QUYỂN THỨ 459
HỘI THỨ HAI
Phẩm
NHIẾP NHAU
Thứ 67
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa
nhiếp lấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dùng tâm không tham trước
không xan lẫn tu hành bố thí. Đem bố thí đây cùng các hữu tình đồng chung
hồi hướng Nhất thiết trí trí, đối các hữu tình trụ từ thân nghiệp, ngữ
nghiệp, ý nghiệp lìa các tội phạm. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an
trụ bố thí ba la mật đa nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dùng tâm không tham trước không xan lẫn
tu hành bố thí. Đem bố thí đây cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất
thiết trí trí. Nếu có kẻ nhận, các ác hữu tình khác phi lý hủy mắng hiềm
hại lăng nhục, Bồ Tát đối kia chẳng sanh biến khác giận dữ hại tâm thân
ngữ trả báo lại, chỉ khởi tâm từ bi thương xót đem lời khéo ái ngữ
khiêm tốn hổ thẹn tạ lỗi. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ bố
thí Ba la mật đa nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dùng tâm không tham trước không xan lẫn
tu hành bố thí. Đem bố thí đây cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất
thiết trí trí. Nếu có kẻ nhận, các ác hữu tình khác phi lý hủy mắng hiềm
hại lăng nhục. Bấy giờ, Bồ Tát bèn khởi nghĩ này: Có các giống làm loại
nghiệp như thế hoàn tự bị cảm loại như thế, ta nay chẳng nên cố chấp sở
tác của kia, phế bỏ tu tự nghiệp.
Lại khởi nghĩ này: Ta nên đối kia và các hữu tình khác xả tâm thí tâm lại
bội tăng trưởng không đoái tiếc gì. Khởi nghĩ này rồi, phát khởi tăng
thượng tinh tiến thân tâm thường tu ơn thí. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma
ha tát an trụ bố thí ba la mật đa nhiếp lấy tinh tiến Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dùng tâm không tham trước không xan lẫn
tu hành bố thí. Đem bố thí đây cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất
thiết trí trí, đối có kẻ nhận và cảnh giới khác tâm không tán loạn, chẳng
cầu các dục ba cõi, Nhị thừa, chỉ cầu Phật quả. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát
Ma ha tát an trụ bố thí ba la mật đa nhiếp lấy tĩnh lự Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dùng tâm không tham trước không xan lẫn
tu hành bố thí. Đem bố thí đây cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất
thiết trí trí. Quán các kẻ nhận, kẻ thí, vật thí đều như huyễn, chẳng thấy
thí đây đối các hữu tình có ích có tổn, vì đạt tất cả pháp thắng nghĩa
không vậy. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí ba la mật đa
nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha
tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa nhiếp lấy bố thí, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa,
gây ba thứ phước nghiệp thân ngữ tâm. Do phước nghiệp đây lìa giết sanh
mạng cho đến tà kiến, chẳng cầu Thanh văn Độc giác thừa thảy, chỉ cầu Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, Bồ Tát an trụ tịnh giới rộng hành bố thí, tùy các hữu tình cần
dùng vật gì tận đều thí cho. Lại đem căn lành bố thí như thế cùng các hữu
tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí, chẳng cầu quả Thanh văn Ðộc
giác thảy. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật
đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới
Ba la mật đa, nếu các hữu tình đua đến chia cắt thân thể Bồ Tát đều lấy
cầm đi. Bồ Tát đối kia chẳng sanh tâm một niệm giận thù, chỉ khởi nghĩ
này: Ta nay nhận được lợi lành rộng lớn nghĩa là bỏ thân hôi uế mong manh,
được Phật thân thanh tịnh Kim cương. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát
an trụ tịnh giới Ba la mật đa nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới
Ba la mật đa, thân tâm tinh tiến hằng không gián đoạn. Mạc áo giáp đại bi,
phát lời hoằng thệ: Tất cả hữu tình chìm đắm đáng sợ bạo ác khó ra biển
khổ sanh tử, ta phải vớt để trong cõi bất tử. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma
ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa nhiếp lấy tinh tiến Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới
Ba la mật đa, tuy vào bốn tĩnh lụ hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định, hoặc
diệt tận định mà chẳng đọa Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, cũng chẳng chứng
thật tế. Theo sức bản nguyện, khởi nghĩ này rằng: Tất cả hữu tình chìm đắm
đáng sợ, bạo ác khó ra biển khổ sanh tử; ta nay đã trụ thiền thanh tịnh,
phương tiện dẫn phát tĩnh lự thanh tịnh quyết định phải vớt để trong cõi
bất tử. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới Ba la mật đa
nhiếp lấy tĩnh lự Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tịnh giới
Ba la mật đa chẳng thấy có pháp hoặc thiện hoặc phi thiện, hoặc hữu ký
hoặc vô ký, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian,
hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc đọa hữu số hoặc đọa vô số, hoặc đọa hữu tướng
hoặc đọa vô tướng, chỉ quán các pháp chẳng lìa chơn như, nói rộng cho đến
bất tư nghì giới. Chơn như thảy đây cũng bất khả đắc. Do phương tiện khéo
léo Bát nhã Ba la mật đa đây chẳng đọa Thanh văn và bậc Ðộc giác, duy cầu
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ
tịnh giới Ba la mật đa nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế
Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa nhiếp lấy bố thí,
tịnh giới, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
an nhẫn Ba la mật đa từ sơ phát tâm cho đến khi ngồi yên tòa diệu Bồ đề, ở
thời gian giữa, nếu có các loại hữu tình phi lý hủy mắng hiềm hại lăng
nhục cho đến chia cắt lóng đốt cầm đi. Bấy giờ, Bồ Tát đều không giận thù,
chỉ khởi nghĩ này: Các hữu tình đây rất đáng thương xót, bị bệnh quỷ phiền
não làm rối loạn, thân tâm chẳng được tự tại, không nương không hộ, bị
nghèo khổ ép. Ta phải thí kia tùy ý cần dùng, uống ăn áo mặc và những các
thứ tư cụ của cải khác khiến không thiếu thốn. Lại đem căn lành bố thí đây
dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng
Nhất thiết trí trí, với khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai
hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ an
nhẫn Ba la mật đa nhiếp lấy bố thí ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn
Ba la mật đa từ sơ phát tâm cho đến khi ngồi yên tòa diệu Bồ đề, ở thời
gian giữa nếu nhân duyên rất cần vì cứu tự mạng đối các hữu tình trọn
chẳng tổn hại, cho đến chẳng khởi các ác tà kiến. Bồ Tát khi tu tịnh giới
như thế chẳng cầu Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, lại đem căn lành tịnh giới
như thế, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện cùng các hữu tình đồng chung
hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm,
nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha
tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn
Ba la mật đa phát khởi mạnh mẽ tăng thượng tinh tiến, thường khởi nghĩ
này: Nếu một hữu tình ở ngoài một do tuần, hoặc mười, hoặc trăm cho đến vô
lượng do tuần; hoặc ở ngoài một thế giới, hoặc mười hoặc trăm cho đến
ngoài vô lượng các thế giới đáng nên độ được, ta quyết phải tới phương
tiện giáo hóa khiến kia thọ trì hoặc tám học xứ, hoặc năm hoặc mười hoặc
đủ học xứ, hoặc khiến an trụ Tịnh quán, Chủng tánh, Đệ bát, quả Dự lưu,
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác Bồ đề, hoặc khiến an trụ các bậc Bồ
Tát cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hãy chẳng từ mệt nhọc, huống vì
giáo hóa vô lượng vô số vô biên hữu tình đều khiến cho được lợi ích an vui
mà đâu mỏi mệt? Lại đem căn lành tinh tiến như thế dùng vô sở đắc mà làm
phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng
về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa
nhiếp lấy tinh tiến Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn
Ba la mật đa nhiếp tâm chẳng loạn, lìa pháp dục ác bất thiện, có tìm có
rình, lìa sanh vui mừng vào sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến vào định diệt
tưởng thọ. Trong các định này tùy chỗ sanh khởi pháp tâm tâm sở và các căn
lành tất cả nhóm hợp, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình
đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển
hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ
tát Ma ha tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa nhiếp lấy tĩnh lự Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ an nhẫn
Ba la mật đa đối trong các pháp trụ quán theo pháp, tuy đem hành tướng xa
lìa, hoặc đem hành tướng vắng lặng, hoặc đem hành tướng vô tận, hoặc đem
hành tướng dứt hẳn quán tất cả pháp, mà đối vắng lặng được chẳng tác
chứng, cho đến ngồi tòa diệu Bồ đề, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,
từ tòa đây dậy quay xe diệu pháp lợi vui hữu tình. Lại đem căn lành diệu
huệ như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng
chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai
tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma
ha tát an trụ an nhẫn Ba la mật đa nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế
Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa nhiếp lấy bố
thí, tịnh giới, an nhẫ, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tinh tiến Ba la mật đa, thân tâm tinh tiến từng không biếng nhác, cầu các
pháp lành cũng không nhàm mỏi, thường khởi nghĩ này: Ta chắc lẽ được Nhất
thiết trí trí, chẳng lẽ chẳng được. Bồ tát Ma ha tát này vì muốn lợi vui
tất cả hữu tình hằng phát thệ nguyện: Nếu một hữu tình ở ngoài một do
tuần, hoặc mười, hoặc trăm cho đến ngoài vô lượng do tuần; hoặc ở ngoài
một thế giới, hoặc mười, hoặc trăm cho đến ngoài vô lượng các thế giới
đáng nên độ được, ta tất phải dến phương tiện giáo hóa, khiến trụ Thanh
văn thừa, hoặc khiến trụ Ðộc giác thừa, hoặc khiến trụ Vô thượng thừa,
hoặc khiến thọ hành mười thiện nghiệp đạo. Như vậy đều đem pháp thí tài
thí mà cho đầy đủ, phương tiện dẫn nhiếp. Lại đem căn lành bố thí như thế
dùng vô sở đắc mà làm phương tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng
Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai
hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ
tinh tiến Ba la mật đa nhiếp lấy bố thí Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến
Ba la mật đa từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, tự lìa hại
sanh mạng, cũng khuyên người lìa hại sanh mạng, xưng nêu pháp lìa hại sanh
mạng không trái, vui mừng khen ngợi kẻ lìa hại sanh mạng. Như vậy cho đến
tự lìa tà kiến, cũng khuyên người lìa tà kiến, xưng nêu pháp lìa tà kiến
không trái, vui mừng ngợi khen kẻ lìa tà kiến. Bồ tát Ma ha tát này đem
tịnh giới Ba la mật đa đây chẳng cầu ba cõi và quả Nhị thừa, dùng vô sở
đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết
trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng,
hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba
la mật đa nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến
Ba la mật đa từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, ở thời gian
giữa, người phi người thảy đua nhau đến xúc hại, hoặc lại đâm chém cắt đứt
tay chân tùy ý cầm đi. Bồ Tát bấy giờ chẳng khởi nghĩ này: Ai dâm chém ta:
Ai cắt đứt ta? Ai lại cầm đi? Chỉ khởi nghĩ này: Ta nay được nhân lợi lành
lớn. Các hữu tình kia làm lợi ích ta, nên đến cắt dứt lóng đốt thân phần
ta. Nhưng ta vốn vì tất cả hữu tình mà thọ thân này, kia đến lấy vật sở
hữu của mình mà thành việc cho ta. Như vậy Bồ Tát suy nghĩ kỹ càng thật
tướng các pháp mà tu an nhẫn. Đem an nhẫn Ba la mật đa đây, chẳng cầu
Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các
hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không
chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy
là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa nhiếp lấy an nhẫn Ba la
mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến
Ba la mật đa siêng tu các định là lìa pháp dục ác bất thiện có tìm có
rình, lìa sanh vui mừng vào sơ tĩnh lự, nói rộng cho đến vào đệ tứ tĩnh
lự. Đối các hữu tình khởi tưởng cho vui, tác ý vào Từ vô lượng nói rộng
cho đến vào Xả vô lượng. Đối trong các sắc khởi tưởng thô nhàm, tác ý vào
định không vô biên xứ, nói rộng cho đến vào định diệt tưởng thọ.
Bồ tát Ma ha tát này tuy tu định tĩnh lự, vô
lượng, vô sắc, diệt như thế mà chẳng nhiếp lấy quả dị thục kia, chỉ tùy
hữu tình nên thọ hóa được làm lợi vui mà sanh trong ấy. Đã sanh kia rồi,
dùng bốn nhiếp sự mà nhiếp lấy đó, phương tiện an lập khiến đối bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật đa tinh siêng tu học.
Bồ tát Ma ha tát này nương các tĩnh lự khởi thắng
thần thông, từ một nước Phật đến một nước Phật, gần gũi cúng dường chư
Phật Thế Tôn, thỉnh hỏi các pháp tánh tướng thẳm sâu, tinh siêng dẫn phát
căn lành thù thắng. Đem căn lành đây dùng vô sở đắc làm phương tiện cùng
các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng
không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện!
Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa nhiếp lấy tĩnh lự Ba
la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến
Ba la mật đa chẳng thấy bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa
hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến
tám thánh đạo chi hoặc danh hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy nội
không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc
tướng. Chẳng thấy chơn như cho đến bất tư nghì giới hoặc danh, hoặc sự,
hoặc tánh, hoặc tướng.
Chẳng thấy khổ tập diệt đạo thánh đế hoặc danh,
hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn
vô sắc định hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy tám giải
thoát cho đến mười biến xứ hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng.
Chẳng thấy Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa hoặc
danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy Cực hỷ địa cho đến Pháp
vân địa hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy tất cả đà la
ni môn, tam ma địa môn hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng
thấy năm nhãn, sáu thần thông hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng.
Chẳng thấy Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc danh,
hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám
mươi tùy hảo hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy pháp vô
vong thất, tánh hằng trụ xả hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng.
Chẳng thấy nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy quả
Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng.
Chẳng thấy tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh,
hoặc tướng. Chẳng thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc danh, hoặc
sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy Nhất thiết trí trí hoặc danh, hoặc
sự, hoặc tánh, hoặc tướng.
Như vậy cho đến chẳng thấy tất cả pháp Chẳng thấy
Nhất thiết trí trí hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Đối trong
các pháp chẳng khởi tưởng nghĩ, không sở chấp trước, như nói năng làm. Lại
đem căn lành đã nhóm như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các
hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không
chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy
là Bồ tát Ma ha tát an trụ tinh tiến Ba la mật đa nhiếp lấy Bát nhã Ba la
mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế
Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa nhiếp lấy bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
tĩnh lự Ba la mật đa, đối các hữu tình trụ thí tài pháp, nghĩa là lìa pháp
dục ác bất thiện có tìm có rình, lìa sanh vui mừng vào sơ tĩnh lự, nói
rộng cho đến vào đệ tứ tĩnh lự. Đối các hữu tình khởi tưởng cho vui, tác ý
vào Từ vô lượng, nói rộng cho đến và Xả vô lượng. Đối trong các sắc khởi
tưởng nhàm thô, tác ý vào định không vô biên xứ nói rộng cho đến vào định
diệt tưởng thọ.
Bồ tát Ma ha tát này an trụ tĩnh lự Ba la mật đa,
đem tâm không loạn vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, hành thí tài
pháp. Bồ tát Ma ha tát này thường tự hành thí tài pháp, cũng thường khuyên
người hành thí tài pháp, thường xưng nêu pháp hành thí tài pháp, thường
xưng nêu pháp hành thí tài pháp không trái, thường vui mừng khen ngợi kẻ
hành thí tài pháp. Đem căn lành đây chẳng cầu Thanh văn bậc Ðộc giác thảy,
chỉ dùng vô sở đắc mà làm phương tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi
hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm nghĩa là
ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ
tĩnh lự Ba la mật đa nhiếp lấy bố thí Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự
Ba la mật đa thọ trì tịnh giới, thường chẳng phát khởi tâm tham đồng hành,
tâm sân đồng hành, tâm si đồng hành, tâm hại đồng hành, tâm xan đồng hành,
tâm ganh đồng hành và tâm hủy tịnh giới đồng hành. Chỉ thường phát khởi
tác ý đồng hành Nhất thiết trí trí. Lại đem căn lành tịnh giới như thế
chẳng cầu Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, nhưng đem vô sở đắc mà làm phương
tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi
hồi hướng không chuyển hai tâm nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa nhiếp lấy
tịnh giới Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự
Ba la mật đa tu hành an nhẫn, quán sắc như nhóm bọt nước, quán thọ như
bóng nước nổi, quán tưởng như ánh nắng, quán hành như bẹ chuối, quán thức
như việc huyễn. Khi khởi quán này tưởng năm thủ uẩn chẳng bền chắc hằng
hiện tại tiền. Lại khởi nghĩ này: Các pháp đều không, chẳng ngã chẳng sở,
ai năng cắt dứt, ai chịu cắt dứt; ai năng hủy mắng, ai chịu hủy mắng; ai
lại với trong ấy phát khởi giận dữ; sắc đây sắc ai, thọ đây thọ ai, tưởng
đây tưởng ai, hành đây hành ai, thức đây thức ai? Như vậy Bồ tát Ma ha tát
an trụ tĩnh lự Ba la mật đa khi quán pháp kỹ, năng đủ an nhẫn được. Lại
đem căn lành đã nhóm như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các
hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không
chuyển hai tâm nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là
Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật
đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự
Ba la mật đa, phát siêng tinh tiến, lìa pháp dục ác bất thiện có tìm có
rình, lìa sanh vui mừng vào sơ tĩnh lự trụ đầy đủ. Vắng lặng rình tìm, trụ
nội đẳng tịnh tâm nhất thú tánh, không tìm không rình, định sanh vui mừng
vào tĩnh lự thứ hai trụ đầy đủ. Lìa mừng trụ xả, đủ nhớ chính biết lãnh
thân thọ vui, Thánh giả với trong năng thuyết năng xả, đủ trụ nhớ vui vào
tĩnh lự thứ ba trụ đầy đủ. Dứt vui dứt khổ, mất vui buồn trước, chẳng khổ
chẳng vui, xả niệm thanh tịnh vào tĩnh lự thứ tư trụ đầy đủ.
Như vậy Bồ Tát tu tất cả các thứ tĩnh lự, giải
thoát, đẳng trì, đẳng chí, đối với trong ấy đều năng chẳng lấy các tướng,
phát khởi các thứ thần cảnh trí thông, năng làm việc đại thần biến vô
biên. Hoặc lại phát khởi thiên nhĩ trí thông, rõ rang thanh tịnh hơn nhĩ
người trời, năng như thật nghe các thứ tiếng tăm của loại tình phi tình
mười phương thế giới. Hoặc lại phát khởi tâm tha trí thông, năng như thật
biết các pháp tâm tâm sở của hữu tình khác mười phương thế giới. Hoặc lại
phát khởi tha tâm trí thông, năng như thật biết các pháp tâm tâm sở của
hữu tình khác mười phương thế giới. Hoặc lại phát khởi túc trụ trí thông,
như thật nhớ biết các việc sống đời trước của vô lượng hữu tình mười
phương thế giới. Hoặc lại phát khởi thiên nhãn trí thông, sáng làu thanh
tịnh hơn nhãn người trời, năng như thật thấy nhiều thứ sắc tượng hữu tình
vô tình mười phương thế giới, cho đến nghiệp quả đều như thật thấy biết.
Bồ tát Ma ha tát này an trụ năm thần thông thù
thắng đây, từ một nước Phật đến một nước Phật gần gũi cúng dường cung kính
chư Phật Thế Tôn, thỉnh hỏi Như Lai pháp nghĩa thẳm sâu, rộng trồng vô
lượng căn lành vi diệu, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, siêng
tu các thứ thắng hạnh Bồ Tát. Đem căn lành đây chẳng cầu Thanh văn bậc
Ðộc giác thảy, chỉ dùng vô sở đắc làm phương tiện cùng các hữu tình đồng
chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm
nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha
tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa nhiếp lấy tinh tiến Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự
Ba la mật đa quán sắc thọ tưởng hành thức bất khả đắc. Quán nhãn xứ cho
đến ý xứ bất khả đắc. Quán sắc xứ cho đến pháp xứ bất khả đắc. Quán nhãn
giới cho đến ý giới bất khả đắc. Quán sắc giới cho đến pháp giới bất khả
đắc. Quán nhãn thức giới cho đến ý thức giới bất khả đắc. Quán nhãn xúc
cho đến ý xúc bất khả đắc. Quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến
ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc.
Quán địa cho đến thức giới bất khả đắc. Quán nhân
duyên cho đến tăng thượng duyên bất khả đắc. Quán vô minh cho đến lão tử
bất khả đắc. Quán bố thí ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa bất khả
đắc. Quán nội không cho đến vô tánh tự tánh không bất khả đắc. Quán chơn
như cho đến bất tư nghì giới bất khả đắc.
Quán khổ tập diệt đạo thánh đế bất khả đắc. Quán
bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi bất khả đắc. Quán bốn tĩnh lự, bốn
vô lượng, bốn vô sắc định bất khả đắc. Quán tám giải thoát cho đến mười
biến xứ bất khả đắc. Quán không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn bất
khả đắc.
Quán Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa bất khả
đắc. Quán Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa bất khả đắc. Quán tất cả đà la
ni môn, tam ma địa môn bất khả đắc. Quán năm nhãn, sáu thần thông bất khả
đắc. Quán Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả
đắc. Quán ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo bất khả đắc. Quán
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả bất khả đắc. Quán nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí bất khả đắc.
Quán quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề bất khả
đắc. Quán tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát bất khả đắc. Quán chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề bất khả đắc. Quán Nhất thiết trí trí bất khả đắc.
Quán hữu vi giới bất khả đắc. Quán vô vi giới bất khả đắc.
Như vậy Bồ Tát quán tất cả pháp bất khả đắc nên
không tác, không tác nên không tạo, không tạo nên không sanh, không sanh
nên không diệt, không diệt nên không lấy, không lấy nên thanh tịnh rốt ráo
thường trụ không biến đổi. Sở dĩ vì sao?
Vì tất cả pháp hoặc Phật ra đời hoặc chẳng ra đời
an trụ pháp tánh, pháp giới, pháp trụ không sanh không diệt thường không
biến khác. Bồ tát Ma ha tát này tâm thường không loạn, hằng thời an trụ
tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, như thật quán sát tất cả pháp tánh đều
vô sở hữu. Lại đem căn lành đã nhóm như thế, dùng vô sở đắc mà làm phương
tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi
hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ tĩnh lự Ba la mật đa nhiếp lấy
Bát nhã Ba la mật đa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế
Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa nhiếp lấy bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ
Bát nhã Ba la mật đa quán tất cả pháp không, vô sở hữu.
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát
nhã Ba la mật đa quán tất cả pháp không, vô sở hữu?
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã
Ba la mật đa quán nội không tánh nội không bất khả đắc, ngoại không tánh
ngoại không bất khả đắc, nội ngoại không tánh nội ngoại không bất khả đắc,
không không tánh không không bất khả đắc, đại không tánh đại không bất khả
đắc, thắng nghĩa không tánh thắng nghĩa không bất khả đắc, hữu vi không
tánh hữu vi không bất khả đắc, vô vi không tánh vô vi không bất khả đắc,
tất cánh không tánh tất cánh không bất khả đắc, vô tế không tánh vô tế
không bất khả đắc, tán vô tán không tánh tán vô tán không bất khả đắc, bổn
tánh không tánh bổn tánh không bất khả đắc, tự cộng tướng không tánh tự
cộng tướng không bất khả đắc, nhất thiết pháp không tánh nhất thiết pháp
không bất khả đắc, nhất thiết pháp không tánh nhất thiết pháp không bất
khả đắc.
Bồ tát Ma ha tát này an trụ trong mười bốn không
như thế bất đắc sắc hoặc không hoặc bất không; bất đắc thọ tưởng hành thức
hoặc không hoặc bất không. Bất đắc nhãn xứ cho đến ý xứ hoặc không hoặc
bất không. Bất đắc nhãn xứ cho đến ý xứ hoặc không hoặc bất không. Bất đắc
sắc xứ cho đến pháp xứ hoặc không hoặc bất không. Bất đắc nhãn giới cho
đến ý giới hoặc không hoặc bất không. Bất đắc sắc giới cho đến pháp giới
hoặc không hoặc bất không. Bất đắc nhãn thức giới cho đến ý thức giới hoặc
không hoặc bất không. Bất đắc nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc không hoặc bất
không. Bất đắc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất
không. Bất đắc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất không.
Bất đắc địa giới cho đến thức giới hoặc không
hoặc bất không. Bất đắc nhân duyên cho đến tăng thượng duyên hoặc không
hoặc bất không. Bất đắc vô minh cho đến lão tử hoặc không hoặc bất không.
Bất đắc bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa hoặc không hoặc
bất không. Bất đắc nội không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc không hoặc
bất không. Bất đắc chơn như cho đến bất tư nghì giới hoặc không hoặc bất
không.
Bất đắc khổ tập diệt đạo thánh đế hoặc không hoặc
bất không. Bất đắc bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi hoặc không hoặc
bất không. Bất đắc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc không
hoặc bất không. Bất đắc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định
hoặc không hoặc bất không. Bất đắc tám giải thoát cho đến mười biến xứ
hoặc không hoặc bất không. Bất đắc không, vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn hoặc không hoặc bất không.
Bất đắc Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa hoặc
không hoặc bất không. Bất đắc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa hoặc không
hoặc bất không. Bất đắc tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn hoặc không
hoặc bất không. Bất đắc năm nhãn, sáu thần thông hoặc không hoặc bất
không. Bất đắc Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc
không hoặc bất không. Bất đắc ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo
hoặc không hoặc bất không. Bất đắc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả
hoặc không hoặc bất không.
Bất đắc nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí hoặc không hoặc bất không. Bất đắc quả Dự lưu cho đến Ðộc giác
Bồ đề hoặc không hoặc bất không. Bất đắc tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc
không hoặc bất không. Bất đắc chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc
không hoặc bất không. Bất đắc Nhất thiết trí trí hoặc không hoặc bất
không. Bất đắc vô vi giới hoặc không hoặc bất không.
Bồ tát Ma ha tát này an trụ Bát nhã Ba la mật đa
đối các hữu tình sở hữu bố thí hoặc ăn hoặc uống và những đồ tư cụ đều
quán là không; hoặc năng thí, hoặc sở thí, hoặc phước thí, hoặc quả thí
như vậy tất cả cũng quán là không.
Bấy giờ, Bồ Tát do trụ không quán, không cho tham
đắm xan lẫn khởi được. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã
Ba la mật đa, từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, phân biệt
như thế đều chẳng khởi được. Như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không lúc
tạm khởi trước tâm xan tâm.
Bồ tát Ma ha tát này cũng lại như thế, hành Bát
nhã Ba la mật đa thẳm sâu, trước tâm xan tâm đều chẳng khởi. Phải biết Bát
nhã Ba la mật đa là thầy các Bồ tát Ma ha tát, năng làm cho chúng Bồ tát
Ma ha tát chẳng khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, sở hành bố thí đều không
nhiễm đắm. Bồ tát Ma ha tát này đem căn lành đây dùng vô sở đắc mà làm
phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng
về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa
nhiếp lấy bố thí ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã
Ba la mật đa thọ trì tịnh giới, không cho tất cả tâm Thanh văn Ðộc giác
thảy khởi được. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này quán các bậc Thanh văn
Ðộc giác thảy đều bất khả đắc, tâm hồi hướng kia cũng bất khả đắc, hồi
hướng bậc kia thân ngữ luật nghi cũng bất khả đắc.
Bồ tát Ma ha tát này an trụ Bát nhã Ba la mật đa,
từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, ở thời gian giữa tự lìa
giết sanh mạng, cũng khuyên người lìa giết sanh mạng, xưng nêu pháp lìa
giết sanh mạng không trái, vui mừng khen ngợi kẻ lìa giết sanh mạng. Như
vậy cho đến tự lìa tà kiến, cũng khuyên người lìa tà kiến, xưng nêu pháp
lìa tà kiến không trái, vui mừng khen ngợi kẻ lìa tà kiến.
Bồ tát Ma ha tát này đem tịnh giới đây đã sanh
căn lành chẳng cầu ba cõi và pháp Nhị thừa, chỉ đem vô sở đắc mà làm
phương tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với
khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về
đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa nhiếp
lấy tịnh giới Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã
Ba la mật đa khởi nhẫn tùy thuận. Được nhẫn đây rồi thường làm nghĩ này:
Trong tất cả pháp, không có một pháp khởi hoặc diệt, hoặc sanh hoặc già,
hoặc bệnh hoặc chết, hoặc kẻ năng mắng hoặc kẻ chịu mắng, hoặc kẻ năng
báng hoặc kẻ chịu báng, hoặc kẻ năng cắt dứt đâm chém trói đánh não xúc
gia hại. Tất cả tánh tướng như thế đều không, chẳng nên đối trong ấy vọng
tưởng phân biệt.
Bồ tát Ma ha tát này vì được nhẫn đây, nên từ sơ
phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, ở thời gian giữa, giả sử tất cả
loại hữu tình đều đến hủy mắng bài báng lăng nhục, dùng các thứ dao gậy
ngói đá đất khối thảy làm tổn hại đánh đập cắt đứt đâm chém, cho đến mổ xẻ
từng lóng đốt nơi thân.
Bấy giờ, có Bồ Tát tâm không biến khác, chỉ khởi
nghĩ này: Rất đáng lạ thay! Trong các pháp tánh đều không có việc hủy mắng
bài báng lăng nhục gia hại thảy, nhưng các hữu tình phân biệt vọng tưởng
chấp là thật có, phát khởi các thứ phiền não ác nghiệp, đời hiện đời sau
chịu các khổ dữ dội. Bồ tát Ma ha tát này đem căn lành đây dùng vô sở đắc
mà làm phương tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí
trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi
hướng về đâu. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật
đa nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã
Ba la mật đa vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp, khiến trụ bố thí Ba la
mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa; hoặc khiến trụ bốn niệm trụ cho đến
tám thánh đạo chi; hoặc khiến được quả Dự lưu cho đến quả A la hán; hoặc
khiến được Độc giác Bồ đề; hoặc khiến được Nhất thiết trí trí. Bồ tát Ma
ha tát này dù làm việc đây mà chẳng trụ hữu vi giới, cũng chẳng trụ vô vi
giới. Lại đem căn lành đã nhóm như thế, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện
cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi
hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu. Thiện
Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa nhiếp lấy tinh
tiến Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã
Ba la mật đa, trừ đẳng trì Phật, đối tất cả đẳng trì khác Thanh văn Ðộc
giác Bồ Tát đều năng tự tại tùy ý ra vào. Bồ tát Ma ha tát này an trụ đẳng
trì Bồ Tát tự tại, đối tám giải thoát đều năng tự tại thuận nghịch vào ra.
Những gì là tám?
Một là quán có sắc, các sắc giải thoát.
Hai là trong quán vô sắc tướng, các sắc ngoài
giải thoát.
Ba là tịnh thắng giải, thân làm chứng giải thoát.
Bốn là vượt tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng,
chẳng suy nghĩ các thứ tưởng, vào vô biên không, không vô biên xứ giải
thoát.
Năm là vượt tất cả Không vô biên xứ, vào vô biên
thức, Thức vô biên xứ giải thoát.
Sáu là vượt tất cả Thức vô biên xứ, vào vô thiểu
sở hữu, Vô sở hữu xứ giải thoát.
Bảy là vượt tất cả Vô sở hữu xứ, vào phi hữu
tưởng phi vô tưởng, Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
Tám là vượt tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ vào
định diệt tưởng thọ, diệt tưởng thọ giải thoát.
Bồ tát Ma ha tát này năng đối chín định thứ lớp
hoặc nghịch hoặc thuận vào ra tự tại. Những gì là chín? Là bốn tĩnh lự,
bốn vô sắc định, định diệt tưởng thọ, đấy gọi là chín.
Bồ tát Ma ha tát này đối tám giải thoát, chín
định thứ lớp thuận nghịch vào ra, thành thạo giỏi rồi, mới năng vào Đẳng
trì sư tử phấn tấn. Đẳng trì sư tử phấn tấn là sao?
Thiện Hiện! Là Bồ tát Ma ha tát lìa pháp dục ác
bất thiện có tìm có rình, lìa sanh vui mừng, vào sơ tĩnh lự, thứ lớp cho
đến vượt tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, vào Định diệt tưởng thọ. Lại
từ Định diệt tưởng thọ khởi, vào lại định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thứ
lớp cho đến vào sơ tĩnh lự. Đấy là Đẳng trì sư tử phấn tấn.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát lìa pháp dục ác bất
thiện có tìm có rình, lìa sanh vui mừng vào Sơ tĩnh lự. Từ Sơ tĩnh lự khởi
thứ lớp vào định Diệt tưởng thọ. Từ định Diệt tưởng thọ khởi, vào Sơ tĩnh
lự. Từ Sơ tĩnh lự khởi, vào định Diệt tưởng thọ. Từ định Diệt tưởng thọ
khởi, vào định đệ Nhị tĩnh lự. Từ đệ Nhị tĩnh lự khởi, vào định Diệt tưởng
thọ. Từ định Diệt tưởng thọ khởi, vào đệ Tam tĩnh lự. Từ đệ Tam tĩnh lự
khởi, vào đệ Tứ tĩnh lự.
Từ đệ Tứ tĩnh lự khởi, vào định diệt tưởng thọ.
Từ định Diệt tưởng thọ khởi, vào định Không vô biên xứ. Từ định Không vô
biên xứ khởi, vào định Diệt tưởng thọ. Từ định Diệt tưởng thọ khởi, vào
định Thức vô biên xứ. Từ định Thức vô biên xứ khởi, vào định Diệt tưởng
thọ. Từ định Diệt tưởng thọ khởi, vào định Vô sở hữu xứ. Từ định Vô sở hữu
xứ khởi, vào định Diệt tưởng thọ. Từ định Diệt tưởng thọ khởi, vào định
Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ khởi, vào
định Diệt tưởng thọ. Từ định Diệt tưởng thọ khởi vào định phi tưởng phi
phi tưởng xứ.
Từ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ khởi, vào tâm
Bất định. Từ tâm Bất định vào lại định Diệt tưởng thọ. Từ định Diệt tưởng
thọ khởi, trụ tâm Bất định. Từ tâm Bất định vào lại định Diệt tưởng thọ.
Từ định Diệt tưởng thọ khởi, trụ tâm Bất định. Từ tâm Bất định vào định
Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ định Phi tưởng phi phi tưởng xứ khởi, trụ
tâm Bất định. Từ tâm Bất định vào định Vô sở hữu xứ.
Từ định Vô sở hữu xứ khởi, trụ tâm Bất định. Từ
tâm Bất định vào định Thức vô biên xứ. Từ định Thức vô biên xứ khởi, trụ
tâm Bất định. Từ tâm Bất định vào định Không vô biên xứ. Từ định Không vô
biên xứ khởi, trụ tâm Bất định.
Từ tâm Bất định vào đệ Tứ tĩnh lự. Từ đệ Tứ tĩnh
lự khởi trụ tâm Bất định. Từ tâm Bất định vào đệ Tam tĩnh lự. Từ đệ Tam
tĩnh lự khởi trụ tâm Bất định. Từ tâm Bất định vào đệ Nhị tĩnh lự. Từ đệ
Nhị tĩnh lự khởi trụ tâm bất định. Từ tâm Bất định vào Sơ tĩnh lự. Từ Sơ
tĩnh lự khởi trụ tâm Bất định.
Đấy là Đẳng trì siêu việt của Bồ Tát. Nếu Bồ tát
Ma ha tát an trụ Đẳng trì siêu việt như thế được thật tánh tất cả pháp
bình đẳng. Lại đem căn lành đã nhóm như thế dùng vô sở đắc mà làm phương
tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi
hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa nhiếp lấy
tĩnh lự Ba la mật đa.