Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là Bồ tát Ma ha tát tư lương Bồ đề,
các Bồ tát Ma ha tát cần đủ tư lương Bồ đề như thế mới năng chứng được sở
cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ? Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả
thiện pháp đều là Bồ tát Ma ha tát tư lương Bồ đề. các Bồ tát Ma ha tát
cần đủ tư lương Bồ đề như thế mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tất cả thiện pháp, các Bồ tát Ma ha
tát phải trọn nên các thiện pháp như thế mới chứng được Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề? Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát từ sơ phát tâm Tướng khác hành bố thí Ba la mật đa; Tướng
khác hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhả Ba la mật đa.
Với trong đều không phân biệt chấp trước, là tác nghĩ này: Đây là thí
thảy, do đây, vì đây mà tu thí thảy. Bap phân biệt chấp trước này đều
không có, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở Tướng khác Ba
la mật đa năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra
sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ
tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ,
vị lai, hiện tại vì hành đạo đây nên đã được, sẽ được, nay được Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử,
chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Với trong đều
không phân biệt chấp trước, là tác nghĩ nầy: Đây là bốn niệm trụ thảy, do
đây, vì đây mà tu bốn niệm trụ thảy. Ba phân biệt chấp trước này đều không
có, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở tu bốn niệm trụ thảy,
năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử,
được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ tát Bồ đề,
cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai,
hiện tại vì hành đạo này nên đã được, sẽ được, nay được Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử, chứng vui
Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, an trụ nội không; an trụ ngoại không, ngoại không, nội
ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô
vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn
tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự
tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không,
vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Với trong đều không
phân biệt chấp trước là tác nghĩ này: Đây là nội không thảy, do đây, vì
đây mà trụ nội không thảy. Ba phân biệt chấp trước này đều không có, vì
biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở trụ nội không thảy, năng tự
nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử, được vui
Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ đề Bồ đề, cũng gọi
đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai, hiện tại
hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, an trụ khổ thánh đế, an trụ tập diệt đạo thánh đế. Với
trong đều không phân biệt chấp trước là tác nghĩ này: Đây là khổ thánh đế
thảy, do đây, vì đây mà trụ khổ thánh đế thảy. Ba phân biệt chấp trước này
đều không có, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở trụ khổ
thánh đế thảy, năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình
khiến ra sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư
lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát
quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay được Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh
tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm tu hành bốn tĩnh lự; tu hành bốn vô lượng, bốn vô sắc
định. Với trong đều không phân biệt chấp trước là tác nghĩ này: Đây là bốn
tĩnh lự thảy, do đây, vì đây mà tu bốn tĩnh lự thảy. Ba phân biệt chấp
trước này đều không có, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở
trụ bốn tĩnh lự thảy, năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu
tình khiến ra sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi
tư lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha
tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay được
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả
sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm từ sơ phát tâm, tu hành tám giải thoát, tu hành tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. . Với trong đều không phân biệt
chấp trước là tác nghĩ này: Đây là tám giải thoát thảy, do đây, vì đây mà
Tướng khác tám giải thoát thảy. Ba phân biệt chấp trước này đều không có,
vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở tu tám giải thoát thảy,
năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử,
được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ tát Bồ đề,
cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai,
hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay được Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử, chứng vui Niết
bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, tu hành đà la ni môn, tu hành tam ma địa môn. Với
trong đều không phân biệt chấp trước là tác nghĩ này: Đây là đà la ni môn
thảy, do đây, vì đây mà tu đà la ni môn thảy. Ba phân biệt chấp trước này
đều không có, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở tu đà la ni
môn thảy, năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra
sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ
tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ,
vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay được Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử,
chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, tu hành không giải thoát môn; tu hành vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn. Với trong đều không phân biệt chấp trước là tác
nghĩ này: Đây là không giải thoát môn thảy, do đây, vì đây mà tu không
giải thoát môn thảy. Ba phân biệt chấp trước này đều không có, vì biết tất
cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở tu không giải thoát môn thảy, năng tự
nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử, được vui
Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi
đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai, hiện tại
hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, tu hành Cực hỷ địa, tu hành Ly cấu địa, Phát quang
địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất
động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Với trong đều không phân biệt chấp
trước là tác nghĩ này: Đây là Cực hỷ địa thảy, do đây, vì đây mà tu Cực hỷ
địa thảy. Ba phân biệt chấp trước này đều không có, vì biết tất cả pháp tự
tánh không vậy. Do đây sở tu Cực hỷ địa thảy, năng tự nhiêu ích, cũng năng
nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là
thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát.
Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã
được, sẽ được, nay được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình
đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, tu hành năm nhãn, tu hành sáu thần thông. Với trong
đều không phân biệt chấp trước là tác nghĩ này: Đây là năm nhãn thảy, do
đây, vì đây mà tu năm nhãn thảy. Ba phân biệt chấp trước này đều không có,
vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây sở tu năm nhãn thảy, năng tự
nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử, được vui
Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi
đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai, hiện tại
hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, Tướng khác hành Phật mười lực; tu hành bốn vô sở úy,
bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng. Với trong đều không phân biệt chấp trước là tác nghĩ này: Đây là
Phật mười lực thảy, do đây, vì đây mà tu Phật mười lực thảy. Ba phân biệt
chấp trước này đều không có, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Do đây
sở tu Phật mười lực thảy, năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả
hữu tình khiến ra sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng
gọi tư lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng Bồ tát Ma
ha tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, nay
được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay qua biển
cả sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, tu hành pháp vô vong thất, Tướng khác hành tánh hằng
trụ xả. Với trong đều không phân biệt chấp trước là tác nghĩ này: Đây là
pháp vô vong thất thảy, do đây, vì đây mà tu pháp vô vong thất thảy. Ba
phân biệt chấp trước này đều không có, vì biết tất cả pháp tự tánh không
vậy. Do đây sở tu pháp vô vong thất, năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu
ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện
pháp, cũng gọi tư lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Chúng
Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ
được, nay được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã, sẽ, nay
qua biển cả sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát từ sơ phát tâm, tu hành nhất thiết trí, tu hành đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí. Với trong đây đều không phân biệt chấp trước là tác nghĩ
này: Đây là nhất thiết trí thảy, do đây, vì đây mà tu nhất thiết trí thảy.
Ba phân biệt chấp trước này đều không có, vì biết tất cả pháp tự tánh
không vậy. Do đây sở tu nhất thiết trí thảy, năng tự nhiêu ích, cũng năng
nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là
thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát.
Chúng Bồ tát Ma ha tát quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo đây, nên đã
được, sẽ được, nay được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình
đã, sẽ, nay qua biển cả sanh tử, chứng vui Niết bàn. Thiện Hiện phải biết: Lại có vô
lượng các chúng Bồ tát sở tu công đức đều gọi thiện pháp, cũng gọi tư
lương Bồ tát Bồ đề, cũng gọi đạo Bồ tát Ma ha tát. Các Bồ tát Ma ha tát
cần tu thiện pháp thù thắng như thế khiến rất viên mãn, nới nang chứng
được Nhất thiết trí trí. Cần chứng được Nhất thiết trí trí, mới năng quay
xe Chánh pháp không trái ngược, khiến các hữu tình giải thoát sanh tử,
chứng được rốt ráo thường lạc Niết bàn. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu pháp như vậy là pháp Bồ tát, lại những pháp
nào là pháp Phật ư? Phật bảo: Thiện Hiện! Lời ngươi
hỏi rằng nếu pháp như vậy là pháp Bồ tát, lại những pháp nào là pháp Phật
ấy. Thiện Hiện! Tức pháp Bồ tát cũng là pháp Phật. Nghĩa là các Bồ tát Ma
ha tát đối tất cả pháp giác tất cả tướng. Do đây sẽ được nhất thiết tướng
trí, dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau. Như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác,
đối tất cả pháp đem tương ưng diệu huệ, trong một sát năng như thật biết
như mộng được thấy, nói rộngcho đến như thành tầm hương. Ngắn hiện đẳng giác rồi chứng
được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Như vậy Bồ tát cùng
Phật có khác. Như hai Thánh giả, tuy đồng là Thánh mà có hành, hướng, trụ,
quả sai khác. Như vậy, Thiện Hiện! Nếu trong
vô gián đạo, hành nơi tất cả pháp chưa lìa ám chướng, chưa đến bờ kia,
chưa được tự tại, chưa thời được quả, gọi là Bồ tát Ma ha tát. Nếu trong
giải thoát đạo, hành nơi tất cả pháp đã lìa ám chướng, đã đến bờ kia, đã
được tự tại, đã thời được quả, gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát có
khác cùng Phật. Tuy ngôi vị có khác, mà đạo pháp không riêng. Khi ấy cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tướng đều không. Trong tự
tướng không, làm sao có nhiều thứ sai khác được, rằng đây là địa ngục, đây
là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là trời, đây là người, đây là bậc Chủng
tánh, đây là bậc Đệ bát, đây là Dự lưu, đây la Nhất lai, đây là Bất hoàn,
đây là Aj la hán, đây là Độc giác, đây là Bồ tát Ma ha tát, đây là Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác? Bạch Thế Tôn! Thuyết ra như
thế, bổ đẳc già la chẳng khá được. Kia gây ra nghiệp cũng chẳng khá được.
Nếu gây ra nghiệp cũng chẳng khá được. Nếu gây ra nghiệp đã chẳng khá
được, quả dị thục kia cũng chẳng khá được? Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Như ngươi vừa nói. Tất cả pháp tự tướng không. Trong tự tướng
không, bổ đặc già la sát thủ thú không có, gây ra nghiệp không có, không
có quả dị thục sai khác khá được. Nhưng các hữu tình đối lý tất
cả pháp tự tướng không chẳng năng biết hết được. Do nhân duyên này tạo tác
các nghiệp. Nghĩa là tạo tội nghiệp hoặc tạo phước nghiệp, hoặc tạo bất
động nghiệp, hoặc tạo vô lậu nghiệp. Vì tạo tội nghiệp nên hoặc đọa địa
ngục, hoặc đọa bàng sanh, hoặc đọa quỷ giới. Vì tạo phước nghiệp nên hoặc
sanh thú người, hoặc sanh trời cõi Dục. Vì tạo bất động nghiệp nên hoặc
sanh cõi Sắc, hoặc sanh cõi Vô sắc. Vì tạo vô lậu nghiệp nên hoặc được quả
Thanh văn, hoặc dược quả Độc giác. Nếu biết các pháp tự tướng đều
không, hoặc vào bậc Bồ tát Ma ha tát, hoặc chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề. Bởi nhân duyên này, các Bồ tát Ma ha tát Tướng khác hành bố thí Ba la
mật đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương
tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa. An trụ nội không; an trụ ngoại
không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi
không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh
không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả
đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo
chi. An trụ khổ thánh đế, an trụ tập diệt đạo thánh đế. Tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ . Tu hành đà la ni môn, tam ma địa môn. Tu hành không
giải thoát môn; tu hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Cực hỷ địa, tu hành Ly
cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa,
Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Tu hành năm
nhãn, tu hành sáu thần thông. Tu hành Phật mười lực; tu hành
bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
Phật bất công. Tu hành pháp vô vong thất, tu hành tánh hằng trụ xả. Tu
hành nhất thiết trí, tu hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này đối Bồ đề phần pháp như thế thảy, không đoạn không thuyết Tướng khác
cho viên mãn. Đã viên mãn rồi bèn năng dẫn phát định Kim cương dụ thân trợ
Bồ đề, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, lợi ích an vui vô lượng hữu tình, Những việc làm ra thường không
thất hoại, vì không thất hoại nên chẳng đọa các thú luân hồi sanh tử. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Phật chứng Vô thượng Chánh đẳng giác rồi, vì được pháp
các thú sanh tử chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải vậy. Bạch Thế Tôn! Phật chứng Vô
thượng Chánh đẳng giác rồi, vì được hắc nghiệp, bạch nghiệp, hắc bạch
nghiệp, phi hắc bạch nghiệp chăng? Thiện Hiện! Chẳng phải vậy. Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Phật chẳng được các thú sanh tử và
nghiệp sai khác, làm sao Thiên Đế Thích Thiết: Đây là địa ngục, đây là
bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là trời, đây là người, đây là bậc Chủng
tánh, đây là bậc Đệ bát, đây là Dự lưu, đây la Nhất lai, đây là Bất hoàn,
đây là A la hán , đây là Độc giác, đây là Bồ tát Ma ha tát, đây là Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác? Phật bảo: Thiện Hiện! Các loại
hữu tình tự biết các pháp tự tướng không chăng? Thiện Hiện! đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chẳng biết. Bạch Thiện Thệ! Chẳng biết. Phật nói: Thiện Hiện! Nếu các
hữu tình tự biết các pháp tự tướng không ấy, thời chẳng nên nói Bồ tát Ma
ha tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, phương tiện khéo léo thi
thiết chí giáo, vớt các hữu tình ác thú sanh tử. Thiện Hiện! Vì các hữu tình
chẳng biết các pháp tự tướng không, nên trôi lăn các thú chịu khổ vô
lượng. Vậy nên các Bồ tát Ma ha tát theo chỗ chư Phật, nghe tất cả pháp tự
tướng không rồi, cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, phương tiện khéo
léo thi thiết chí giáo, vớt các hữu tình ác thú sanh tử. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát thường khởi nghĩ này: Chẳng phải tất cả pháp thật có tự tướng như các
ngu phu dị sanh đã chấp. Nhưng kia vì sức phân biệt điên đảo nên trong
chẳng thật có, khởi tưởng thật có. Nghĩa là trong vô ngã mà khởi tưởng
ngã. Với trong vô hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phương tiện
khéo léo thi thiết chí giáo, vớt các hữu tình ác thú sanh tử. , bổ đặc già là, ý sanh, nho
đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, mà khởi tưởng hữu tình cho đến
kiến giả. Với trong vô sắc mà khởi tưởng
sắc, với trong vô thọ tưởng hành thức mà khởi tưởng thọ tưởng hành thức.
Với trong vô nhãn xứ mà khởi tưởng nhãn xứ, với trong vô thi thiết nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ mà khởi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Với trong vô sắc xứ mà
khởi tưởng sắc xứ, với trong vô thanh hương vị xúc pháp xứ mà khởi tưởng
thanh hương vị xúc pháp xứ. Với trong vô nhãn giới mà khởi
tưởng nhãn giới, với trong vô nhĩ tỷ thiệt thân ý giới mà khởi tưởng nhĩ
tỷ thiệt thân ý giới. Với trong vô sắc giới mà khởi tưởng sắc giới, với
trong vô thanh hương vị xúc pháp giới mà khởi tưởng thanh hương vị xúc
pháp giới. Với trong vô nhãn thức giới mà khởi tưởng nhãn thức giới, với
trong vô nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới mà khởi tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý
thức giới. Với trong vô nhãn xúc mà khởi tưởng nhãn xúc, với trong vô nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc mà khởi tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Với trong vô
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ mà khởi tưởng nhãn xúc làm duyên sanh
ra các thọ, với trong vô nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các
thọ. Với trong vô địa giới mà khởi
tưởng địa giới, với trong vô thủy hỏa phong không thức giới mà khởi tưởng
thủy phong không thức giới. Với trong vô nhân duyên mà khởi tưởng nhân
duyên; với trong vô đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên
mà khởi tưởng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Với
trong vô các pháp theo duyên sanh ra mà khởi tưởng các pháp theo duyên
sanh ra. Với trong vô vô minh mà khởi
tưởng vô minh; với trong vô hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,
thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não mà khởi tưởng hành cho đến lão
tử sầu thán khổ ưu não. Với trong vô pháp thế gian mà
khởi tưởng pháp thế gian, với trong vô pháp xuất thế gian mà khởi tưởng
pháp xuất thế gian. Với trong vô pháp hữu lậu mà khởi tưởng pháp hữu lậu,
với trong vô pháp vô lậu mà khởi tưởng pháp vô lậu. Với trong vô pháp hữu
vi mà khởi tưởng pháp vô vi. Vì sức điên đảo phân biệt như thế nên trong
chẳng that có mà khởi tưởng thật có, hư dối chấp trước đảo loạn nơi tâm,
thân ngữ ý gây các nghiệp thiện ác, chẳng nẳng giải thoát được ác thú sanh
tử. Ta phải cứu vớt khiến được giải thoát. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha
tát khởi nghĩ này rồi tu hành Bát nhã Ba la mật đa. Đem các thiện pháp
nhiếp ở Bát nhã Ba la mật đa, tu hành các hạnh Bồ tát không trái ngược,
lần lữa viên mãn tư lương Bồ đề. Tư lương Bồ đề đã được viên mãn, chứng
được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề . Đã được Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói
khai thị phân biệt kiến lập bốn nghĩa Thánh đế. Rằng là khổ thánh đế; là
khổ tập thánh đế; là khổ diệt thánh đế; là tới khổ diệt đạo thánh đế. Lại
đem tất cả Bồ đề phần pháp nhiếp ở trong bốn thánh đế như vậy. Lại nương
tất cả Bồ đề phần pháp thi thiết an lập Phật Pháp Tăng Bảo. Do ngôi Tam
Bảo này xuất hiện thế gian, các loại hữu tình giải thoát sanh tử. Nếu các
hữu tình chẳng năng quy tín ngôi Phật Pháp Tăng, mà gây các nghiệp, lộn
quanh các thú chịu khổ vô cùng. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì do khổ đế được vào Niết bàn hay do khổ trí
được vào Niết bàn? Vì do tập đế được vào Niết bàn hay do tập trí được vào
Niết bàn? Vì do đạo đế được vào Niết bàn hay do đạo trí được vào Niết bàn
? Phật bảo: Thiện Hiện! Chẳng do
khổ đế được vào Niết bàn, chẳng do khổ trí được vào Niết bàn. Chẳng do tập
đế được vào Niết bàn, chẳng do tập trí được vào Niết bàn. Chẳng do diệt đế
được vào Niết bàn, chẳng do diệt trí được vào Niết bàn. Chẳng do đạo đế
được vào Niết bàn, chẳng do đạo trí được vào Niết bàn. Thiện Hiện! Ta nói bốn thánh đế
tánh bình đẳng tức là Niết bàn. Niết bàn như thế chảng do khổ tập diệt đạo
đế được, cũng chẳng do khổ thập diệt đạo trí được. Chỉ do Bát nhã Ba la
mật đa chứng tánh bình đẳng gọi được Niết bàn. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tánh bốn thánh đế bình đẳng? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu ở chỗ
nào vô khổ vô khổ trí, vô tập vô tập trí, vô diệt vô diệt trí, vô đạo vô
đạo trí, nay tức gọi là tánh bốn Thánh đế bình đẳng. Tánh bình đẳng đây
tức bốn Thánh đế bình đẳng. Tánh bình đẳng đây tức bốn Thánh đế. Sở hữu
chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác,
pháp định, pháp trụ, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, thật tế, hư không giới,
bất tư nghì giới. Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, tánh tướng thường trú,
không mất hoại, không biến đổi. Như vậy gọi là tánh bốn Thánh đế bình
đẳng. Các Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, vì muốn tùy giác tánh bốn thánh đế bình đẳng
này nên tu hành Bát nhã Ba la mật đa. Nếu khi năng tùy giác được tánh bốn
Thánh đế bình đẳng, đây gọi chơn tùy giác tất cả Thánh Đế. Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát vì muốn tùy giác
tánh bốn Thánh đế bình đẳng đây nên tu hành Bát nhã Ba la mật đa? Nếu khi
năng tùy giác được tánh bốn Thánh đế bình đẳng này, tức năng tùy giác tất
cả Thánh đế. Đã năng tùy giác được tất cả Thánh đế, tức năng như thật tu
hạnh Bồ tát. Đã năng như thật tu hành Bồ tát Chánh tánh ly sanh? Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, không có chút pháp nào
chẳng như thật thấy. Khi đối tất cả pháp như thật thấy, đối tất cả pháp
đều vô sở đắc. Khi đối tất cả pháp vô sở đắc thời như thật thấy tất cả
pháp không, nghĩa là như thật thấy bốn đế sở nhiếp và sở bất nhiếp, các
pháp đều không. Khi thấy như thế, năng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh , do
năng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh nên tức trụ trong Bồ tát Chủng tánh địa
tức năng quyết định chẳng từ đỉnh đọa. Nếu từ đỉnh đọa, ưng đọa Thanh văn
hoặc bậc Độc giác. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này an trụ trong Bồ tát Chủng tánh địa, năng khởi bốn tĩnh lự và khởi bốn
vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát Ma ha tát này an trụ xa-ma-tha địa như
thế năng quyết chọn tất cả pháp và tùy giác bốn Thánh đế. Bồ tát Ma ha tát này tuy khắp
biết khổ mà năng chăng khởi tâm duyênn chấp khổ, tuy dứt hẳn tập mà năng
chẳng khởi tâm duyên hấp tập, tuy chứng nơi diệt mà năng chẳng khởi tâm
duyên chấp diệt, tuy tu nơi đạo mà năng chẳng khởi tâm duyên chấp đạo. Chỉ
khởi tâm tùy thuận hướng tới đến vào Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, đối tất
cả pháp quán sát thật tướng. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả quán sát thật tướng là
sao? Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma
ha tát này đối tất cả pháp đều quán là không. Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát
này đối tất cả pháp quán những gì không? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này đối tất cả pháp quán tự tướng không. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này dùng tướng tỳ-bát-xá-na như thế, như thật quán thấy các pháp đều
không, đều chẳng thấy có tự tánh các pháp khá trụ tánh kia chứng được Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề, Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề và tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Tự tánh
như thế chẳng phải chư Phật làm ra, chẳng phải Độc giác làm ra, chẳng phải
Bồ tát làm ra, chẳng phải các Thanh văn hướng, quả làm ra, chỉ bởi hữu
tình đối tất cả pháp chẳng biết chẳng thấy như thật đều không. Do nhân
duyên đây, các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, phương tiện
khéo léo, vì các hữu tình như thật tuyên nói, khiến lìa chấp trước, thoát
khổ sanh tử. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự
tánh; vô tánh như thế chẳng chư Phật làm ra, chẳng Độc giác làm ra, chẳng
Bồ tát làm ra, chẳng A la hán làm ra, chẳng Bất hoàn làm ra, chẳng Nhất
lai làm ra, chẳng Dự lưu làm ra, cũng chẳng các kẻ hướng làm ra như thế
ấy, làm sao thi thiết có các kẻ hướng làm ra như thế ấy, làm sao thi thiết
có các pháp sai khác nhau? Nghĩa là đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây
là quỷ giới, đây là người. Đây là trời Bốn đại vương chúng, đây là trời Bạ
mươi Ba, đây là trời Dạ ma, đây là trời Đổ sử đa, đây là trời Lạc biến
hóa, đây là trời Tha hóa tự tại. Đây là trời Phạm chúng, đây là trời Phạm
phụ, đây là trời Phạm hội, đây là trời Đại phạm. Đây là trời Quang, đây là
trời Thiểu quang, đây là trời Vô lượng quang, đây là trời Cực quang tịnh.
Đây là trời Tịnh, đây là trời Thiểu tịnh, đây là trời Vô lượng tịnh, đây
là trời Biến tịnh. Đây là trời Quảng, đây là trời Thiểu quảng, đây là trời
Vô lượng quảng, đây là trời Quảng quả. Đây là trời Vô tướng, đây là trời
Vô phiền, đây là trời Vô nhiệt, đây là trời Thiện hiện, đây là trời Thiện
kiến, đây là trời Sắc cứu cách. Đây là trời Không vô biên xứ, đây là trời
Thức vô biên xứ, đây là trời Vô sở hữu xứ, đây là trời Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A la
hán, đây là Độc giác, đây là Bồ tát Ma ha tát, đây là Như lai Ứng Chánh
Đẳng Giác? Do nghiệp này nên thi thiết địa
ngục, do nghiệp này nên thi thiết bàng sanh, do nghiệp này nên thi thiết
do quỷ giới. Do nghiệp này nên thi thiết người. Do nghiệp này nên thi
thiết trời Bốn đại vương chúng, do nghiệp này nên thi thiết trời Bốn đại
vương chúng, do nghiệp này nên thi thiết trời Bao mươi ba, do nghiệp này
nên thi thiết trời Bốn đại vương chúng, do nghiệp này nên thi thiết trời
Ba mươi ba, do nghiệp này nên thi thiết trời Dạ ma, do nghiệp này nên thi
thiết trời Lạc biến hóa, do nghiệp này nên thi thiết trời Tha hóa tự tại.
Do nghiệp này nên thi thiết trời Phạm chúng, do nghiệp này nên thi thiết
trời Phạm phụ, do nghiệp này nên thi thiết trời Phạm hội, do nghiệp này
nên thi thiết trời Đại phạm. Do nghiệp này nên thi thiết trời Quang, do
nghiệp này nên thi thiết trời Thiểu quang, do nghiệp này nên thi thiết
trời Vô lượng quang, do nghiệp này nên thi thiết trời Cực quang tịnh. Do
nghiệp này nên thi thiết trời Tịnh, do nghiệp này nên thi thiết trời Tịnh,
do nghiệp này nên thi thiết trời Thiểu tịnh, do nghiệp này nên thi thiết
Biến tịnh. Do nghiệp này nên thi thiết trời Quảng, do nghiệp này nên thi
thiết trời Thiểu quảng, do nghiệp này nên thi thiết trời Vô lượng quảng,
do nghiệp này nên thi thiết trời Quảng quả. Do nghiệp này nên thi thiết
trời Vô tưởng, do nghiệp này nên thi thiết trời Vô phiền, do nghiệp này
nên thi thiết trời Vô nhiệt, do nghiệp này nên thi thiết trời Thiện kiến,
do nghiệp này nên thi thiết trời Thiện hiện, do nghiệp này nên thi thiết
trời Sắc cứu cánh. Do nghiệp này nên thi thiết trời Không vô biên xứ, do
nghiệp này nên thi thiết trời Thức vô biến xứ, do nghiệp này nên thi thiết
trời Vô sở hữu xứ, do nghiệp này nên thi thiết trời Phi tưởng phi phi
tưởng xứ. Do nghiệp này nên thi thiết Dự lưu, do nghiệp này nên thi thiết
Nhất lai, do nghiệp này nên thi thiết Bất hoàn, do nghiệp này nên thi
thiết Bạch Thiện Thệ! la hán, do nghiệp này nên thi thiết Độc giác, do
nghiệp này nên thi thiết Bồ tát Ma ha tát, do nghiệp này nên thi thiết Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh chắc
không có tác dụng, làm sao khá nói được do pháp như thế sanh nơi địa ngục,
do pháp như thế sanh nơi bàng sanh, do pháp như thế sanh nơi quỷ giới. Do
pháp như thế sanh trong nhân đạo. Do pháp như thế sanh trời Bốn đại vương
chúng, do pháp như thế sanh trời Ba mươi ba, do pháp như thế sanh trời Dạ
ma, do pháp như thế sanh trời Đổ sử đa, do pháp như thế sanh trời Lạc biến
hóa, do pháp như thế sanh trời Tha hóa tự tại. Do pháp như thế sanh trời
Phạm chúng, do pháp như thế sanh trời Phạm phụ, do pháp như thế sanh trời
Phạm hội, do pháp như thế sanh trời Đại phạm. Do pháp như thế sanh trời
Quang, do pháp như thế sanh trời Thiểu quang, do pháp như thế sanh trời Vô
lượng quang, do pháp như thế sanh trời Cực quang tịnh. Do pháp như thế
sanh trời Tịnh, do pháp như thế sanh trời Thiểu tịnh, do pháp như thế sanh
trời Vô lượng tịnh, do pháp như thế sanh trời Biến tịnh. Do pháp như thế
sanh Quảng, do pháp như thế sanh trời Thiểu quảng, do pháp như thế sanh
trời Vô lượng quảng, do pháp như thế sanh trời Quảng quả. Do pháp như thế
sanh trời Vô tưởng, do pháp như thế sanh trời Vô phiền, do pháp như thế
sanh sanh trời Vô nhiệt, do pháp như thế sanh trời Thiện Hiện, do pháp như
thế sanh trời Thiện kiến, do pháp như thế sanh trời Sắc cứu cánh. Do pháp
như thế sanh trời Không vô biên xứ, do pháp như thế sanh trời Vô sở hữu
xứ, do pháp như thế sanh trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do pháp như thế
được quả Dự lưu, do pháp như thế được quả Nhất lai, do pháp như thế được
quả Bất hoàn, do pháp như thế được quả A la hán, do pháp như thế được Độc
giác Bồ đề, do pháp như thế được vào ngôi Bồ tát Ma ha tát, do pháp như
thế được thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, khiến các hữu tình giải thoát
sanh tử? Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy,
như vậy. Như ngươi đã nói. Trong pháp vô tánh chẳng khá thi thiết có các
pháp sai khác, không nghiệp không quả, cũng không tác dụng. Thiện Hiện! Ngu phu dị sanh vì
chẳng biết Thánh pháp luật Tỳ nại đây là trời , nên chẳng rõ các pháp đều
lấy vô tánh mà làm tự tánh. Ngu si điên đảo, phát khởi nhiều thứ nghiệp
thân ngữ ý, theo nghiệp sai khác chịu các thứ thân. Nương thân như thế
phẩm loại sai khác, giả thi thiết có địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và
người. Giả thi thiết có trời Bốn đại vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ
ma, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại. Giả thi thiết
có trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm. Giả thi
thiết có trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang
tịnh. Giả thi thiết có trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh,
trời Biến tịnh. Giả thi thiết có trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô
lượng quảng, trời Quảng quả. Giả thi thiết có trời Vô tưởng, trời Vô
phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh.
Giả thi thiết có trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở
hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Thiện Hiện! Vì muốn cứu vớt ngu
phu dị sanh ngu si điên đảo chịu khổ sanh tử, mới thiy thiết Thánh pháp và
luật Tỳ nại đây là trời phần vị sai khác. Nương phần vị đây thi thiết Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát Ma ha tát và các Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhưng tất cả pháp vô đều lấy vô tánh mà làm tự
tánh. Trong pháp vô tánh thật không có pháp sai khác, không nghiệp không
quả, cũng không tác dụng, vì pháp vô tánh thường vô tánh vậy. Lại nữa, Thiện Hiện! Như ngươi
đã nói pháp vô tánh tất vô tác dụng, làm sao khá nói được do pháp như thế
được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, được vào
ngôi Bồ tát Ma ha tát, hành đạo Bồ tát, được thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, khiến các hữu tình giải thoát sanh tử ấy. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi
hiểu sao? Các sở Tướng khác Đạo là vô tánh chăng? Quả Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán là vô tánh chăng? Độc giác Bồ đề là vô tánh chang? Tất
cả đạo Bồ tát Ma ha tát là vô tánh chăng? Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề là vô tánh chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Các sở tu Đạo đều là vô tánh. Quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán cũng là vô tánh. Độc giác Bồ đề cũng là vô tánh, tất cả đạo Bồ tát Ma
ha tát cũng là vô tánh. Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng là vô
tánh. Phật nói: Thiện Hiện! Nơi ý
ngươi hiểu sao? Pháp vô tánh năng được pháp vô tánh chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chẳng được Bạch Thien Thệ! Chẳng được. Phật nói: Thiện Hiện! vô tánh
và Đạo tất cả pháp này đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳngtương ưng, vô
sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Ngu phu dị sanh ngu si
điên đảo, với pháp vô tướng, hư dối phân biệt khởi tướng có pháp, chấp
trước năm uẩn. Với trong vô thường khởi lên tưởng thường, với trong các
khổ khởi lên tưởng vui, với trong vô ngã khởi lên tưởng ngã, với trong bất
tịnh khởi lên tưởng tịnh, với trong vô tánh khởi chấp có tánh. Do nghiệp
này nên thi thiết người nhân duyên này, các Bồ tát Ma ha tát Tướng khác
hành Bát nhã Ba la mật đa trọn nên phương tiện khéo léo thù thắng, cứu vớt
các loại hữu tình như thế, khiến lìa điên đảo hư vọng chấp trước, phương
tiện an để trong pháp vô tướng, khiến siêng Tướng khác học giải thoát sanh
tử, chứng được Niết bàn rốt ráo thường vui. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Vả có việc này là chơn thật chẳng hư dối, ngu phu dị
sanh với trong chấp trước, tạo gây các nghiệp. Do nghiệp này nên thi thiết
người nhân duyên này lộn quanh các thú, chảng năng giải thoát khổ sanh tử
chăng? Phật bảo: Thiện Hiện! Không có
việc ấy, cho đến như lượng đầu sợi lông là chơn thật chẳng hư dối, ngu phu
dị sanh với trong chấp trước tạo gây các nghiệp, do nhân duyên này lộn
quanh các thú, chẳng năng giải thoát các khổ sanh tử. Duy có điên đảo hư
dối chấp trước. Thiện Hiện! Ta nay vì ngươi
rộng nói thí dụ hiển lại nghĩa này khiến ngươi dễ rõ, vì các kẻ có trí do
thí dụ nên đối nghĩa đã nói mà sanh hiểu chính. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu
sao? Trong mộng thấy người hưởng năm dục lạc. Trong mộng vả có phần ít
thật sự khá khiến người kia hưởng dục lạc chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chẳng có. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có. Người được thấy trong mộng hãy
chẳng thật có, huống có thật sự khá khiến người kia hưởng năm dục lạc. Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
ngươi hiểu sao? Vả có các pháp hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu
lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu vi hoặc vô vi, chẳng phải như việc đã thấy trong
mộng chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chảng có. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có. Quyết định không có pháp hoặc thế
gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu vi hoặc vô vi,
chẳng phải như việc đã thấy trong mộng ấy. Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
ngươi hiểu sao? Trong mộng vả có chơn thật các thú, ở trong việc qua lại
sanh tử chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chảng có. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có. Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
ngươi hiểu sao? Trong mộng vả có chơn thật tu đạo kia có lìa tạp nhiễm,
được thanh tịnh chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế
Tôn! Chảng có. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Pháp đã
được thấy trong mộng đều vô thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi
thiết, tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh
tịnh