.
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
- ĐẠI
KINH DỤ DẤU CHÂN VOI
- (Mahahatthipadopamasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Ở đây, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Hiền giả Tỷ-kheo!
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Chư Hiền giả, ví như tất cả
dấu chân của mọi loại động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi,
vì dấu chân này được xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về phương
diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các Thiện pháp đều tập
trung trong Bốn Thánh đế. Thế nào là trong Bốn Thánh đế? Trong Khổ Thánh
đế, trong Khổ tập Thánh đế, trong Khổ diệt Thánh đế, trong Khổ diệt
đạo Thánh đế.
Chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh
đế? Sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là
khổ, điều gì cầu không được là khổ, tóm lại Năm thủ uẩn là khổ.
Chư Hiền, thế nào là Năm thủ uẩn? Chính là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn,
tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Chư Hiền, thế nào là sắc
thủ uẩn? Bốn đại và sắc khởi lên từ bốn đại. Chư Hiền, thế nào
là bốn đại? Chính là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.
Chư Hiền, thế nào là địa giới?
Có nội địa giới, có ngoại địa giới. Chư Hiền, thế nào là nội địa
giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp
thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan,
hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ
vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp
thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội địa giới. Những gì thuộc nội địa
giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa giới. Cần
phải như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái
này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự
ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ
như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới.
Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, trong thời ấy
ngoại địa giới bị biến mất. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại địa
giới xưa ấy có thể nêu rõ, tánh hủy hoại có thể nêu rõ, tánh đoạn
diệt có thể nêu rõ, tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói
gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có
gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là. Chư Hiền, nếu có những
người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị
ấy biết rõ như sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi, thọ này thuộc tai
xúc chạm, thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên, do nhân
duyên gì? Do nhân duyên xúc". Vị ấy thấy xúc là vô thường, thấy thọ
là vô thường, thấy tưởng là vô thường, thấy hành là vô thường, thấy
thức là vô thường. Tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết
định, tùy thuộc giới đối tượng. Chư Hiền, nếu những người khác xử
sự với Tỷ-kheo không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả
ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc
chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy tuệ tri như sau: "Sự thể của
thân này là như vậy, nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy
có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm. Thế Tôn đã dạy như sau trong
ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy
cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân. Nếu ai ở đây sanh ý phẫn
nộ, người ấy không làm đúng lời Ta dạy"... Ta sẽ tinh cần, tinh tấn,
không dải đãi. Niệm được an trú không có loạn niệm, thân thể được
khinh an, không dao động, tâm được định tỉnh nhất tâm. Nay mặc cho tay
xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm thân này, mặc cho gậy xúc chạm
thân này, mặc cho gươm xúc chạm thân này, lời dạy chư Phật cần phải
được thực hành. Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp
như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được
an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất
hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp
cho ta. Dầu t ó niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy,
nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, ví như
một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh.
Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như
vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an
trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh
cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho
ta. Dầu t ó niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy,
nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo
ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả
tương ưng với thiện được an trú, thì Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư
Hiền, đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là thủy giới?
Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Chư Hiền thế nào là nội thủy
giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất
lỏng, bị chấp thủ, như mật, (viêm đàm dịch) mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước
mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu,
và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước,
thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội thủy
giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại thủy giới,
đều thuộc về thủy giới. Cần phải như thật quán sát thủy giới với
chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải
là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán
sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với
thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới. Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại
thủy giới dao động, nước cuốn trôi làng, cuốn trôi thị trấn, cuốn
trôi thành phố, cuốn trôi xứ, cuốn trôi quốc độ. Chư Hiền, một thời
xẩy ra khi nước biển đại dương hạ thấp một trăm do-tuần, hạ thấp
hai trăm do-tuần, hạ thấp ba trăm do-tuần, hạ thấp bốn trăm do-tuần, hạ
thấp năm trăm do-tuần, hạ thấp sáu trăm do-tuần, hạ thấp bảy trăm
do-tuần. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương dâng cao
đến bảy cây ta-la, dâng cao đến sáu cây ta-la, dâng cao đến năm cây
ta-la, dâng cao đến bốn cây ta-la, dâng cao đến b ây ta-la, dâng cao đến
hai cây ta-la, dâng cao chỉ đến một cây ta-la. Chư Hiền, một thời xẩy
ra khi nước biển đại dương cao đến bảy đầu người, dâng cao đến sáu
đầu người, dâng cao đến năm đầu người, dâng cao đến bốn đầu người,
dâng cao đến ba đầu người, dâng cao đến hai đầu người, dâng cao chỉ
đến một đầu người. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại
dương dâng cao đến nửa thân người, dâng cao chỉ đến hông, dâng cao chỉ
đến đầu gối, dâng cao chỉ đến gót chân. Chư Hiền, một thời xẩy ra
khi nước biển đại dương không có để thấm ướt đốt ngón chân. Chư
Hiền, tánh vô thường của ngoại thủy giới xưa ấy có thể nêu rõ;
tánh hủy hoại có thể nêu; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch
có thể nêu rõ... (như trên)... và xả tương ứng với thiện được an trú.
Chư Hiền, cho đến mức độ này, vị Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là hỏa giới?
Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Chư Hiền, thế nào là nội hỏa
giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc
chất nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy
hoại, khiến cho thiêu cháy; cái gì khiến cho những vật được ăn uống,
nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác thuộc nội
thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Chư Hiền,
như vậy gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa giới và những
gì thuộc ngoại hỏa giới, đều thuộc về hỏa giới. Cần phải như thật
quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy,
vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới. Chư Hiền,
một thời xẩy ra khi hỏa giới dao động. Lửa thiêu cháy làng, thiêu cháy
thị trấn, thiêu cháy thành phố, thiêu cháy xứ, thiêu cháy quốc độ. Lử
háy cho đến cuối hàng cây cối, cho đến cuối hàng đường lớn, cho đến
cuối hàng chân núi, cho đến cuối hàng thủy biên, hay cho đến cuối hàng
khu đất khả ái, rồi lửa bị tắt vì không nhiên liệu. Chư Hiền, một
thời xảy ra khi loài người đi kiếm lửa phải dùng lông gà và dây gân.
Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại hỏa giới xưa ấy có thể nêu rõ;
tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến
dịch có thể nêu rõ... (như trên)... và xả tương ưng với thiện được
an trú. Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, thế nào là phong giới?
Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Chư Hiền, thế nào là nội phong
giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc động
tánh, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột,
gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các chi tiết (tay chân), hơi thở vô,
hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc
gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội
phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong
giới đều thuộc về phong giới. Cần phải như thật quán sát phong giới
với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi thấy
như thật phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối
với phong giới, tâm từ bỏ phong giới. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi
ngoại phong giới dao động, gió thổi bay làng, thổi bay thị trấn, thổi
bay thành phố, thổi bay xứ, thổi bay quốc độ. Chư Hiền, một thời xẩy
ra khi trong tháng cuối mùa hạ, loài người tìm cầu gió nhờ lá cây ta-la,
nhờ cây quạt, và người ta không mong tìm được cỏ tại chỗ có rạch nước
chảy. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại phong giới xưa ấy có thể
nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ;
tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu
thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là
tôi, là của tôi, hay tôi là. Chư Hiền, nếu có những người khác mắng
nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như
sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi này thuộc tai xúc chạm; thọ này do
nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên gì? Do nhân duyên
xúc vậy". Vị ấy thấy xúc là vô thường; vị ấy thấy thọ là vô
thường; vị ấy thấy tưởng là vô thường; vị ấy thấy hành là vô thường;
vị ấy thấy thức là vô thường; tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh
chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng. Chư Hiền, nếu những
người khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không có tốt đẹp,
không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc
dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết như sau:
"Sự thể của thân này là như vậy nên tay có thể xúc chạm, đá có
thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm". Thế
Tôn đã dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm
cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân, nếu
ai ở đây sanh ý phẫn nộ thì người ấy không làm đúng lời ta dạy".
Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đãi, niệm được an trú, không có loạn
niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất
tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy
xúc chạm, mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy chư Phật cần phải
được thực hành". Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm
Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không
được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật
bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt
đẹp cho ta. Dầu t ó niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng
như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền,
ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh.
Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như
vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an
trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh
cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho
ta. Dầu t ó niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy,
nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, nếu Tỷ-
Kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và
xả tương ưng với thiện được an trú. Do vậy, Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ.
Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.
Chư Hiền, như một khoảng trống
được bao vây bởi cây gậy, bởi dây leo, bởi cỏ, bởi bùn, được biết
là một nhà ở. Cũng vậy, Chư Hiền, một khoảng trống được bao vây bởi
xương, bởi dây gân, bởi thịt, bởi da, được biết là một sắc pháp.
Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, nhưng ngoại sắc không vào
trong tầm mắt, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần
thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại,
ngoại sắc vào trong tầm mắt, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp,
thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội
mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, có sự quy tục xúc
chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp có hiện khởi. Bất cứ sắc
pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất
cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn;
bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều được quy tụ trong
tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ
trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy đều
quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: "Như vậy, như
người ta nói, có sự quy tụ, sự tập hợp, sự hòa hợp của năm thủ uẩn
này. Thế Tôn đã nói như sau: "Ai thấy được lý duyên khởi, người
ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý
duyên khởi". Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn.
Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức
là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự
khổ diệt". Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất
nhiều.
Chư Hiền, nếu nội tại không bị
hư hại... nếu lỗ mũi không bị hư hại... nếu lưỡi không bị hư hại...
nếu thân không bị hư hại... nếu nội ý căn không bị hư hại nhưng ngoại
pháp không vào trong tầm của ý căn, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp,
thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội ý căn
không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ý căn, nhưng không có sự
quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi.
Chư Hiền, chỉ khi nào nội ý căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong
tầm của ý căn, có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích
hợp có hiện khởi. Bất cứ pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy
tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy
đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi
như vậy đều quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện
khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được
hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri
như sau: "Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập họp, sự
hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: "Ai thấy
được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp,
người ấy thấy được lý duyên khởi". Những pháp này do duyên khởi
lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say
trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ
bỏ tham dục tức là sự khổ diệt". Cho đến mức độ này, chư Hiền,
Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như
vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục