Hội Thứ Nhất
Phẩm So Lường Công Đức
Thứ 30
– 35
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường; nói tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường. Nói tám
giải thoát hoặc vui hoặc khổ. Nói tám giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã; nói
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói
tám giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như
thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết
này: Kẻ hành bát nhã nên cầu tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường;
nên cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu tám giải thoát hoặc vui hoặc khổ; nên cầu tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu tám giải thoát
hoặc ngã hoặc vô ngã; nên cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu tám giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nên
cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba
la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu
tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường; cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường. Cầu tám giải thoát hoặc
vui hoặc khổ; cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc vui
hoặc khổ. Cầu tám giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã; cầu tám thắng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu tám giải thoát hoặc
tịnh hoặc bất tịnh; cầu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc
tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các pháp đây, Ta gọi tên là hành
hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã
nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm
Vô thượng Bồ đề, nói bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường; nói bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi hoặc thường hoặc vô thường. Nói bốn niệm trụ hoặc vui hoặc khổ;
nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi hoặc vui hoặc khổ. Nói bốn niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã;
nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất
tịnh; nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác
chi, tám thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y
như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết
này: Kẻ hành bát nhã nên cầu bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, nên
cầu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường.
Nên cầu bốn niệm trụ hoặc vui hoặc khổ, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu bốn niệm trụ hoặc ngã hoặc vô
ngã, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc ngã hoặc vô
ngã. Nên cầu bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu bốn chánh đoạn
cho đến tám thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng
cầu như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi
Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu bốn niệm trụ hoặc
thường hoặc vô thường, cầu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc
thường hoặc vô thường. Cầu bốn niệm trụ hoặc vui hoặc khổ, cầu bốn chánh
đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc vui hoặc khổ. Cầu bốn niệm trụ hoặc
ngã hoặc vô ngã, cầu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc ngã
hoặc vô ngã. Cầu bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu bốn chánh đoạn
cho đến tám thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các
pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ
bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường; nói vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường. Nói không
giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ; nói vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
hoặc vui hoặc khổ. Nói không giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã; nói vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói không giải
thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành bát nhã,
đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành bát nhã
nên cầu không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường; nên cầu vô tướng,
vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu không giải
thoát môn hoặc vui hoặc khổ; nên cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu không giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã; nên
cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu
không giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nên cầu vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế
tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu không giải thoát môn hoặc thường
hoặc vô thường; cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô
thường. Cầu không giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ; cầu vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ. Cầu không giải thoát môn hoặc
ngã hoặc vô ngã; cầu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô
ngã. Cầu không giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh; cầu vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các pháp
đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa. Kiều
Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ bát
nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, nói sáu thần thông
hoặc thường hoặc vô thường. Nói năm nhãn hoặc vui hoặc khổ, nói sáu thần
thông hoặc vui hoặc khổ. Nói năm nhãn hoặc ngã hoặc vô ngã, nói sáu thần
thông hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói năm nhãn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói sáu
thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu
hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ
hành bát nhã nên cầu năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu sáu thần
thông hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu năm nhãn hoặc vui hoặc khổ, nên
cầu sáu thần thông hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu năm nhãn hoặc ngã hoặc vô
ngã, nên cầu sáu thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu năm nhãn hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu sáu thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu
có các pháp năng cầu như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la
mật đa. Kiều thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu
năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, cầu sáu thần thông hoặc thường hoặc
vô thường. Cầu năm nhãn hoặc vui hoặc khổ, cầu sáu thần thông hoặc vui
hoặc khổ. Cầu năm nhãn hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu sáu thần thông hoặc ngã
hoặc vô ngã. Cầu năm nhãn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu sáu thần thông hoặc
tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các pháp đây, Ta gọi tên là hành
hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã
nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói Phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường; nói bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng hoặc thường hoặc vô thường. Nói Phật mười lực hoặc vui hoặc khổ;
nói bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng hoặc vui hoặc khổ. Nói Phật mười lực hoặc ngã hoặc
vô ngã; nói bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói Phật mười lực
hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Nếu có các pháp năng y như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la
mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành bát nhã nên cầu Phật mười lực hoặc
thường hoặc vô thường, nên cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu Phật mười lực hoặc vui hoặc khổ,
nên cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc vui hoặc
khổ. Nên cầu Phật mười lực hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu Phật mười
lực hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu
hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu Phật mười lực hoặc thường hoặc vô
thường, cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp phật bất cộng hoặc thường
hoặc vô thường. Cầu Phật mười lực hoặc vui hoặc khổ, cầu bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc vui hoặc khổ. Cầu Phật mười lực hoặc
ngã hoặc vô ngã, cầu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc
ngã hoặc vô ngã. Cầu Phật mười lực hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành
bát nhã y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba
la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở
đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường, nói tánh
hằng trụ xả hoặc thường hoặc vô thường. Nói pháp vô vong thất hoặc vui
hoặc khổ, nói tánh hằng trụ xả hoặc vui hoặc khổ. Nói pháp vô vong thất
hoặc ngã hoặc vô ngã, nói tánh hằng trụ xả hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói pháp
vô vong thất hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói tánh hằng trụ xả hoặc tịnh hoặc
bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát
nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành bát nhã nên cầu pháp vô
vong thất hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu tánh hằng trụ xả hoặc thường
hoặc vô thường. Nên cầu pháp vô vong thất hoặc vui hoặc khổ, nên cầu tánh
hằng trụ xả hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu pháp vô vong thất hoặc ngã hoặc vô
ngã, nên cầu tánh hằng trụ xả hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu pháp vô vong
thất hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu tánh hằng trụ xả hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát
nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như
vậy cầu pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường, cầu tánh hằng trụ xả
hoặc thường hoặc vô thường. Cầu pháp vô vong thất hoặc vui hoặc khổ, cầu
tánh hằng trụ xả hoặc vui hoặc khổ. Cầu pháp vô vong thất hoặc ngã hoặc
vô ngã, cầu tánh hằng trụ xả hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu pháp vô vong thất
hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu tánh hằng trụ xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ
hành bát nhã y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát
nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói
hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô thường; nói đạo nhất
thiết trí hoặc thường hoặc vô thường; nói đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí hoặc thường hoặc vô thường. Nói nhất thiết trí hoặc vui hoặc khồ; nói
đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc vui hoặc khổ. Nói nhất thiết trí
hoặc ngã hoặc vô ngã; nói đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc ngã
hoặc vô ngã. Nói nhất thiết trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y
như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết
này: Kẻ hành bát nhã nên cầu nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô thường;
nên cầu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường.
Nên cầu nhất thiết trí hoặc vui hoặc khổ; nên cầu đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu nhất thiết trí hoặc ngã hoặc
vô ngã; nên cầu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc ngã hoặc vô ngã.
Nên cầu nhất thiết trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nên cầu đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các hành pháp năng
cầu như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi
Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu nhất thiết trí hoặc
thường hoặc vô thường; cầu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường
hoặc vô thường. Cầu nhất thiết trí hoặc vui hoặc khổ; cầu đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí hoặc vui hoặc khổ. Cầu nhất thiết trí hoặc ngã hoặc
vô ngã; cầu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu
nhất thiết trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh; cầu đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các háp đây. Ta gọi
tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như
trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật
đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, nói tất
cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường. Nói tất cả đà la ni môn
hoặc vui hoặc khổ, nói tất cả tam ma địa môn hoặc vui hoặc khổ. Nói tất
cả đà la ni môn hoặc ngã hoặc vô ngã, nói tất cả tam ma địa môn hoặc ngã
hoặc vô ngã. Nói tất cả đà la ni môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói tất cả
tam ma địa môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu
hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ
hành bát nhã nên cầu tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, nên
cầu tất cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu tất cả đà
la ni môn hoặc vui hoặc khổ, nên cầu tất cả tam ma địa môn hoặc vui hoặc
khổ. Nên cầu tất cả đà la ni môn hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu tất cả tam
ma địa môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu tất cả đà la ni môn hoặc tịnh
hoặc bất tịnh, nên cầu tất cả tam ma địa môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu
có các pháp năng cầu như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la
mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu tất
cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, cầu tất cả tam ma địa môn hoặc
thường hoặc vô thường. Cầu tất cả đà la ni môn hoặc vui hoặc khổ, cầu tất
cả tam ma địa môn hoặc vui hoặc khổ. Cầu tất cả đà la ni môn hoặc ngã
hoặc vô ngã, cầu tất cả tam ma địa môn hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu tất cả
đà la ni môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu tất cả tam ma địa môn hoặc tịnh
hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở
đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải
biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc thường hoặc vô thường; nói
Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A
la hán quả hoặc thường hoặc vô thường. Nói Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc
vui hoặc khổ; nói Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn
quả, A la hán hướng A la hán quả hoặc vui hoặc khổ. Nói Dự lưu hướng Dự
lưu quả hoặc ngã hoặc vô ngã; nói Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn
hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói
Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói Nhất lai hướng Nhất
lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả tịnh
hoặc bất tịnh.
Nếu
có các pháp năng y như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật
đa. Lại tác thuyết này; Kẻ hành bát nhã nên cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả
hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả
hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc vui hoặc
khổ, nên cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc vui hoặc khổ. Nên
cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu Nhất lai hướng
cho đến A la hán quả hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu Dự lưu hướng Dự lưu
quả hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả
hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành bát
nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử
thiện nữ nhân, như vậy cầu Dự lưu hương Dự lưu quả hoặc thường hoặc vô
thường, cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc thường hoặc vô
thường. Cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc vui hoặc khổ, cầu Nhất lai hướng
cho đến A la hán quả hoặc vui hoặc khổ. Cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc
ngã hoặc vô ngã, cầu Nhất lai hướng cho đến A la hán quả hoặc ngã hoặc vô
ngã. Cầu Dự lưu hướng Dự lưu quả hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu Nhất lai
hướng cho đến A la hán quả hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các
pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ
bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói tất cả Độc giác Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường. Nói
tất cả Độc giác Bồ đề hoặc vui hoặc khổ. Nói tất cả Độc giác Bồ đề hoặc
ngã hoặc vô ngã. Nói tất cả Độc giác Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu
có các pháp năng y như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật
đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành bát nhã nên cầu tất cả Độc giác Bồ đề
hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc vui hoặc
khổ. Nên cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu tất cả
Độc giác Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế
tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu tất cả Độc Giác Bồ đề hoặc thường
hoặc vô thường. Cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc vui hoặc khổ. Cầu tất cả
Độc giác Bồ đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu tất cả Độc giác Bồ để hoặc ngã
hoặc vô ngã. Cầu tất cả Độc giác Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành
bát nhã y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba
la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở
đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc thường hoặc vô
thường. Nói tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc vui hoặc khổ. Nói tất cả
hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói tất cả hạnh Bồ tát Ma ha
tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành bát
nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành bát
nhã nên cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc thường hoặc vô thường. Nên
cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu tất cả hạnh
Bồ tát Ma ha tát hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha
tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành bát
nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử
thiện nữ nhân, như vậy cầu tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát hoặc thường hoặc
vô thường. Cầu tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát hoặc vui hoặc khổ. Cầu tất
cả hạnh Bồ tát hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc
tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu
sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói,
phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói chư Phật vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thường hoặc vô
thường. Nói chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề hoặc vui hoặc khổ. Nói
chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y
như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát nhã Ba la mật đa. Lại tác thuyết
này: Kẻ hành bát nhã nên cầu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc
thường hoặc vô thường. Nên cầu chư Phật Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc
vui hoặc khổ. Nên cầu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ngã hoặc
vô ngã. Nên cầu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành bát nhã, đây là hành bát
nhã Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như
vậy cầu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường.
Cầu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc vui hoặc khổ. Cầu chư Phật
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành bát nhã y các pháp
đây. Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ bát nhã Ba la mật đa. Kiều
Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ bát
nhã Ba la mật đa.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao các
thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy nói hữu sở đắc tĩnh lự Ba la mật đa, gọi
tên nói tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa? Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề, nói sắc hoặc
thường hoặc vô thường, nói thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô
thường. Nói sắc hoặc vui hoặc khổ, nói thọ tưởng hành thức hoặc vui hoặc
khổ. Nói sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, nói thọ tưởng hành thức hoặc ngã hoặc
vô ngã. Nói sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nói thọ tưởng hành thức tịnh
hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành tĩnh lự, đây là
hành tĩnh lự Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành tĩnh lự, nên cầu
sắc hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu thọ tưởng hành thức hoặc thường
hoặc vô thường. Nên cầu sắc hoặc vui hoặc khổ, nên cầu thọ tưởng hành
thức hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu thọ
tưởng hành thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh,
nên cầu thọ tưởng hành thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng
cầu như thế tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi
Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu sắc hoặc thường hoặc
vô thường, cầu thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường. Cầu sắc
hoặc vui hoặc khổ, cầu thọ tưởng hành thức hoặc vui hoặc khổ. Cầu sắc
hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu thọ tưởng hành thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu
sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu thọ tưởng hành thức hoặc tịnh hoặc bất
tịnh. Kẻ hành tĩnh lự y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc,
tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết
đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, nói nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ hoặc thường hoặc vô thường. Nói nhãn xứ hoặc vui hoặc khổ, nói
nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vui hoặc khổ. Nói nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô
ngã, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói nhãn xứ hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Nếu có các pháp năng y như thế tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la
mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành tĩnh lự, nên cầu nhãn xứ hoặc thường
hoặc vô thường, nên cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu nhãn xứ hoặc vui hoặc khổ, nên cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ
hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất
tịnh, nên cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các
pháp năng cầu như thế tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu nhãn xứ hoặc
thường hoặc vô thường, cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô
thường. Cầu nhãn xứ hoặc vui hoặc khổ, cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc
vui hoặc khổ. Cầu nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu nhĩ tỷ thiệt thân ý
xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tĩnh lự y các pháp đây,
Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi
Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự
Ba la mật đa.
Lại nữa, Kiều Thi
Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề,
nói sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, nói thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc
thường hoặc vô thường. Nói sắc xứ hoặc vui hoặc khổ, nói thanh hương vị
xúc pháp xứ hoặc vui hoặc khổ. Nói sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, nói thanh
hương vị xúc pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất
tịnh, nói thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các
pháp năng y như thế tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa. Lại
tác thuyết này: Kẻ hành tĩnh lự, nên cầu sắc xứ hoặc thường hoặc vô
thường, nên cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường.
Nên cầu sắc xứ hoặc vui hoặc khổ, nên cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc
vui hoặc khổ. Nên cầu sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu thanh hương vị
xúc pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh,
nên cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các
pháp năng cầu như thế tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu sắc xứ hoặc
thường hoặc vô thường, cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô
thường. Cầu sắc xứ hoặc vui hoặc khổ, cầu thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc
vui hoặc khổ. Cầu sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu thanh hương vị xúc
pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu
thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tĩnh lự y các
pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ
tĩnh lự Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường; nói sắc giới, nhãn
thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc
vô thường. Nói nhãn giới hoặc vui hoặc khổ; nói sắc giới, nhãn thức giới
và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nói
nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã; nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc,
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói nhãn giới
hoặc tịnh hoặc bất tịnh; nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp
năng y như thế tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa. Lại tác
thuyết này: Kẻ hành tĩnh lự nên cầu nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường;
nên cầu sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nên cầu nhãn giới hoặc vui hoặc khổ,
nên cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc
khổ. Nên cầu nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu sắc giới cho đến
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu nhãn
giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế
tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam tử, thiện nữ nhân, như vậy cầu nhãn giới hoặc thường hoặc vô
thường, cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc
thường hoặc vô thường. Cầu nhãn giới hoặc vui hoặc khổ, cầu sắc giới cho
đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Cầu nhãn giới
hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các
thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu sắc
giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Kẻ hành tĩnh lự y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ
tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải biết đều là
nói hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa.
Lại
nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm Vô
thượng Bồ đề, nói nhĩ giới hoặc thường hoặc vô thường; nói thanh giới, nhĩ
thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc
vô thường. Nói nhĩ giới hoặc vui hoặc khổ; nói thanh giới, nhĩ thức giới
và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nói nhĩ
giới hoặc ngã hoặc vô ngã; nói thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ
xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói nhĩ giới hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; nói thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên
sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế
tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa. Lai tác thuyết này: Kẻ
hành tĩnh lự, nên cầu nhĩ giới hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu thanh
giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô
thường. Nên cầu nhĩ giới hoặc vui hoặc khồ, nên cầu thanh giới cho đến
nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu nhĩ giới
hoặc ngã hoặc vô ngã, nên cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nên cầu nhĩ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh,
nên cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh
hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng cầu như thế tu hành tĩnh lự, đây là
hành tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ
nhân, như vậy cầu nhĩ giới hoặc thường hoặc vô thường, cầu thanh giới cho
đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Cầu nhĩ
giới hoặc vui hoặc khổ, cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc vui hoặc khổ. Cầu nhĩ giới hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu thanh
giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu
nhĩ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, cầu thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên
sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Kẻ hành tĩnh lự y các pháp đây,
Ta gọi tên là hành hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi Ca!
Như trước đã nói, phải biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la
mật đa.
Lại nữa Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân vì kẻ phát tâm
Vô thượng Bồ đề, nói tỷ giới hoặc thường hoặc vô thường; nói hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc
vô thường. Nói tỷ giới hoặc vui hoặc khổ; nói hương giới, tỷ thức giới và
tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nói tỷ giới
hoặc ngã hoặc vô ngã; nói hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm
duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Nói tỷ giới hoặc tịnh hoặc
bất tịnh; nói hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra
các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các pháp năng y như thế tu hành
tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa. Lại tác thuyết này: Kẻ hành
tĩnh lự, nên cầu tỷ giới hoặc thường hoặc vô thường, nên cầu hương giới
cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Nên
cầu tỷ giới hoặc vui hoặc khổ, nên cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên
sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Nên cầu tỷ giới hoặc ngã hoặc vô ngã,
nên cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc
vô ngã. Nên cầu tỷ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, nên cầu hương giới cho
đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu có các
pháp năng cầu như thế tu hành tĩnh lự, đây là hành tĩnh lự Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân, như vậy cầu tỷ giới
hoặc thường hoặc vô thường, cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh
ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Cầu tỷ giới hoặc vui hoặc khổ, cầu
hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ.
Cầu tỷ giới hoặc ngã hoặc vô ngã, cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên
sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Cầu tỷ giới hoặc tịnh hoặc bất
tịnh, cầu hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh
hoặc bất tịnh. Kẻ hành tĩnh lự y các pháp đây, Ta gọi tên là hành hữu sở
đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa. Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, phải
biết đều là nói hữu sở đắc, tương tợ tĩnh lự Ba la mật đa.
--- o0o ---
Mục Lục Tập 6
Quyển thứ:
|
126|
127|
128|
129|
130|
131|
132
133|
134|
135|
136|
137|
138|
139|
140|
141|
142
143|
144|
145|
146|
147|
148|
149|
150
--- o0o ---
Mục Lục
Tổng Quát Kinh Bát Nhã
Tập: 1
| 2
|
3 | 4 | 5
| 6
| 7 |
8
| 9
| 10
|
11
| 12
13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19 |
20 | 21
| 22
| 23
| 24
--- o0o ---
Vi tính:
Thanh Tâm - Hoàng
Ánh
Cập nhật:
01-01-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục