậy
mà, các ông hiện nay lấy cái động làm thân, cái động làm tâm,
lấy cái động làm cảnh, bỏ mất đi tâm tánh chơn thường, bất
động, yên lặng nó thường ở luôn với mình. Hằng ngày làm
những việc trái ngược, nhận vật làm thân, nhận vọng tưởng làm
tâm, xoay vần trong đó, tự nhận lấy sự trôi lăn trong sáu nẻo !
*
* *
TRỰC CHỈ
Đọc đến đoạn kinh nầy, người đệ tử
Phật có tư duy tu tập, thiền định ít nhiều, có thể bừng tỉnh ngộ:
Rằng thường trú chơn tâm không phải ở đâu xa xôi cách trở,
cần phải tìm kiếm hay cầu khẩn van xin mới có. Tìm thường trú chơn
tâm cũng không cần ở ngay chánh điện của ngôi chùa đồ sộ nguy
nga có tượng Phật to, có đại hồng chung lớn. Tìm chơn tâm thường
trú cũng không cần đóng cửa trong một vuông phòng kín và ngồi
thờ thẩn với đôi mắt lim dim. Thường trú chơn tâm muốn tìm nó
chỉ cần có chất liệu thiền tư. Thiền tư hay thiền định với nghĩa
tư duy quán chiếu. Người đệ tử nào muốn đi trên đường Bồ
Đề, Niết Bàn chỉ cần tu tập tư duy quán chiếu thân tâm, cảnh
giới quanh cuộc sống hằng ngày của bản thân mình. Đức Phật đã
dạy quá rõ ràng. Rằng cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm,
cái xúc, cái biết, nói chung là những tác dụng nhận thức của
sáu giác quan, Phật bảo chúng không phải chơn tâm, nhưng chúng cũng
không rời ngoài chơn tâm mà có. Biết sử dụng, trong vọng tâm ta
tìm thấy chơn tâm thường trú. Không biết sử dụng chỉ có toàn
vọng tưởng, bóng dáng của tiền trần; cũng như nước thanh bình
thạnh trị thì mọi người công dân trong nước là tôi hiền con
thảo. Khi thượng bất chánh thì
cũng những công dân ấy trở
thành tôi loàn con giặc. Tiền trần luôn luôn thay đổi lúc có lúc
không, thì sự hồi tưởng lại cái tướng của tiền trần cũng lúc
sanh lúc diệt. Vì vậy, Phật gọi sự hồi tưởng bóng dáng tiền
trần vào trong ký ức phân biệt chỉ là vọng tâm, là những phiền
não khách trần. Vì là khách cho nên không ở được luôn. Vì là
trần nên không có phút giây yên lặng. Phật dạy cho người đệ
tử phương pháp tu học để sống với sự an lành, yên lặng, như hư
không và quay về với vai trò người chủ, không đi đâu nữa. Vì
ngoài người khách đến đi, còn có chủ không đi, ở lại. Trong
sự loạn động cuồn cuộn tuôn bay của trần, còn có hư không yên
lặng không hề lay chuyển. Trước sự nắm mở duỗi co qua nắm tay
của Phật, còn có cái không duỗi co nắm mở đó là cái thấy của
ông A Nan. Thế thì, sự nhận thức của sáu giác quan, luôn luôn thay
đổi từng sát na, từng phút từng giờ, nhưng ngoài sự thay đổi
luôn luôn ấy, con người còn một cái. Cái đó là gì ?
Là
chơn tâm thường trú.
Theo lời Phật dạy thì chân tâm thường trú
có thể biểu hiện ở mọi con người, khi trí tuệ con người có khả
năng nhận thức được vọng tâm. Nhận được vọng tâm cũng nhận
thức được gì là vô minh phiền não khách trần để rồi hóa giải
chúng đến độ hoàn toàn sạch bóng.
Sự bác bỏ của Phật đối với ông A Nan về
vấn đề tâm thấy hay mắt thấy, sự thật chẳng có gì quan trọng
giữa hai thầy trò. Nhằm mục đích giáo dục chúng sanh, Phật bày ra
cuộc vấn đáp cho lý cùng trí tận vậy thôi. Giải quyết vấn đề
đó, khó khăn gì đối với người đệ tử tinh tấn, đa văn như
ông A Nan ấy !
Cái gì thấy ? Mắt có thấy được không ?
Thấy cách nào ? Cần bao nhiêu điều kiện để thấy ? Sao gọi là tâm
thấy ? Tâm thấy cách sao ? Tâm ở đâu ?
Bao nhiêu câu hỏi
đó, ông A Nan đem pháp tướng học ra giải quyết, dễ như người ta
thò tay vô túi mà lấy
tiền tiêu, chẳng có gì khó khăn cả.
--- o0o ---
Mục lục
Mục lục tập 01
|
chương 1 | chương 2 |chương 3 - chương 3a
Mục
lục tập 02 |
chương 4 |chương 5 | chương 6
Mục lục tập 03 |
chương 7| chương 8 | chương 9 | chương 10|
Phụ lục
--- o0o ---
|
Thư
Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính :
Hải Hạnh
Trình bày : Nhị Tường