* Bản chữ Hán:
PHẬT THUYẾT TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH
(trích trong Thánh Ðiển Yếu Tập)
l do CA DIẾP MA DẰNG và TRÚC PHÁP LAN dịch
l Sa môn Trí Tạng chuyển ra tiếng Việt
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammàsambuddhassa
Xin đem công đức dịch và
Cầu siêu tiến Phụ mẫu lũy kiếp, thất tổ cửu huyền, vãng sinh Tịnh độ;
Cầu cho qúy vị Phật tử, ân nhân và đồng bào
bình an, hạnh phúc, bồ đ
Nguyện Chính pháp quang minh, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.
Lời ngỏ
"Những Ðiều Phật Dạy" là cuốn kinh đại thừa truyền bá sớm nhất trong các nước Phật giáo ở Á Ðông, tôi dịch để cúng dường ngày Ðức Thế Tôn thành đạo và thân tặng các Phật tử, những người bạn tôi quen và lạ hiện sống trên khắp miền đất nước Việt Nam yêu dấu.
Ðây là cuốn kinh ghi lại trung thực những lời
vàng ngọc của Ðức Từ Phụ dạy cho hàng Sa môn, đệ tử của
Phật.Tuy nhiên, trong đó vẫn bao hàm những đ
... Vào mỗi buổi sớm mai, khi trời mới hừng sáng, cảnh vật vừa qua một đêm đen mù mịt, vắng lặng,
cũng là lúc bạn chợt thức giấc, lòng tràn
đầy niềm hoan lạc, tin yêu, bạn hãy cẩn trọng đưa hai tay
mở rộng từng trang kinh in trên nền giấy, và đọc lên
"Những Ðiều Phật Dạy", bạn sẽ nhận thấy trong mỗi
chữ mỗi câu in hình cuộc sống con người một cách rất hiện
thực. Nó còn là tiếng vọng mênh mông xa vắng gọi dậy
Ðó là định luật tự nhiên và tất yếu. Giờ
đây, bạn thử thí nghiệm, cân nhắc, chọn lựa việc nào
nên hoặc không nên làm, để chẳng bao giờ còn gây ra những
oan trái, phiền não, nhầm lỗi - dù chỉ là nhầm lỗi rất
nhỏ - có hại cho mình, cho đ
Và, ngay khi ấy, bạn tự thấy mình như cao lớn hẳn lên!
Mỗi điều Ðức Phật dạy là mỗi
nguyên lý đưa ta tới gần Sự Thật! Và kìa - Con Ðường Sáng
đã hiện ra, xin mời bạn cùng tôi dạo bước vườn hoa để
cùng thưởng thức những hương thơm hoa quả trong lành của
đ
Viết tại Tổ đình Giác Minh, PL 2523 - 1980
Sramana TRÍ TẠNG.
========
KINH
NHỮNG ÐIỀU PHẬT DẠY
KHÓA LỄ kỷ niệm NGÀY
ÐỨC THẾ TÔN THÀNH ÐẠO
Ghi chú :
Tuy đây là khóa lễ kỷ niệm Ngày Ðức Phật Thành Ðạo, nhưng Phật tử có thể tụng đọc bất cứ vào dịp lễ nào, chỉ cần thay đổi ngày lễ... (xem lời cầu nguyện trang 17 )
Khóa lễ
(Kỷ niệm ngày ÐỨC THẾ TÔN THÀNH ÐẠO)
PHẦN NGHI LỄ
(Ðại chúng vân tập trước chính điện, chắp tay hướng lên ngôi Tam Bảo. Sau 3 hồi chuông trống bát nhã chấm dứt, chủ lễ đọc) :
Ai nấy cung kính
(Mọi người đọc theo) :
Dốc lòng kính lạy Phật, Pháp, Tăng ở khắp mười phương (*) lll
(3 lễ, quỳ chắp tay đọc bài kệ dâng hương) :
Ðệ tử kính dâng hương
Hiện mây lành năm sắc
Khắp Pháp giới mười phương
Kết đài sen sáng rực.
Cầu Phật từ gia hộ
Lòng nở đóa hoa tươi
Hạnh bồ tát xin giữ
Nguyện cứu giúp loài người.
Hương thơm bay sực nức
Ðem hạnh phúc cho đời
Bao ưu phiền rũ sạch
Ðạo Vàng tỏa nơi nơi.
Nam mô Hương Cúng Dường bồ tát lll
(câu này đọc 3 lượt)
Dâng hương cúng dường rồi,
Con dốc lòng kính lạy Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng hết thảy Phật, Pháp, Tăng ở khắp mười phương lll
(Lạy 1 lạy, mọi người đứng chắp tay đọc bài kệ tán Phật) :
Ðấng Pháp vương vô thượng,
Thày dạy khắp trời, người.
Lòng từ ơn cứu độ
Ðạo Vàng chiếu muôn nơi ...
Lớn thay! công đức Phật,
Trí tuệ và Từ bi.
(*) Chú ý : Mỗi l là một tiếng chuông
Nay con xin vì các bậc con mang ơn cùng hết thảy chúng sinh, từ bỏ mọi nghiệp chướng, dốc lòng dãi bày sám hối (1 lạy) lll
(Ðại chúng quỳ, chắp tay, chủ lễ đọc) :
Chúng con và pháp giới chúng sinh xin chí thành sám hối.
(Mọi người đọc theo) :
Nghĩ : con từ kiếp lâu xa,
Chân tâm khuất lấp nên sa cõi trần
Luân hồi sinh tử tấm thân
Thay hình đ
Vốn xưa tạo nghiệp đã dầy
Tham, sân, si
Bởi thân, miệng, ý phát sinh
Con nay sám hối tội tình sạch trong.
Nam mô Cầu Sám Hối bồ tát ma ha tát lll
(câu này đọc 3 lượt)
Sám hối phát nguyện rồi,
Con xin dốc lòng kính lạy đức Phật Thích Ca
Mâu Ni cùng hết thảy Phật, Phá
Xương dương cùng tán thán,
Xin trọn đời quy y.
Úm phạ nhật la vật.
(Câu thần chú đọc 3 lượt)
DỐC LÒNG KÍNH LẠY : Khắp pháp giới hư không,
ngôi thường trụ Tam Bảo trong ba đời quá khứ, hiện tại,
vị lai, mười phươn
DỐC LÒNG KÍNH LẠY : Ðức đại từ bi phụ
Thích Ca Mâu Ni Phật, giáo chủ cõi Sa Bà, Ðức đại từ Di Lặc
tôn Phật, Ðức đ
DỐC LÒNG KÍNH LẠY : Ðức đại từ bi A Di Ðà Phật, giáo chủ cõi Cực Lạc phương Tây, Ðức đại bi Quán Thế AÂm bồ tát, Ðức đại lực Ðại Thế Chí bồ tát, Ðức đại nguyện Ðịa Tạng Vương bồ tát, cùng hết thảy chư vị Bồ Tát trong Hải Hội Thanh Tịnh (1 lạy)l
(Ðại chúng đồng quỳ. Riêng vị chủ sám tay cầm 3 nén hương vái và đọc lời nguyện cầu):
Hôm nay là ngày 8 tháng 12 âm lịch, ngày Ðức
Phật thành đ
Phật tử chúng con một lòng hướng về ba ngôi
tôn quý : Phật - Pháp - Tăng, phát nguyện thụ trì Pháp bảo.
Nguyện cầu Chính Pháp truyền bá nơi nơi ... "kẻ mù đ
Phật tử chúng con nguyện đời đời, kiếp
kiếp thường làm bà con quyến thuộc, một lòng hộ
trì Phậ
LẠI CẦU : Cha mẹ tổ tiên và những người
thân quá vãng đ
NGUYỆN CẦU : Quốc thái dâ
Hương GIỚI, hương ÐỊNH, với hương TUỆ,
Hương GIẢI THOÁT, GIẢI THOÁT TRI KIẾN
Kết thành mây sáng trưng cõi pháp
Cúng dường chư Phật khắp mười phương.(1)
Nam mô Hương Cúng Dường bồ tát ma ha tát lll
(câu nà
(1) CHÚ THÍCH
Như Lai Ngũ Phận Pháp Thân, gồm có :
1. GIỚI, nghĩa là giới thân của Như Lai về ba nghiệp (thân, khẩu, ý)đều thanh tịnh, gọi là Giới Pháp Thân.
2. ÐỊNH, chân tâm của Như Lai vẳng lặng, lìa tất cả vọng niệm, gọi là Ðịnh Pháp Thân.
3. TUỆ, chân trí của Như Lai viên minh, quán đạt pháp tính, gọi là Tuệ Pháp Thân, tức là Căn Bản Trí.
4. GIẢI THOÁT, thân tâm Như Lai thoát khỏi tất cả mọi hệ lụy, gọi là Giải Thoát Pháp Thân, tức chỉ cái đức Niết Bàn Tịch Tĩnh.
5. GIẢI THOÁT TRI
Năm điều trên có thứ tự, nhờ Giới sinh Ðịnh, nhờ Ðịnh mà sinh Tuệ, nhờ Tuệ mà đắc Giải Thoát, nhờ Giải Thoát mới có Giải Thoát Tri Kiến.
Giới hương, Ðịnh hương, giữ Tuệ hương,
Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến Hương
Quang minh vân đài biên pháp giới
Cúng dường thập phương vô lượng Phật.
(Mọi người ngồi kết già, chắp tay và tụng bài kệ dâng hương) :
Lò trầm vừa chợt đốt
Khắp cõi pháp thơm lừng
Cúng dường lên chư Phật
Và Bồ tát Thánh tăng
Chứng cho lòng trong trắng
Dù một nén tâm hương
Mây lành che chín cõi
Chư Phật hiện mười phương.
Nam mô Hương Vân Cái bồ tát ma ha tát lll (câu này đọc 3 lượt)
Thần chú sạch 3 nghiệp :
Úm sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ, đạt
ma sa phạ, bà phạ truật đ
Thần chú yên cõi đất :
Nam mô tam mãn đ
Thần chú cúng dường :
Úm nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhiệt la hộc l (đọc 3 lượt)
"Lạy Ðấng tam giới tôn,
Quy mệnh mười phương Phật.
Con nay phát nguyện lớn,
Trì tụng Pháp vương kinh.
Trên đền bốn trọng ơn ,
Dưới cứu ba đường khổ.
Nguyện pháp giới chúng sinh,
Ðều trọn thành Phật đạo."
Kệ khai kinh :
Phật pháp linh thiêng mầu nhiệm,
Ngàn năm mới gặp một lần.
Con nay dốc lòng tu niệm,
Nguyện xin chứng nhập ý thần (2)
Nam mô Khai Bảo Tạng bồ tát
ma ha tát l
Nam mô Ðại từ bi phụ Thích Ca
Mâu Ni Phật lll
(2 câu trên mỗi câu đọc 3 lượt và tụng tiếp vào chính kinh) :
(2) Nguyện hiểu sâu nguồn giáo lý
Sau khi thành đạo, Ðức Thế Tôn suy tư
v Ðức Phật dạy rằng : Những người từ giã
cha mẹ, người thân, xuất gia tu đạo, sáng lòng tỏ tính, hiểu
ngộ pháp giải thoát, gọi là Sa môn. Bậc Sa môn (Sramana) thường
giữ hai tră
v Ðức Phật dạy rằng : Những người xuất gia làm Sa môn, phải đoạn tuyệt với ái dục,
(*) 1-mặc áo phẩn tảo. 2-đi khất thực.
3-ngồi dưới cây. 4-tu dưỡng thân tâm an tịnh
(*) Những chữ nhỏ có ngoặc đơn, không đọc.
cần nhận biết nguồn tâm của mình, mới
mong chứng đ
v Ðức Phật dạy rằng : Khi đã cạo bỏ râu
tóc, bậc Sa môn là những người lĩnh thụ giáo pháp của Như
Lai, phải xa lìa hẳn của cải thế gian, chỉ cố
v Ðức Phật dạy rằng : Chúng sinh có mười việc Thiện và mười việc Ác. Những gì là mười? Ðó là ba thuộc về thân; bốn thuộc về miệng; ba thuộc về ý. l
- Ba thuộc về thân là : giết hại, trộm cắp, dâm dục.
- Bốn việc về miệng là : nói chia rẽ, nói hung ác, nói dối trá, nói thêu dệt.
- Ba việc thuộc về ý là : tham lam, giận dữ, si mê.
Mười việc như thế không hợp đạo Phật, và gọi là mười việc ác. Mười việc ác ấy chấm dứt, gọi là mười việc Thiện.l
v Ðức Phật dạy rằng : Người phạm lỗi không
tự biết hối, và sớm bỏ tâm ác đ
v Ðức Phật dạy rằng : Kẻ ác khi thấy người
hiền làm việc thiện, sinh lòng ganh ghét, tìm cách phá rối.
Là Phật tử, các ngươi nên nín nhịn, đ
(*) Theo các kinh sách chữ Hán vào cuối thế kỷ thứ 2 đầu thế kỷ thứ 3 dương lịch, tại Giao Châu, như Tứ Thập Nhị Chương Kinh và Mâu Tử Lý Hoặc Luận, thì chữ Vô Vi, Vô Ngô (Phi Thân), Tang Môn ... sau này đều dịch là Niết Bàn, Vô Ngã và Sa Môn ...
v Ðức Phật dạy rằng : Có kẻ thấy Ta (Ðức
Phật) hành đạo, làm những việc đ
v Ðức Phật dạy rằng : Nay ngươi mắng Ta, Ta không nghe, hẳn lời mắng kia sẽ trả về ngươi, như vang theo tiếng, bóng theo hình, chẳng thể tránh khỏi. Hãy cẩn trọng, chớ có làm việc ác l
v Ðức Phật dạy rằng : Kẻ ác hại người hiền, khác nào tự ngửa mặt lên trời phun nước bọt; nước bọt không lên tới trời mà trở lại rơi xuống mặt mình, cũng như rê bụi ngược chiều gió, bụi không bám ở người khác mà lại dính ngay nơi thân mình. Kẻ ác hại người hiền cũng thế. Người hiền chẳng hề gì, mà chính kẻ ác tự chuốc lấy tai vạ l
v Ðức Phật dạy rằng : Học rộng, mến đ
càng lớn mạnh l
v Ðức Phật dạy rằng : Thấy người hành đạo,
nên vui mừng giúp đỡ, thì đ
v Ðức Phật dạy rằng : Ðãi cơm một tră
không bằng cúng dường một vị Bích-chi-Phật
(Pratyeka
v Ðức Phật dạy rằng : người ta có hai mươi việc làm khó :
1. Nghèo hèn, biết bố thí là khó.
2. Giàu sang mà chă
3. Dám chết cho lẽ phải, không tiếc thân mệnh là khó.
4. Ðược xem kinh Phật là khó.
5. Ðược gặp Phật còn tại thế là khó.
6. Không đắm say sắc dục là khó.
7. Thấy vật quý mà không ham là khó.
8. Bị sỉ nhục, không giận là khó.
9. Có quyền thế không cậy mình là khó.
10. Bình tĩnh trước mọi sự việc là khó.
11. Học rộng hiểu sâu là khó.
12. Trừ diệt tâm ngã mạn là khó.
13. Chẳng khinh người ít học là khó.
14. Thực hành tâm bình đẳng là khó.
15. Không nói lời thị phi là khó.
16. Hội tụ các Thiện tri thức là khó.
17. Học đạo kiến tính là khó.
18. Tuỳ duyên hóa độ là khó.
19. Thấy cảnh không động tâm là khó.
20. Hiểu rõ cách dùng phương tiện là khó.
Có vị Sa môn hỏi Phật : Nhờ nhân duyên gì
mà biết được kiếp trước và hiểu đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người nào giữ gì
Một vị Sa môn hỏi Phật: như thế nào gọi là thiện? Như thế nào gọi là cao cả ? l
v Ðức Phật dạy rằng : Người hành đ
Một vị Sa môn khác hỏi Phật : Như thế nào gọi là sức mạnh? Như thế nào gọi là sáng suốt ? l
v Ðức Phật dạy rằng : Nhẫn nhục là sức mạnh phi thường nhất vì tâm không còn nghĩ ác, làm ác, do đó mà thân được an ổn, mạnh khỏe. Người trì hạnh nhẫn nhục, quyết không bao giờ có lòng ác, cho nên được mọi người kính trọng. Và một khi tâm xấu đã rũ sạch, không còn dính bợn chút vết dơ nào, như thế là sáng suốt hơn hết.
Kể từ khi chưa có trời đất cho đến ngày
nay, bao nhiêu sự sự vật vật trong mười phương, không một
vật gì là không thấy, không một điều gì là không nghe, chứng
đ
v Ðức Phật dạy rằng : Vì ôm mang lòng ái dục,
người ta không thấy đ
- Những ai vướng vấp với ái dục ắt tâm họ
còn vẩn đ
Hỡi các thày Sa môn! Các thày hãy dứt bỏ ái dục, ái dục không còn mới mong chứng ngộ đạo Như Thật. l
v Ðức Phật dạy rằng : Người thấy đ
v Ðức Phật dạy rằng : Giáo pháp của Ta tuy
có đ
Ai lĩnh hội được những điều đó sẽ gần đạo. Kẻ mê tối ắt phải xa đạo. Ðạo mầu nhiệm không thể nói bàn ; cũng không còn vướng mắc sự vật gì. Nếu chỉ sai lầm chút
xíu, cũng đủ đánh mất "nguồn đạo" một cách mau chóng. l
v Ðức Phật dạy rằng : Quán tưởng trời đất
là vô thường. Quán tưởng thế giới là vô thường. Quán tưởng
tâm linh giác là bồ đề. Bất cứ ai hiểu rõ như thế
v Ðức Phật dạy rằng : Quán xét bản thân
là do bốn đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người ta vì đắm
say tình dục, ham cầu danh vọng, một khi thanh danh được lẫy
lừng, cũng là lúc thân người đã già nua ! Tham cầu danh tiếng
ở đời mà không lo tu đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người say mê tiền của và nữ sắc mà không biết hạn chế lòng
ham muốn, cũng như lưỡi dao mài sắc, có d
v Ðức Phật dạy rằng : Người bị hệ lụy
với vợ con, nhà cửa thực còn khắt khe hơn cả lao tù, vào
lao tù, còn hy vọng có ngày đ
v Ðức Phật dạy rằng: Sự ham muốn không
gì hơn nữ sắc. Lòng đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người đam mê ái dục
cũng
Khi Thiên thần đưa nàng Ngọc nữ đến gặp Ðức Phật : toan làm xiêu lòng Ngài. l
v Ðức Phật dạy rằng : Này ! Ngươi đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người hành đ
v Ðức Phật dạy rằng : Các ngươi hãy cẩn
trọng, chớ vội tin vào ý nghĩ của mình, vì ý nghĩ ấy
chưa đáng tin. Phải cẩn thận ! Chớ nên gần gũi nữ sắc.
Gần nữ sắc tất sẽ phát sinh lắm tai biến bất thường. Về
ý nghĩ, chỉ chừng nào chứng đ
v Ðức Phật dạy rằng : Phải cẩn mật, đừng nhìn ngó đàn bà cũng chớ cùng nói chuyện. Nếu như phải nói chuyện thì lấy lòng ngay thẳng tiếp đãi họ. Nên nhớ rằng : Ta là Sa môn, sống trong cõi đời ô trược, phải như hoa sen mọc lên tự nơi bùn lầy mà không nhiễm chất bùn.
Hãy coi người đàn bà già như mẹ, người lớn
tuổi như chị, người trẻ tuổi như em, người nhỏ tuổi
như con mình, nên khởi chính tâm cứu đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người hành đạo khác nào như khoác áo cỏ khô, gặp lửa thì tránh xa. Người hành đạo, thấy cảnh luyến ái cần nên tránh xa. l
(*) - Chữ Giải Thoát là dịch từ chữ Vô Vi
của Hán bản, mà chữ Vô Vi, trong thời gian đ
v Ðức Phật dạy rằng : Có kẻ lo sợ không
ngăn nổi dục tình, nên đã tự đ
" Dục sinh ư nhữ ý,
Ý dĩ tư tưởng sinh.
Nhị tâm các tịnh tĩnh,
Phi sắc diệc phi hành".
(Ái dục là do ý-niệm-người,
Mà ý niệm bắt rễ từ tư tưởng phát sinh,
Nếu cả hai đều vắng lặng
Thì đâu còn có sự mê sắc, đắm tình.) l
v Ðức Phật dạy rằng : Người ta vì lòng ái dục mà sinh ra buồn rầu, rồi từ buồn rầu sinh ra sợ hãi ; nếu xa hẳn ái dục thì không có gì đáng phải lo sợ cả. l
v Ðức Phật dạy rằng : Người hành đ
người. Sau khi người ấy mặc áo giá
Có vị Sa môn cứ đêm đến thì lấy kinh Di Giáo của Ðức cổ Phật Ca Diếp ra tụng, tiếng nghe ảo não, buồn thảm rồi sinh lòng chán nản, thoái lui. Thấy cớ sự, Ðức Phật hỏi :
- "Thày trước kia, khi còn ở tại gia, từng làm nghề gì ?"
- Th
- Ðức Phật hỏi : "Nếu dây đàn chùng thì sao?".
- Thưa : "không thành tiếng".
- "Vậy dây đàn căng thì như thế nào?"
- Thưa : "Tiếng gắt và cũng rất dễ bị
đứt dây là khác".
- "Ðàn lên dây vừa thôi, không chùng, không căng, thì như thế nào? "
- Thưa "Tiếng vang dội khắp cả". l
v Ðức Phật dạy rằng : "Sa môn học đạo cũng nên như thế. Hãy giữ cho tâm điều hòa thì thế nào cũng thành đạo quả".
Ðối với công việc hành đạo, nếu quá sức
thì thân mệt mỏi, thân mệt mỏi thì tâm sinh ảo não, khi
tâm ảo não, ắt hạnh tu bị sút giảm, hạnh tu đã sút giảm
(hẳn nhiên) tội lỗi từ đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người thợ rèn sắt,
cần phải trừ hết ghét rỉ rồi mới đúc thàn
v Ðức Phật dạy rằng : Kẻ xa lìa con đ
thay! Thân căn, đầy đủ lại được sinh ra
ở giữa "đất nước" , khó vậy thay! Ðã đ
v Ðức Phật dạy rằng : Phật tử ở xa Ta
hàng nghìn dặm, nhưng luôn nhớ nghĩ đến giới luật của Ta
thì nhất định sẽ thành đạo quả. Ở bên cạnh Ta, tuy thường
gặp Ta, mà chẳng tuân theo giới luật của Ta, vẫn không chứng
ngộ đ
Ðức Phật liền hỏi một thày Sa môn :
- "Mệnh người sống chừng bao nhiêu lâu ?"
- Thưa : "Chỉ trong khoảng vài ngày".
Ðức Phật dạy : "Thày chưa hiểu đạo".
Lại hỏi một thày Sa môn khác :
- "Mệnh người sống chừng bao nhiêu lâu?"
- Thưa : "Trong khoảng bữa ăn".
Ðức Phật nói : "Thày cũng chưa hiểu đạo".
Lại hỏi một thày Sa môn khác nữa :
- "Mệnh người sống chừng bao nhiêu lâu?"
- Thưa : "Khoảng chừng hơi thở".
Ðức Phật khen : "Hay lắm! Thày hiểu đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người học đạo Phật
cần nên tin thuận Những Ðiều Phật Dạy, cũng như người
ă
v Ðức Phật dạy rằng : Bậc Sa môn hành đ
v Ðức Phật dạy rằng : Người hành đạo khác nào như con bò chở nặng đi trên bùn lầy ; tuy mệt mỏi, nhưng không dám ngó
nhìn, bên phải, bên trái. Chỉ khi đã ra khỏi
bùn lầy mới được thong thả, nghỉ ngơi. Bậc Sa môn nên
coi tình dục còn nguy hiểm hơn cả bùn lầy. Phải dụng tâm
v Ðức Phật dạy rằng : Ta coi chức vị đế
vương như bụi lọt qua kẽ hở, coi vàng bạc châu báu như gạch
ngói, coi đồ phục sức lụa là như mảnh giẻ rách, coi đại
thiên thế giới như hạt cải, coi
(Ðến đây là chấm hết phần chính Kinh)
KINH TAÂM YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA
Khi Bồ tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa
pháp Bát nhã ba la mật đ
Này! Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác gì sắc, mà sắc tức là không, không cũng là sắc; thụ, tưởng, hành, thức đều như thế cả.
Này! Xá Lợi Tử, tướng "Không" của các pháp là không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm cũng không bớt. Do đó, trong Chân Không không có sắc, không có thụ, tưởng, hành , thức; không có nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý; không có sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến
ý thức giới; không có vô minh, không có chấm hết vô minh,
không có già, chết, cũng không có hết già, chết; không có
khổ, không có nguyên nhân của
Bởi chẳng có gì để thành tựu, Bồ tát y
theo Bát nhã ba la mật đ
Vậy biết rằng : Bát nhã ba la mật đa là
linh ngữ siêu việt, linh ngữ của trí tuệ, linh n
"Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha. Ma ha bát nhã ba la mật đa" l
(câu thần chú đọc 3 lượt).
(Thần chú diệt hết mọi cỗi rễ nghiệp chướng quyết sinh Tịnh độ) :
Nam mô A di đá bà giạ, đá tha già đá giạ, đá địa giạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lị đá tất đam bà tỳ, a di lị đá tỳ ca lan đế, a di lị đá tỳ ca lan đá, già di dị già già na, chỉ đá ca lệ sa bà ha. lll
(câu thần chú đọc 3 lần)
PHẦN HỒI HƯƠNG
PHÁT NGUYỆN
Ðại chúng chắp tay đồng tụng :
"Kính lạy Ðức Thích Ca Văn Phật,
Một ngôi chí tôn trên trời đất.
Ðạo pháp mênh mông bể khơi hẹp,
Công đức vòi vọi, núi non thấp.
Xót thương chúng sinh cõi Sa Bà,
Ðời đời chìm đắm trong bể khổ :
Khổ về thể xác lẫn tâm hồn,
Phát nguyện ra tay khắp tế độ.
Trút bỏ tôn vinh cùng tình ái,
Hết lòng hết sức lo cứu đời,
Bình đẳng, không phân ai quý tiện;
Từ mẫn thương yêu cả mọi loài.
Bốn điều Thánh Ðế rất nhiệm mầu,
Gỡ sạch nhân duyên mười hai mối;
Mở đường giác ngộ ra bến mê,
Hết thảy thánh, phàm trong tam giới.
Trong cõi vô thường thay đổi mãi,
Dẫu rằng trời đất cũng hư không,
Ðến ngôi niết bàn là cao nhất,
Bất sinh bất diệt biết bao cùng!" l
Nam mô Sa Bà giáo chủ đại từ bi phụ Thích Ca Mâu Ni Phật lll
(đọc 3 lượt)
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm 1 tràng) lll
Nam mô Văn Thù Sư Lợi bồ tát ( 10 niệm ) l
Nam mô Phổ Hiền bồ tát (10 niệm) l
Nam mô Quán Thế AÂm bồ tát (10niệm)l
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng bồ tát (10 niệm) lll
(Chủ lễ quỳ, đọc) :
Chúng con xin chí thành phát nguyện:
(Mọi người cùng quỳ, đọc theo) :
Chúng sinh không số lượng,
thề nguyện đều độ khắp.
Phiền não không cùng tận,
thề nguyện đều dứt sạch.
Pháp môn không kể xiết,
thề nguyện đều tu học.
Phật đạo không gì hơn,
thề nguyện được viên thành l
Nguyện đem công đức tụng kinh này
Bao nhiêu thắng phúc xin hồi hướng:
Cầu cho chúng sinh trong bể khổ,
Chóng được sinh về cõi An Dưỡng.
Mười phương chư Phật và Bồ tát,
Là những bậc chứng đ
Rủ lòng tiếp bốn loài, chín cõi.
Ðều siêu thăng Hoa Tạng Huyền Môn
Chốn tối tăm tám nạn, ba đường
Ðồng thể nhập Như Lai Pháp Tính lll
Kính lạy Ðức đại từ bi phụ Thích Ca Mâu
Ni Phật, hiện ngàn tră
(Câu này đọc 3 lượt) lll
* Con quy y Phật,
nguyện cho chúng sinh,
thể theo đạo lớn,
phát tâm vô thượng (1 lễ) l
* Con quy y Pháp,
nguyện cho chúng sinh,
hiểu thấu nghĩa kinh,
trí tuệ như bể (1 lễ) l
* Con quy y Tăng,
nguyện cho chúng sinh,
thống lý đại chúng,
hết thảy vô ngại (1 lễ) lll
(Mọi người đứng chắp tay đọc):
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
"Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Ðệ tử và chúng sinh,
Ðều trọn thành Phật đạo."
(Mọi người vái rồi lui ra)
-o0o-
Nguồn: www.quangduc.com