Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như nói Bồ tát Ma ha tát mặc
giáp Đại thừa ấy, sao là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa?
Phật nói:
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng mặc giáp bố thí cho đến bát nhã Ba
la mật đa, đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Nếu Bồ tát Ma
ha tát năng mặc giáp bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, đấy là Bồ tát
Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Nếu Bồ tát Ma
ha tát năng mặc giáp nội không cho đến vô tánh tự tánh không, đấy là Bồ
tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Nếu Bồ tát Ma
ha tát cho đến năng mặc giáp Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng, đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Nếu Bồ tát Ma
ha tát năng mặc giáp nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Nếu Bồ tát Ma
ha tát năng tự biến thân như hình tượng Phật, phóng đại quang minh soi ba
ngàn cõi, cho đến thế giới các Phật mười phương Căng già sa thảy, làm việc
nhiêu ích cho các hữu tình, đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức như thế thảy, phóng đại
quang minh soi ba ngàn cõi, cho đến thế giới các Phật mười phương Căng già
sa thảy, cũng khiến các cõi kia sáu thứ biến động là động rất động, đẳng
rất động đẳng, vì các hữu tình làm đại nhiêu ích. Thiện Hiện! Đấy là Bồ
tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng mặc giáp đại công đức bố thí Ba la mật đa,
khắp hóa Tam thiên đại thiên thế giới như ngọc phệ lưu ly, cũng hóa tự
thân làm Đại luân vương, bảy báu quyến thuộc, không thứ nào chẳng viên
mãn. Các loại hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo,
cần xe cho xe; cần hương xoa, hương bột, hương đốt, tràng hoa, phòng nhà
đồ nằm, thuốc chữa, đèn đuốc, chơn châu, vàng bạc và những bao các đồ ngọc
báu tư cụ khác, tùy nó cần dùng thảy đều thí cho. Làm thí này rồi, lại vì
tuyên nói pháp tương ưng sáu đến bờ kia, khiến kia nghe rồi trọn chẳng sa
đọa, đến được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thường chẳng bỏ rời pháp tương
ưng sáu đến bờ kia. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại
thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y, ở ngã tư đường, đối trước đại chúng hóa
làm các loại hữu tình nghèo khốn, tùy kia cần dùng đều hóa thí cho. Nơi ý
hiểu sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Năng mặc giáp đại công
đức bố thí Ba la mật đa, hoặc hóa thế giới như phệ lưu ly, hoặc hóa tự
thân làm Luân vương thảy, tùy loại hữu tình cần dùng thí cho, và tuyên nói
pháp tương ưng sáu đến bờ kia. Như vậy Bồ tát dù có sở vi mà không nơi
thật. Vì cớ sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức tịnh giới Ba la mật
đa, vì hữu tình nên sanh nhà Luân vương, nối ngôi Luân vương, giàu sang tự
tại, an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức chúng nơi mười thiện nghiệp đạo;
hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định; hoặc bốn niệm trụ cho đến
tám thánh đạo chi; hoặc không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc
Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng vì tuyên nói các
pháp như thế khiến kia an trụ, đến được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, đối
pháp như thế thường chẳng bỏ rời. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc
giáp Đại thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, đối trước đại chúng
hóa làm vô lượng trăm ngàn hữu tình, khiến nó an trụ mười thiện nghiệp
đạo, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn như
thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Vì hữu tình nên sanh
nhà Luân vương, nối ngôi Luân vương, giàu sang tự tại, an lập vô lượng
trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng nơi mười thiện nghiệp đạo, cho đến mười
tám pháp Phật bất cộng. Như vậy Bồ tát dù có sở vi mà không nơi thật. Vì
cớ sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức an nhẫn Ba la mật đa,
cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp đại
công đức an nhẫn Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Vì
sao Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức an nhẫn Ba la mật đa, cũng
khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp đại công
đức an nhẫn Ba la mật đa?
Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát từ sơ phát tâm đến được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,
mặc giáp an nhẫn, thường khởi nghĩ này: Giả sử tất cả loại hữu tình đều
cầm dao gậy đến sáp gia hại, ta trọn chẳng khởi tâm hờn giận dữ trong một
sát na, khuyên các hữu tình cũng tu nhẫn này.
Thiện Hiện! Bồ
tát Ma ha tát đây như tâm đã nghĩ đều được thành xong, cho đến chứng được
Nhất thiết trí trí thường chẳng bỏ rời an nhẫn như thế; cũng khiến hữu
tình tu nhẫn như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại
thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y ở giữa đường ngã tư, đối trước đại chúng
hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình, hoặc cầm dao gậy gia hại lẫn nhau;
hoặc có khuyên nhau tu hạnh an nhẫn. Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn như thế
là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Tự mặc giáp đại công
đức an nhẫn Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức
chúng khiến mặc giáp đại công đức an nhẫn Ba la mật đa. Như vậy Bồ tát dù
có sở vi mà không nơi thật. Vì cớ sao? Vì tánh tướng các pháp đếu như
huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức tinh tiến Ba la mật
đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp
đại công đức tinh tiến Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao là Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức tinh tiến Ba la mật đa,
cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp đại
công đức tinh tiến Ba la mật đa?
Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm
đầu, thân tâm tinh tiến dứt các ác pháp, tu các thiện pháp, cũng khuyên vô
lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng tu tập thân tâm tinh tiến như thế,
cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng bỏ rời chính siêng như
thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường đối trước đại chúng
hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình tự tu tinh tiến, cũng khuyên người
tu. Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát cũng lại như thế. Đem tác ý tương ưng Nhất thiết
trí trí, đại bi làm đầu, tự tu tinh tiến, cũng khuyên hữu tình khiến tu
tinh tiến. Như vậy, Bồ tát dù có sở vi mà không nơi thật. Vì cớ sao? Vì
tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức tĩnh lự Ba la mật đa,
cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp đại
công đức tĩnh lự Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao là Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức tĩnh lự Ba la mật đa,
cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp đại
công đức tĩnh lự Ba la mật đa?
Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát trụ trong định tất cả pháp bình đẳng, chẳng thấy các
pháp có định có loạn mà thường tu tập tĩnh lự Ba la mật đa như thế, cũng
khuyên hữu tình tu tập tĩnh lự bình đẳng như thế; cho đến chứng được Nhất
thiết trí trí thường chẳng bỏ rời tĩnh lự như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ
tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, đối trước đại chúng
hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình khiến tu tĩnh lự các pháp bình đẳng,
cũng khuyên nhau tu tĩnh lự như thế. Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn như thế
là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Trụ trong định tất cả
pháp bình đẳng, cũng khuyên hữu tình tu định như thế. Như vậy Bồ tát dù
có sở vi mà không nơi thật. Vì cớ sao? Tánh tướng các pháp đều như huyễn
vậy.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức bát nhã Ba la mật đa,
cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp đại
công đức bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao là Bồ tát Ma ha tát tự mặc giáp đại công đức Bát nhã Ba la mật đa,
cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng khiến mặc giáp đại
công đức bát nhã Ba la mật đa?
Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát trụ bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu vô hý luận, chẳng
đắc các pháp hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh, sai khác đây kia;
cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng an trụ huệ vô hý luận
như thế. Đây là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, đối trước đại chúng
hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình; tự mình an trụ huệ vô hý luận, cũng
khuyên người trụ huệ như thế. Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn như thế là có
thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Tự năng an trụ huệ vô
hý luận, cũng khuyên hữu tình trụ huệ như thế . Như vậy Bồ tát dù có sở
vi mà không nơi thật. Vì cớ sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn
vậy.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức như trên đã nói, quan sát
thế giới các Phật mười phương Căng già sa thảy tất cả hữu tình, có các hữu
tình nhiếp thọ tà pháp, làm các ác hành.
Bồ tát Ma ha
tát này dùng sức thần thông tự biến bản thân khắp đầy thế giới các Phật
như thế, tùy hữu tình kia ưa muốn thị hiện, tự hiện tu hành bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Cũng khuyên
người hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la
mật đa. Khuyên các hữu tình hành hạnh này rồi lại tùy âm loại, vì nói
pháp tướng tương ưng sáu thứ Ba la mật đa, khiến kia nghe rồi cho đến
chứng được nhất thiết trí trí thường chẳng bỏ rời diệu pháp như thế.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường đối trước đại chúng
hóa làm các thứ nhiều loại hữu tình, tự mình an trụ sáu đến bờ kia, cũng
khiến khuyên người an trụ pháp này. Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn như thế là
có thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Khắp ở thế giới các
Phật mười phương Căng già sa thảy tự hiện nơi thân tùy nghi an trụ sáu đến
bờ kia, cũng khuyên hữu tình khiến trụ hạnh này thường chẳng bỏ rời. Như
vậy, Bồ tát dù có sở vi mà không nơi thật. Vì cớ sao? Vì tánh tướng các
pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức như trên đã nói, đem tác
ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm
phương tiện, lợi ích an vui tất cả hữu tình, chẳng tạp tác ý Thanh văn,
Độc giác. Bồ tát Ma ha tát này chẳng khởi nghĩ đây: Ta phải an lập ngần
ấy hữu tình nơi bố thí thảy Ba la mật đa, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an
lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình
nơi bố thí thảy Ba la mật đa.
Chẳng khởi
nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi nội không thảy, ngần ấy hữu
tình chẳng nên an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số
vô biên hữu tình nơi nội không thảy.
Chẳng khởi
nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn niệm trụ thảy, ngần ấy
hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô
số vô biên hữu tình nơi bốn niệm trụ thảy.
Chẳng khởi
nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi không giải thoát môn thảy,
ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô
lượng vô số vô biên hữu tình nơi không giải thoát môn thảy.
Chẳng khởi
nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi Phật mười lực thảy, ngần ấy
hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng
vô số vô biên hữu tình nơi Phật mười lực thảy.
Chẳng khởi
nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi quả Dự lưu thảy, ngần ấy hữu
tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số
vô biên hữu tình nơi quả Dự lưu thảy.
Chẳng khởi
nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập
vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.
Thiện Hiện!
Như thợ huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, đối trước đại chúng
hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình, số ấy vô lượng. Tùy nó sở ưng phương
tiện an lập khiến trụ bố thí, cho đến khiến trụ chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Nơi ý hiểu sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp
rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế. Đem tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, an
lập vô lượng vô số vô biên các loại hữu tình khiến trụ bố thí cho đến Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Như vậy Bồ tát dù có sở vi mà không nơi thật.
Vì cớ sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Bấy giờ, Thiện
Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa Phật đã nói đó các
Bồ tát Ma ha tát chẳng mặc giáp công đức, phải biết đấy là mặc giáp Đại
thừa. Vì cớ sao? Vì tất cả pháp tự tướng không vậy. Sở dĩ vì sao?
Bạch Thế Tôn!
Sắc cho đến thức, tướng sắc cho đến thức không. Nhãn xứ cho đến ý xứ,
tướng nhãn xứ cho đến ý xứ không. Sắc xứ cho đến pháp xứ, tướng sắc xứ
xho đến pháp xứ không. Nhãn giới cho đến ý giới, tướng nhãn giới cho đến
ý giới không. Sắc giới cho đến pháp giới, tướng sắc giới cho đến pháp
giới không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, tướng nhãn thức giới cho
đến ý thức giới không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, tướng nhãn xúc cho đến ý
xúc không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ, tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ không.
Bố thí Ba la
mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa, tướng bố thí Ba la mật đa cho đến bát
nhã Ba la mật đa không. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, tướng bốn
niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi không. Nội không cho đến vô tánh tự
tánh không, tướng nội không cho đến vô tánh tự tánh không không.
Như vậy cho
đến Phật mười lực cho đến mười tám Phật bất cộng, tướng Phật mười lực cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Bồ tát Ma ha tát, tướng Bồ tát Ma
ha tát không. Mặc giáp đại công đức, tướng mặc giáp đại công đức không.
Bạch Thế Tôn!
Do nhân duyên này, các Bồ tát Ma ha tát chẳng mặc giáp công đức, phải biết
đấy là mặc giáp Đại thừa.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Thiện Hiện phải biết:
Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Các
Bồ tát Ma ha tát vì việc đây nên mặc giáp Đại thừa.
Cụ thọ Thiện
Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào Nhất thiết trí trí
vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác? Các Bồ tát Ma ha tát vì
việc đây nên mặc giáp Đại thừa?
Phật bảo:
Thiện Hiện! Do các tác giả bất khả đắc, nên Nhất thiết trí trí vô tạo vô
tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Sở dĩ vì sao? Thiện Hiện! Sắc
phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Thọ tưởng hành thức phi tạo
phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Sắc cho đến thức rốt ráo
bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Nhãn xứ phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Nhĩ tỷ thiệt thân ý
xứ phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Nhãn xứ cho
đến ý xứ rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Sắc xứ phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Thanh hương vị xúc
pháp xứ phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Sắc xứ
cho đến pháp xứ rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Nhãn giới phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Nhĩ tỷ thiệt thân
ý giới phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Nhãn giới
cho đến ý giới rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Sắc giới phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Thanh hương vị xúc
phápới phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Sắc
giới cho đến pháp giới rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Nhãn thức giới phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Nhĩ tỷ thiệt
thân ý thức giới phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ
sao? Nhãn thức giới cho đến ý thức giới rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Nhãn xúc phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Nhĩ tỷ thiệt thân
ý xúc phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Nhãn xúc
cho đến ý xúc rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi
chẳng tác. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ phi tạo phi
chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Ngã phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Hữu tình, mạng giả,
sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ
giả, tri giả, kiến giả phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì
cớ sao? Ngã cho đến kiến giả rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Mộng cảnh phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vang, tượng, việc
huyễn, bóng sáng, ánh nắng, không hoa, thành tầm hương, việc biến hóa phi
tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Mộng cảnh cho đến
việc biến hóa rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Nội không phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Ngoại không, nội
ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô
vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không,
tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc
không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không phi tạo phi
chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Nội không cho đến vô tánh tự
tánh không rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Bốn niệm trụ phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi
phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Bốn niệm trụ cho
đến tám thánh đạo chi rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Như thế cho đến Như Lai mười lực phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng
tác. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì
cớ sao? Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo bất
khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Chơn như phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Pháp giới, pháp
tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi
chẳng tác. Vì cớ sao? Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Chơn như phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Pháp giới, pháp
tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi
chẳng tác. Vì cớ sao? Chơn như cho đến thật tế rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Bồ
tát Ma ha tát phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao?
Bồ tát Ma ha tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện!
Nhất thiết trí phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác.
Vì cớ sao? Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí rốt ráo bất
khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Do
nhân duyên đây Nhất thiết trí trí vô tạo vô ác, tất cả hữu tình cũng vô
tạo vô tác. Các Bồ tát Ma ha tát vì việc này nên mặc giáp Đại thừa.
Thiện Hiện! Do nghĩa này nên các Bồ tát Ma ha tát chẳng mặc giáp công đức.
Phải biết đấy là mặc giáp Đại thừa.
Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa Phật đã
nói ấy, sắc không buộc không mở, thọ tưởng hành thức không buộc không mỏ.
Khi ấy, Mãn Từ
Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Tôn giả nói sắc không buộc không mở, nói thọ tưởng
hành thức không buộc không mở ư?
Thiện Hiện đáp
rằng: Như vậy, như vậy. Tôi nói sắc không buộc không mở, nói thọ tưởng
hành thức không buộc không mở.
Mãn Từ Tử nói:
Những gì sắc không buộc không mở? Những gì thọ tưởng hành thức không buộc
không mở?
Thiện Hiện đáp
rằng: Như mộng sắc không buộc không mỡ. Như mộng thọ tưởng hành thức
không buộc không mỡ. Như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng,
như việc huyễn, như không hoa, như thành tầm hương, như việc biến hóa sắc
không buộc không mở. Như vang cho đến như việc biến hóa thọ tưởng hành
thức không buộc không mở. Vì cớ sao? Như vậy, tất cả sắc cho đến thức vô
sở hữu nên không buộc không mở. Xa lìa nên không buộc không mở. Vắng
lặng nên không buộc không mở. Vô sanh nên không buộc không mở. Vô nhiễm
nên không buộc không mở. Vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Quá khứ sắc không buộc không mở. Quá khứ thọ tưởng hành thức không
buộc không mở. Vị lai hiện tại sắc không buộc không mở. Vị lai hiện tại
thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì cớ sao? Như vậy tất cả sắc
cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Xa lìa nên không buộc
không mở. Vắng lặng nên không buộc không mở. Vô sanh nên không buộc
không mở. Vô diệt nên không buộc không mở. Vô nhiễm nên không buộc không
mở. Vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Thiện sắc không buộc không mở. Thiện thọ tưởng hành thức không
buộc không mở. Bất thiện, vô ký sắc không buộc không mở. Bất thiện, vô
ký thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì cớ sao? Như vậy, tất cả
sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Xa lìa nên không buộc
không mở. Vắng lặng nên không buộc không mở. Vô sanh nên không buộc
không mở. Vô diệt nên không buộc không mở. Vô nhiễm nên không buộc không
mở. Vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Thế gian sắc không buộc không mở, thế gian thọ tưởng hành thức
không buộc không mở. Xuất thế gian sắc không buộc không mở, xuất thế
gian thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì cớ sao? Như vậy tất cả
sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Xa lìa nên không buộc
không mở. Vắng lặng nên không buộc không mở. Vô sanh nên không buộc
không mở. Vô diệt nên không buộc không mở. Vô nhiễm nên không buộc không
mở. Vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Hữu lậu sắc không buộc không mở, hữu lậu thọ tưởng hành thức không
buộc không mở. Vô lậu sắc không buộc không mở, vô lậu thọ tưởng hành
thức không buộc không mở. Vì cớ sao? Như vậy tất cả sắc cho đến thức vô
sở hữu nên không buộc không mở. Xa lìa nên không buộc không mở. Vắng
lặng nên không buộc không mở. Vô sanh nên không buộc không mở. Vô diệt
nên không buộc không mở. Vô nhiễm nên không buộc không mở. Vô tịnh nên
không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Tất cả pháp không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì tất cả pháp vô sở
hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên
vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Bố thí Ba la mật đa không buộc không mở. Tịnh giới an nhẫn tinh
tiến tĩnh lự Bát nhã Ba la mật đa không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì bố
thí thảy Ba la mật đa vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh,
nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Nội không không buộc không mở. Ngoại không, nội ngoại không, không
không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh
không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì nội
không thảy vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt,
nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Bốn niệm trụ không buộc không mở. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi không buộc không
mở. Vì cớ sao? Vì bốn niệm trụ thảy vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng,
nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không
mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Như vậy, cho đến Như Lai mười lực không buộc không mở. Bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì Như Lai mười lực thảy vô sở
hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên
vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát không buộc không mở. Chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì hạnh Bồ tát
thảy vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô
nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Nhất thiết trí không buộc không mở. Đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì nhất thiết trí thảy vô sở
hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên
vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Chơn như không buộc không mở. Pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng
tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ,
thật tế không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì chơn như thảy vô sở hữu nên xa
lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh,
nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Bồ tát Ma ha tát không buộc không mở. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
không buộc không mở. Vì cớ sao? Vì Bồ tát Ma ha tát, Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt,
nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn
Từ Tử! Tất cả hữu vi không buộc không mở, tất cả vô vi không buộc không
mở. Vì cớ sao? Vì hữu vi thảy vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô
sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Các
Bồ tát Ma ha tát đối pháp môn vi diệu không buộc không mở, đem vô sở đắc
mà làm phương tiện nên như thật biết.
Mãn Từ Tử! Các
Bồ tát Ma ha tát đối bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa; bốn
niệm trụ cho đến nhất thiết tướng trí không buộc không mở như thế, đem vô
sở đắc mà làm phương tiện nên siêng tu học.
Mãn Từ Tử! Các
Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên trụ bố thí Ba la mật
đa cho đến bát nhã Ba la mật đa; bốn niệm trụ cho đến nhất thiết tướng trí
không buộc không mở như thế.
Mãn Từ Tử! Các
Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên thành thục hữu tình
không buộc không mở. Nên nghiêm tịnh cõi Phật không buộc không mở. Nên
thân cận cúng dường chư Phật không buộc không mở. Nên nghe thọ pháp môn
không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Bồ
tát Ma ha tát này thường chẳng xa lìa chư Phật không buộc không mở, thường
chẳng xa lìa thần thông không buộc không mở, thường chẳng xa lìa năm nhãn
không buộc không mở, thường chẳng xa lìa các đà la ni không buộc không mở,
thường chẳng xa lìa các tam ma địa không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Bồ
tát Ma ha tát này phải khởi đạo tướng trí không buộc không mở. Phải chứng
nhất thiết trí, nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Phải quay xe
pháp không buộc không mở. Phải đem pháp yếu tam thừa không buộc không
mở. An lập các loại hữu tình không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Nếu
Bồ tát Ma ha tát tu hành sáu Ba la mật đa không buộc không mở, năng chứng
tất cả pháp tánh không buộc không mở. Vì vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng
lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc
không mở.
Mãn Từ Tử!
Phải biết Bồ tát Ma ha tát này gọi kẻ mặc áo giáp Đại thừa không buộc
không mở.
Phật bảo:
Thiện Hiện! Câu hỏi trước ngươi rằng những gì là tướng Đại thừa Bồ tát Ma
ha tát ấy. Thiện Hiện! Sáu Ba la mật đa là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha
tát. Những gì là sáu? Là bố thí Ba la mật đa, tịnh giới Ba la mật đa, an
nhẫn Ba la mật đa, tinh tiến Ba la mật đa, tĩnh lự Ba la mật đa, bát nhã
Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao gọi bố thí Ba la mật đa? Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, tự xả
tất cả sở hữu nội ngoại, cũng khuyên người xả sở hữu nội ngoại. Đem căn
lành đây cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát bố thí Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao gọi tịnh giới Ba la mật đa? Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, tự
thọ trì mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người thọ trì mười thiện nghiệp
đạo. Đem căn lành đây cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất
thiết trí trí. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát tịnh giới Ba la mật
đa.
Thiện Hiện!
Sao gọi an nhẫn Ba la mật đa? Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự
đủ an nhẫn tăng thượng, cũng khuyên người đủ an nhẫn tăng thượng. Đem căn
lành đây cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an nhẫn Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao gọi tinh tiến Ba la mật đa? Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự
đối năm Ba la mật đa kia siêng tu chẳng bỏ, cũng khuyên người đối năm Ba
la mật đa kia siêng tu chẳng bỏ. Đem căn lành đây cùng tất cả hữu tình
đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha
tát tinh tiến Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao gọi tĩnh lự Ba la mật đa? Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự
phương tiện khéo léo vào các tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, trọn chẳng theo
thế lực kia thọ sanh; cũng năng khuyên người phương tiện khéo léo vào các
tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, chẳng theo thế lực định kia thọ sanh. Đem căn
lành đây cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát tĩnh lự Ba la mật đa.
Thiện Hiện!
Sao gọi bát nhã Ba la mật đa? Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự
như thật quán sát tất cả pháp tánh, đối các pháp tánh không lấy không đắm;
cũng khuyên người như thật quán sát tất cả pháp tánh, đối các pháp tánh
không lấy không đắm. Đem căn lành đây cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi
hướng Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát bát nhã Ba
la mật đa.
Thiện Hiện
phải biết: Đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy là nội không, ngoại không, nội
ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô
vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không,
tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc
không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Sao gọi nội
không? Nội là nội pháp, tức là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Phải biết trong
đây nhãn do nhãn không, phi thường, phi hoại. Cho đến ý do ý không, phi
thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là
nội không.
Sao gọi ngoại
không? Ngoại là ngoại pháp, tức là sắc thanh hương vi xúc pháp. Phải biết
trong đây sắc do sắc không, phi thường, phi hoại. Cho đến pháp do pháp
không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy. Thiện
Hiện! Đấy là ngoại không.
Sao là nội
ngoại không? Nội ngoại là pháp nội ngoại, tức nội sáu chỗ và ngoại sáu
chỗ. Phải biết trong đây nội pháp do ngoại pháp không, phi thường, phi
hoại. Ngoại pháp do nội pháp không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì
bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là nội ngoại không.
Sao gọi không
không? Không là tất cả pháp không. Không đây lại do không không, phi
thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là
không không.
Sao gọi đại
không? Đại là mưới phương, tức đông tây nam bắc, bốn góc, trên dưới. Phải
biết trong đây, phương đông do phương đông không, phi thường, phi hoại.
Cho đến phương dưới do phương dưới không, phi thường, phi hoại. Vì cớ
sao? Vì bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là đại không.
Sao gọi thắng
nghĩa không? Thắng nghỉa là Niết bàn. Phải biết trong đây Niết bàn do
Niết bàn không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là
vậy. Thiện Hiện! Đấy là thắng nghĩa không.
Sao gọi là hữu
vi không? Hữu vi là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Phải biết trong đây cõi
Dục do cõi Dục không, phi thường, phi hoại. Cõi Sắc, Vô sắc do cõi Sắc,
Vô sắc không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy.
Thiện Hiện! Đấy là hữu vi không.
Sao gọi là vô
vi không? Vô vi là vô sanh vô diệt, vô trụ vô dị. Phải biết trong đây vô
vi do vô vi không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là
vậy. Thiện Hiện! Đấy là vô vi không.
Sao gọi tất
cánh không? Tất cánh là nếu pháp rốt ráo chẳng khá được. Phải biết trong
đây rốt ráo do rốt ráo không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao?
Vì bản tánh
vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là tất cánh không.
Sao gọi vô tế
không? Vô tế là không có thời gian trước sau khá được. Phải biết trong
đây vô tế do vô tế không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh
vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là vô tế không.
Sao gọi tán vô
tán không? Tán là có phóng, có bỏ, có xả khá được, vô tán là không phóng,
không bỏ, không xả khá được. Phải biết trong đây tán vô tán do tán vô tán
không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy. Thiện
Hiện! Đấy là tán vô tán không.
Sao gọi bổn
tánh không? Bổn tánh là hoặc tánh pháp hữu vi, hoặc tánh pháp vô vi; như
vậy tất cả đều chẳng phải Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Như Lai làm ra,
cũng chẳng phải nào khác làm ra, nên gọi bổn tánh. Phải biết trong đây
bổn tánh do bổn tánh không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh
vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là bổn tánh không.
Sao gọi tự
cộng tướng không? Tự tướng là tự tướng tất cả pháp; như biến ngại là tự
tướng sắc, lãnh nạp là tự tướng thọ, lấy tượng là tự tướng tưởng, tạo tác
là tự tướng hành, liễu biệt là tự tướng thức. Như vậy thảy hoặc tự tướng
pháp hữu vi, hoặc tự tướng pháp vô vi, đấy là tự tướng. Cộng tướng là
cộng tướng tất cả pháp; như khổ là cộng tướng pháp hữu lậu, vô thường là
cộng tướng pháp hữu vi, không, vô ngã là cộng tướng tất cả pháp. Như vậy
thảy có vô lượng cộng tướng. Phải biết trong đây tự cộng tướng do tự cộng
tướng không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy.
Thiện Hiện! Đấy là tự cộng tướng không.
Sao gọi nhất
thiết pháp không? Nhất thiết pháp là năm uẩn, mười hai chỗ, mười tám
giới, có sắc không sắc, có kiến không kiến, có đối không đối, có lậu không
lậu, có vi không vi, đấy là nhất thiết pháp. Phải biết trong đây nhất
thiết pháp do nhất thiết pháp không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì
bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện!
Đấy là nhất
thiết pháp không.
Sao gọi bất
khả đắc không? Bất khả đắc là trong đây tìm các pháp chẳng thế được. Phải
biết trong đây bất khả đắc do bất khả đắc không, phi thường, phi hoại. Vì
cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là bất khả đắc không.
Sao gọi vô
tánh không? Vô tánh là trong đây không chút tánh có thể được. Phải biết
trong đây vô tánh do vô tánh không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì
bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là vô tánh không.
Sao gọi là tự
tánh không? Tự tánh là tự tánh các pháp năng hòa hợp. Phải biết trong đây
tự tánh do tự tánh không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh
vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là tự tánh không.
Sao gọi vô
tánh tự tánh không? Vô tánh tự tánh là các pháp không tánh năng hòa hợp
ấy, có tự tánh sở hòa hợp. Phải biết trong đây vô tánh tự tánh do vô tánh
tự tánh không, phi thường, phi hoại. Vì cớ sao? Vì bản tánh vậy là vậy.
Thiện Hiện! Đấy là vô tánh tự tánh không.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Hữu tánh do hữu tánh không. Vô tánh do vô tánh không. Tự tánh do
tự tánh không. Tha tánh do tha tánh không.
Sao gọi hữu
tánh do hữu tánh không? Hữu tánh là pháp hữu vi. Hữu tánh đây do hữu tánh
không.
Sao gọi vô
tánh do vô tánh không? Vô tánh là pháp vô vi. Vô tánh đây do vô tánh
không.
Sao gọi tự
tánh do tự tánh không? Là tất cả pháp đều tự tánh không. Không đây chẳng
phải trí làm ra, chẳng phải kiến làm ra, cũng chẳng phải ai khác làm ra.
Đấy là tự tánh do tự tánh không.
Sao gọi tha
tánh do tha tánh không? Nghĩa là tất cả pháp hoặc Phật ra đời hoặc chẳng
ra đời, pháp trụ, pháp định, pháp tánh, pháp giới, pháp tánh bình đẳng,
pháp tánh ly sanh, chơn như, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, thật
tế, đều do tha tánh nên không. Đấy là tha tánh do tha tánh nên không.
Thiện Hiện
phải biết: Đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát.
Nguồn: www.quangduc.com