Hội Thứ Sáu
Phẩm
Hiển
Ðức
Thứ
11
Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát Ma ha tát rằng: Thiện nam tử! Việc như đấy chẳng
thể nghĩ bàn. Nếu chẳng phải vô lượng trăm ngàn đại kiếp tu nhóm nhiều
công hạnh, trồng các căn lành, thời chẳng được nghe công đức danh tự Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Thiện
nam tử! Mười phương cõi đều như cát Căng già, trong ấy có bao nhiêu cát
các Căng già hay khá biết số được. Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm đã trải kiếp số cúng dường mấy Phật đều chẳng thể biết
được. Thiện
nam tử! Kiếp quá khứ vô lượng vô số vô biên khó nghĩ bàn, có Phật ra đời
tên là Ða Văn, đầy đủ mười hiệu, kiếp tên Tăng Thượng, nước tên Nhật
Quang. Ða Văn Như Lai vì các Bồ tát Ma ha tát thuyết pháp môn trang tịnh,
bảo rằng: Thiện nam tử! Ngươi nên siêng năng tinh tiến tu các pháp lành
chớ kể thân mạng! Khi đó
trong hội kia có một Bồ tát tên Tinh Tiến Lực, liền từ tòa dậy, đảnh lễ
chân Phật, lệch che vai tả, gối hữu chấm đất, chấp tay cung kính mà thưa
Phật rằng: Thế Tôn đã nói ngươi nên tinh siêng tu các pháp lành, chớ kể
thân mạng. Như tôi hiểu nghĩa Phật đã nói đó, các Bồ tát Ma ha tát cần nên
lười biếng chẳng tu pháp lành, mới năng mau chứng Vô thượng Bồ đề. Sở dĩ vì
sao? Nếu các Bồ tát siêng tu các lành, vậy thì chẳng thể trụ lâu sanh tử
lợi vui hữu tình. Nhưng các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đè
dứt phiền não, trụ lâu sanh tử, trọn chẳng tự vì mau chứng Niết bàn, chỉ
vì lợi vui các hữu tình vậy. Bồ tát
ấy ở sanh tử làm vui, chẳng lấy Niết bàn mà làm vui vậy. Vì cớ sao? Vì các
Bồ tát lấy hóa hữu tình mà làm vui vậy. Nghĩa là theo chỗ muốn phương tiện
khéo léo nói trao pháp môn khiến được an vui. Nếu siêng tu thiện bèn mau
hết lậu, chẳng thể lợi vui tất cả hữu tình. Vậy nên Bồ tát quán sát sanh
tử nhiều các khổ não, khởi tâm đại bi chẳng bỏ hữu tình, trọn nên bản
nguyện. Bạch Thế
Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát đủ sức phương tiện ở lâu sanh tử được thấy vô
lượng vô biên Như Lai, nghe thọ vô lượng vô biên Chánh pháp, hóa đạo vô
lượng vô biên hữu tình. Vậy nên, Bồ tát vì việc như thế chẳng nhàm sanh
tử, chẳng vui Niết bàn. Bạch Thế
Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát nếu quán sanh tử mà khởi chán sợ, ưa vui Niết
bàn, thời đọa phi đạo, chẳng thể lợi vui tất cả hữu tình, thông suốt cảnh
giới Như Lai được. Sao gọi
phi đạo? Là ưa Thanh văn và bậc Ðộc Giác, đối loại hữu tình không tâm đại
bi. Sở dĩ vì sao? Vì đạo Thanh văn, Ðộc Giác sở hành chẳng phải đạo các Bồ
tát Ma ha tát. Vì cớ sao? Vì Thanh văn, Ðộc Giác chán sợ sanh tử ưa mến
Niết bàn, chẳng thể đầy đủ phước đức trí huệ, bởi vì nghĩa ấy chẳng phải
đạo Bồ tát! Khi đó
Phật Ða Văn liền bèn khen ngợi Tinh Tiến Lực rằng: Hay thay, hay thay! Như
ngươi đã nói, các Bồ tát Ma ha tát nên tu tự tánh, chớ tập phi đạo. Khi ấy,
Tinh Tiến lực thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Sao gọi Bồ tát tự sở hành đạo? Phật Ða
Văn nói: Bồ tát thành tựu tất cả phước huệ, vì sức đại bi chẳng bỏ hữu
tình, xa lìa Thanh văn và bậc Ðộc Giác. Ðược Vô sanh nhẫn chẳng bỏ ba cõi,
không điều trông mong. Sống lớn căn lành phương tiện khéo léo, tu hành tất
cả Ba la mật đa. Dùng sức trí huệ không tâm phân biệt. Căn lành sống lớn
trọn nên tận trí vô lượng công đức. Mặc dù biết các pháp không một khá
sanh mà phương tiện hiện sanh. Mặc dù biết hữu tình không một thật có mà
phương tiện hóa đạo. Biết tất cả pháp đều lìa tự tánh, quán các cõi Phật
in như hư không mà năng khéo tiện nghiêm tịnh cõi Phật. Biết tất cả Phật
pháp thân không tượng, phương tiện thị hiện tướng hảo trang nghiêm. Tùy
tâm các hữu tình chỗ ưa muốn, tức năng phương tiện mà trao cho đó. Thân
tâm Bồ tát tuy thường vắng lặng mà thuyết các pháp hóa đạo hữu tình. Cũng
dùng khéo tiện xa lìa ồn tạp, tu các tịch định. Biết tự tánh không đều
năng thông suốt trí huệ sâu thẳm. Năng đem phương tiện vì người nói pháp,
chẳng chứng quả Thanh văn, Ðộc Giác thừa. Siêng cầu sở chứng giải thóat
Như Lai, chẳng bỏ tất cả đạo hạnh Bồ tát. Thiện
nam tử! Ðấy gọi Bồ tát tự sở hành đạo. Mạn Thù
Thất Lợi! Khi Tinh tiến Lực theo Như Lai kia thuyết cảnh giới sở hành Bồ
tát được chưa từng có, vội liền lại thưa Ða Văn Phật rằng: Bạch Thế Tôn!
hiếm có! Như tôi hiểu nghĩa Phật đã nói đó, Bồ tát đầy đủ phương tiện khéo
léo quán tất cả pháp không chẳng là đạo. Ví như hư không trùm chứa các
sắc. Như vậy Bồ tát đủ phương tiện lớn, đạo sở hành nhiếp tất cả pháp. Lại như
hư không, tất cả cỏ cây hoa quả cội thơm nhờ đó sống lớn, như vậy các vật
đối cõi hư không chẳng thể nhiễm tịnh, chẳng khiến giận mừng. Như vậy Bồ
tát đủ phương tiện lớn là Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm quán tất cả pháp
thảy đều là đạo. Nghĩa la pháp dị sanh, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Ðộc
Giác, hoặc pháp Bồ tát, hoặc pháp Như Lai. Vì cớ sao? Vì được các Bồ tát
này thông suốt vậy. Ví như
lửa mạnh nếu gặp cỏ cây tất không lui hoàn, vì các cỏ cây này đều thuận
ích cho lửa phát ra ánh sáng. Như vậy các pháp không chẳng đều thuận đạo
Bồ tát, vậy nên gọi là đạo Bồ tát. Ví như
kim cương tự thể rắn chắc, dao không thể bẻ gãy, lửa chẳng thể đốt, nước
chẳng thể bẫy, độc chẳng thể hại. Như vậy Bồ tát phương tiện trí huệ, Ðộc
Giác, Thanh văn và các ngoại đạo, tất cả phiền não chẳng thể hoại được. Như ngọc
thủy thanh năng trong nước đục. Như vậy Bồ tát Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm năng khiến hữu tình tất cả phiền não đều được trong sạch. Ví như
thuốc hay diệu bảo thần châu chẳng ở chung độc, năng tiêu các độc. Như vậy
Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo chẳng ở
chung cùng tất cả phiền não, mà năng đoạn diệt tất cả phiền não. Bởi nhân
duyên này sở hữu các pháp đều là đạo Bồ tát Ma ha tát. Mạn Thù
Thất Lợi! Khi Tinh Tiến Lực kia thuyết pháp này, tám vạn Bồ tát đều phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Hai trăm Bồ tát được Vô sanh pháp nhẫn. Mạn
Thù Thất Lợi! Tinh Tiến Lực kia tức là Tối Thắng thiên vương hôm nay. Bấy giờ,
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Làm sao các Bồ
tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm được sức rắn chắc hộ trì
Chánh pháp? Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát thà bỏ
thân mạng, chẳng bỏ Chánh pháp. Ðối người nhường thấp, chẳng khởi kiêu
mạn. Hèn tiện sỉ nhục, nơi tâm năng nhẫn. Hữu tình đói khát, thí uống ăn
tốt. Kẻ ở nguy nạn, năng cho vô úy. Ðối các tật bệnh chữa trị đúng pháp.
Hữu tình nghèo thiếu, cho nhiều của báu. Linh miếu chư Phật sửa sang gây
dựng nghiêm đẹp. Việc ác che kín, việc thiện rạng rỡ. Hữu tình buồn khổ
thời cho an vui. Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
được sức rắn chắc, hộ trì Chánh pháp. Mạn Thù
Thất Lợi lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Làm sao các Bồ tát Ma ha tát
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng điều phục tâm? Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát hành Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng dự việc người, trước nghĩ sau làm, tâm
tính điều thẳng, lìa hạnh dua vạy, chẳng tự khoe cao, ý thường mềm mại. Bồ
tát Ma ha tát này năng điều phục được tâm. Mạn Thù
Thất Lợi lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật
đa sâu thẳm năng điều phục được tâm sẽ sanh thú nào? Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát hành Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng điều phục tâm hoặc sanh lên trời, hoặc sanh
trong người. Nếu sanh trên trời thời làm Ðế Thích hoặc làm Phạm vương chủ
cõi Kham Nhẫn. Nếu sanh thú người làm vua Chuyển luân hoặc làm các vua
khác, trưởng giả, cư sĩ. Trên trời trong người thường được gặp Phật. Bồ
tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng điều phục tâm
sanh thú như thế. Mạn Thù
Thất Lợi lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Chánh tín chảy ra pháp nào?
Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát: Chánh tín chảy ra được bạn chơn thiện. Bạch Thế
Tôn! Ða văn chảy ra pháp nào? Phật nói: Ða văn chảy ra diệu huệ. Bạch Thế
Tôn! Bố thí chảy ra pháp nào? Phật nói: Bố thí chảy ra giàu lớn. Bạch Thế
Tôn! Tịnh giới chảy ra pháp nào? Phật nói: Tịnh giới chảy ra thú lành. Bạch Thế
Tôn! An nhẫn chảy ra pháp nào? Phật nói: An nhẫn chảy ra chứa nạp tất cả
hữu tình. Bạch Thế
Tôn! Tinh tiến chảy ra pháp nào? Phật nói: Tinh tiến chảy ra năng xong
được tất cả Phật pháp. Bạch Thế
Tôn! Tĩnh lự chảy ra pháp nào? Phật nói: Tĩnh lự chảy ra xa lìa tất cả tán
động. Bạch Thế
Tôn! Bát nhã chảy ra pháp nào? Phật nói: Bát nhã chảy ra xa lìa tất cả
phiền não. Bạch Thế
Tôn! Nghe pháp chảy ra pháp nào? Phật nói: Nghe pháp chảy ra xa lìa tất cả
lưới nghi. Bạch Thế
Tôn! Chánh hỏi chảy ra pháp nào? Phật nói: Chánh hỏi chảy ra diệu trí đối
pháp quyết định. Bạch Thế
Tôn! Ở lặng chảy ra pháp nào? Phật nói: Ở lặng chảy ra thắng định và các
thần thông. Bạch Thế
Tôn! Chánh tu chảy ra pháp nào? Phật nói: Chánh tu chảy ra chánh đạo. Bạch Thế
Tôn! Tiếng vô thường chảy ra pháp nào? Phật nói: Tiếng vô thường chảy ra
đối cảnh không điều nhiếp hộ. Bạch Thế
Tôn! Tiếng khổ chảy ra pháp nào? Phật nói: Tiếng khổ chảy ra không sanh. Bạch Thế
Tôn! Tiếng vô ngã chảy ra pháp nào? Phật nói: Tiếng vô ngã chảy ra diệt
trừ chấp ngã, ngã sở. Bạch Thế
Tôn! Tiếng không chảy ra pháp nào? Phật nói: Tiếng không chảy ra vắng
lặng. Bạch Thế
Tôn! Chánh niệm chảy ra pháp nào? Phật nói: Chánh niệm chảy ra Thánh kiến. Bạch Thế
Tôn! Thân tâm xa lìa chảy ra pháp nào? Phật nói: Thân tâm xa lìa chảy ra
diệu định thần thông. Bạch Thế
Tôn! Thánh đạo chảy ra pháp nào? Phật nói: Thánh đạo chảy ra Thánh quả. Bạch Thế
Tôn! Thắng giải chảy ra pháp nào? Phật nói: Thắng giải chảy ra thành tựu
tất cả giải thoát. Bạch Thế
Tôn! Phật sanh chảy ra pháp nào? Phật nói: Phật sanh chảy ra tất cả phần
pháp Bồ đề. Bấy giờ,
Tối Thắng tiến trước thưa Phật rằng: Sao là Phật sanh? Phật nói: Như phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Bạch Thế
Tôn! Mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác là sao? Phật nói: Thiên vương!
Như sanh đại bi. Bạch Thế
Tôn! Mà sanh đại bi là sao? Phật nói: Chẳng bỏ tất cả hữu tình. Bạch Thế
Tôn! Chẳng bỏ hữu tình là sao? Phật nói: Ðúng như chẳng bỏ Tam Bảo. Bạch Thế
Tôn! Ai được chẳng bỏ Tam Bảo? Phật nói: Tất cả kẻ không phiền não. Bấy giờ,
Tối Thắng bèn thưa Phật rằng: Thế Tôn rất lạ! Thiện Thệ hiếm có! Chư Phật
bí mật thẳm sâu nhiệm mầu, tuy nói pháp không, không sanh không diệt, xưa
nay vắng lặng mà chẳng phá hoại nghiệp quả thiện ác, xa lìa đoạn thường. Bạch Thế
Tôn! Vả có hữu tình nghe pháp như thế chẳng khởi kính tin, sanh hủy báng
chăng? Phật nói: Cũng có. Bạch Thế
Tôn! Hữu tình như thế, nhân đời quá khứ tu hành thiện nghiệp được thọ thân
người, bởi gần bạn ác, đối thâm pháp này chẳng thể kính tin, sanh lòng hủy
báng, thời uổng bỏ thiện nghiệp quá khứ. Ơn đức chư Phật thật là sâu nặng,
giả sử có đem thịt máu mình cúng dường chư Phật cũng chẳng thể đền đáp
được. Nhờ ơn Phật nên chúng ta ngày nay căn lành thêm lớn, được vui đại
pháp, trụ đại tự tại, trời người cung kính. Bạch Thế
Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm nên biết ơn
Phật, gần kề bạn lành, phải tu Phật hạnh, chứng Phật Bồ đề. Khi nói
pháp này trong chúng hai vạn năm ngàn Bồ tát được Vô sanh nhẫn. Bốn vạn
năm ngàn chúng các người trời đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Một
vạn hai ngàn chúng các Thiên tử xa trần lìa bẩn, sanh mắt tịnh pháp.
H
Phẩm
Hiện
Hóa
Thứ
12
Thiên Tư
Bồ tát lại hỏi lời này: Thiên vương khéo hay nói pháp sâu thẳm là Phật
thuở xưa nguyện lực thanh tịnh, cúi xin Thiên vương thỉnh Phật thần lực,
khiến Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lâu trụ thế gian, thường không ẩn mất! Tối
Thắng trả lời: Thiện Tư! Phải biết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tất cả
Như Lai thường chung giữ hộ. Vì cớ sao? Vì văn tự tuyên nói Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm, văn tự như thế chẳng khởi chẳng hết, thường không ẩn mất,
nghĩa kia hiển ra cũng chẳng khởi hết, thường không ẩn mất. Do đây chư
Phật Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm cũng chẳng ẩn mất. Vì cớ sao? Vì pháp
chẳng sanh vậy. Nếu pháp không sanh thời cũng không diệt, tức là giáo lý
chư Phật bí mật. Diệu lý như thế, Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, tánh
tướng yên lặng gọi là chơn như, cũng gọi pháp giới, cũng gọi thật tế,
thuận theo nhân duyên mà chẳng trái nghịch. Ðấy là Chánh pháp, tánh nó
thường trú hẳn không ẩn mất. Thiện Tư
Bồ tát lại hỏi Thiên vương! Những người nào nữa năng hộ Chánh pháp? Tối
Thắng đáp rằng: Nếu kẻ chẳng trái nghịch tất cả pháp năng hộ được Chánh
pháp. Sở dĩ vì sao? Chẳng trái chánh lý, thường không tranh luận, gọi hộ
Chánh pháp. Thiện Tư
hỏi lại: Vì sao gọi là chẳng trái chánh lý thường không tranh luận, gọi hộ
Chánh pháp? Tối Thắng đáp rằng: Nếu thuận văn tự, chẳng trái chánh lý,
thường không tranh luận, gọi hộ Chánh pháp. Vì cớ sao? Vì thế gian ngu phu
đều đắm các kiến. Kẻ thuận chánh lý thời thường nói không. Vậy nên thế
gian chung dấy tranh luận. Như vậy,
đứa ngu mến chuộng pháp có, kẻ thuận chánh lý đối có thời khinh. Thế gian
nói có thường, vui, ngã, tịnh. Kẻ thuận chánh lý nói không thường, khổ,
không ngã, chẳng tịnh. Vậy nên, thế gian chung dấy tranh luận. Các loại
đứa ngu thuận dòng thế gian, kẻ thuận chánh lý nghịch dòng thế gian. Vậy
nên, thế gian chung dấy tranh luận. Thế gian
đứa ngu đắm uẩn giới xứ. Kẻ thuận chánh lý đều không chỗ đắm. Vậy nên thế
gian chung dấy tranh luận. Ðứa ngu thuận đời, chẳng hành chánh lý. Kẻ
thuận chánh lý cùng đời trái nhau, nên thường không tranh gọi hộ Chánh
pháp. Thiện Tư
Bồ tát lại hỏi Tối Thắng: Hôm nay Thiên vương vì lấy chỗ nào? Tối Thắng
đáp rằng: Thiện Tư phải biết: Tôi chẳng lấy ngã cũng chẳng lấy pháp. Thiện Tư
hỏi nữa: Vì sao chẳng lấy? Tối Thắng đáp rằng: Ngã tự tánh lìa, hữu tình
và pháp tự tánh cũng lìa. Các lìa như thế cũng chẳng thể được. Quá khứ tự
tánh lìa, vị lai hiện tại tự tánh cũng lìa. Các lìa như thế cũng chẳng thể
được. Chư Phật tự tánh chẳng lìa, chư Phật tự tánh chẳng phải chẳng lìa.
Cõi chư Phật tự tánh chẳng lìa, cõi chư Phật tự tánh chẳng phải chẳng lìa.
Các pháp tự tánh chẳng lìa, các pháp tự tánh chẳng phải chẳng lìa. Thiện
Tư! Phải biết hành dược như thế gọi thuận chánh lý, không lấy chẳng lấy hộ
được Chánh pháp. Bấy giờ,
Thiện Tư Bồ tát khen Tối Thắng Thiên vương rằng: Hay thay, hay thay! Ðại
Sĩ Chánh sĩ nói được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, không lấy
không đắm, không văn không tự, diệt các hý luận, lìa năng phân biệt và sở
phân biệt. Bấy giờ,
trong chúng có một Thiện Tử tên là Hiền Ðức, từ tòa mà dậy, đảnh lễ chân
Phật, lệch che vai tả, gối hữu chấm đất, chấp tay cung kính mà thưa Phật
rằng: Bạch Thế
Tôn! Tối Thắng Thiên vương đã nói không phân biệt ấy, là vì pháp nào? Phật bảo
Hiền Ðức: Thiện Tử phải biết: Không phân biệt ấy là pháp vắng lặng. Sở dĩ
vì sao? Vì hay lấy bị lấy đều chẳng thể được, chẳng sanh chẳng diệt, là
ngã ngã sở, như thế gọi là pháp không phân biệt. Nếu Bồ tát Ma ha tát quán
như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ. Khi
thuyết pháp đây mười ngàn Bí sô tâm được giải thoát. Hai ngàn Thiện Tử xa
trần lìa bẩn, sanh mắt tịnh pháp. Bấy giờ,
Thiện Tư Bồ tát hỏi Tối Thắng Thiên vương rằng: Những biện tài nào năng
nói được pháp sâu thẳm như thế? Thiên tử
đáp rằng: Kẻ không còn tất cả phiền não, thói quen phiền não, đã được biện
tài năng nói được pháp sâu thẳm như thế. Quá đường ngôn ngữ, chẳng thể
nghĩ bàn, thắng nghĩa diệu trí, biện tài như thế năng nói được pháp sâu
thẳm như thế. Thiện Tư
Bồ tát hỏi Thiên Tử Hiền Ðức rằng: Vì sao trong pháp không sanh đem biện
tài mà nói? Hiền Ðức
Thiên Tử đáp Thiện Tư rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát kẻ chẳng trụ pháp không
sanh không diệt, thời không biện tài nói pháp sâu thẳm. Vì cớ sao? Xa lìa
hý luận, chẳng thấy sở duyên, chẳng thấy năng duyên, tâm không chỗ trụ,
vậy năng nói. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ đây kia, chỉ trụ trong thanh
tịnh thắng nghĩa, vậy nên năng nói. Thiện Tư
Bồ tát lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Rất lạ. Hiền Ðức Thiên tử thật là
hiếm có! Bèn năng thông suốt được pháp sâu thẳm, biện tài vô tận. Phật
nói: Thiện Tư! Hiền Ðức Thiên tử từ chỗ Phật Bất Ðộng thế giới Diệu Hỷ mà
tới thế giới Kham Nhẫn đây nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Các ngươi
phải biết: Hiền Ðức Thiện Tử từng ở vô lượng trăm ngàn ức kiếp tu tập đà
la ni môn hiếm có, nhiều kiếp thuyết pháp cũng chẳng cùng tận. Thiện Tư
Bồ tát lại thưa Phật rằng: Sao gọi đà la ni môn hiếm có? Phật
nói: Thiện Tư! Hiếm có đây ấy gọi đà la ni môn các pháp chẳng vào đà la ni
môn đây quá các văn tự, nói chẳng năng vào, tâm chẳng thể lường, trong
pháp nội ngoại đều chẳng thể được. Thiện
Tư! Phải biết không có chút pháp năng vào đây được, vậy nên gọi là đà la
ni môn các pháp chẳng vào. Sở dĩ vì sao? Pháp đây bình đẳng không cao
không thấp, không vào không ra, không một văn tự từ ngoài mà vào, không
một văn tự từ trong mà ra, không một văn tự trụ trong pháp đây, cũng không
văn tự chung thấy nhau được, cũng chẳng phân biệt pháp khác phi pháp, các
văn tự này nói cũng không bớt, chẳng nói không thêm, từ xưa đến nay trọn
không khởi tác và hoại diệt được. Như các văn tự, tâm cũng như vậy. Như
tâm, tất cả pháp cũng như thế. Vì cớ sao? Vì pháp lìa ngôn ngữ, cũng lìa
nghĩ lường, từ xưa đến nay không sanh không diệt, nên không vào ra. Do đấy
gọi là đà la ni môn các pháp chẳng vào. Nếu kẻ
thông suốt được pháp môn đây, biện tài vô tận. Sở dĩ vì sao? Vì thông suốt
pháp bất đoạn vô tận vậy. Nếu có người năng vào được hư không ấy, thời
năng vào được đà la ni môn đây. Thiện Tư
phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng thông suốt được đà la ni môn đây, tâm
được thanh tịnh, thân ngữ cũng thế. Sở hành thuận lý, Bát nhã Ba la mật đa
vững chắc, các ác ma quân không thể rối được, tất cả ngoại đạo chẳng dám
đối diện, các nghiệp phiền não làm gì hoại được. Thân lực vững vàng, tâm
lìa khiếp nhược, hễ có diễn thuyết biện tài vô tận. Giỏi tuyên diễn thâm
diệu môn các Thánh Ðế. Trí huệ đa văn in như biển cả. An trụ tịch định dụ
núi Diệu cao. Như sư tủ chúa giữa chúng không sợ. Pháp đời chẳng nhiễm
giống tịnh liên hoa. Nhiêu ích hữu tình ví bằng đất lớn. Rửa trừ uế bẩn dụ
như nước lớn. Nên chín thế gian sánh các lửa dữ. Lớn thêm pháp lành đồng
gió lớn kia. Mát mẻ đẹp lòng giống như ánh sáng mặt trăng. Năng phá các
tối hệt như nóng dọi mặt trời. Xả oán phiền não như sĩ uy dũng. Tâm tánh
điều phục in voi chúa lớn. Năng rung sấm pháp rồng lớn làm dụ. Mưa khắp
các pháp ví đó mây lớn. Như đại lương y chữa bệnh phiền não, giống đại
quốc vương giỏi ngự thế gian. Như bốn Thiên vương hộ loài hữu tình và hộ
Chánh pháp. Như trời Ðế Thích đối trong người trời giàu sang hơn hết. Tâm
được tự tại như Ðại phạm vương đối cõi Kham Nhẫn chủ lãnh tự tại. Thân
được không ngại như yết lộ trà. Chỉ giáo hữu tình như thế gian cha. Năng
chảy pháp bảo như tỳ Sa môn năng sanh ra các thứ ngọc quý thế gian. Phước
đức trí huệ lấy làm trang nghiêm, hữu tình kẻ được thấy không chẳng nhờ
ích. Ðược chư Phật Thế Tôn khen ngợi, các chúng trời rồng đều ủng hộ đó. Thiện
Tư! Phải biết các Bồ tát Ma ha tát được đà la ni môn như thế, tức năng tự
tại nhiêu ích hữu tình, phương tiện nói pháp mà chẳng cùng tận. Tâm không
mỏi mệt, chẳng màng lợi dưỡng danh tự. Pháp thí bình đẳng, không có rít
ganh. Thọ trì tịnh giới ba nghiệp không lỗi. An nhẫn thanh tịnh lìa các
giận hại. Tinh tiến thanh tịnh ra làm thành lập. Tĩnh lự thanh tịnh khéo
điều phục tâm. Bát nhã thanh tịnh hẳn không nghi ngờ. Ðủ bốn vô lượng như
Ðại phạm vương. Năng khéo tu hành đẳng trì đẳng chí. Vào ra tự tại hơn các
thế gian. Tu nhân Ðại giác đủ các phước huệ. Thọ ngôi Quán đảnh được tự
tại lớn. Khi Phật
thuyết môn tổng trì như thế, sáu vạn bốn ngàn Bồ tát trong chúng được
chẳng quay lui. Ba vạn Bồ tát được Vô sanh nhẫn. Hai vạn trời người xa
trần lìa bẩn, sanh mắt tịnh pháp. Vô lượng vô biên người trời các chúng
đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.
H
Phẩm
Ðà La Ni
Thứ
13
Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Công đức như thế, giả sử Như
Lai nói trăm ngàn năm cũng chưa hết được. Bấy giờ
trong chúng có một Bồ tát tên Tịch Tĩnh Huệ liền thưa Mạn Thù Thất Lợi Bồ
tát Ma ha tát rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát chứng được đà la ni môn như thế,
được Phật Thế Tôn khen ngợi, Bồ tát như thế khéo được lợi lớn, tự hành hóa
người thảy đều chẳng luống. Khi đó,
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát bảo Tịch Tĩnh Huệ Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Trong
thắng nghĩa đế không pháp đang khen, bởi không sắc không tướng. Cái không
sắc tướng có nào khen được? Vì không đáng khen được đối nào vui mừng? Khi ấy,
Tịch Tĩnh Huệ lại khởi lời này: Tôi nghe trong khế kinh Như Lai nói tự
tánh các pháp không ngã ngã sỏ, không thể khiến mừng, cũng không khiến
giận, pháp đấy bình đẳng, Bồ tát nên học. Ví như đại địa nương dựa thủy
luân, nếu đào ao giếng được nước thọ dụng, kìa kẻ không đào không đâu được
nước. Như thế, Thánh trí pháp cảnh bình đẳng khắp tất cả pháp, nếu có
siêng tu Bát nhã khéo tiện tức bèn chứng được, kia kẻ chẳng tu làm sao
được gì? Vậy nên, Bồ tát muốn cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên
lười biếng. Nếu siêng tinh tiến, đã nói pháp cảnh bình đẳng như thế thời
hiện tại trước mắt. Như
người mù bụng mẹ chẳng thể thấy sắc, như vậy phiền não làm hữu tình mù,
đối pháp bình đẳng chẳng thể thấy được. Như người có mắt không ánh sáng
ngoài, chẳng thể xem thấy sở hữu sắc tượng, như vậy hình nhân tuy có trí
huệ, nếu không bạn lành chẳng thể thấy pháp. Như có thiên nhãn chẳng nhờ
ánh sáng ngoài tự thấy được sắc, như thế Bồ tát kẻ dự dòng pháp tự nhiên
thắng tiến. Ví như thế gian kẻ ở thai tạng tuy lớn thêm dần mà chẳng tự
thấy, như thế Bồ tát kẻ tinh siêng tinh tiến các hạnh thêm dần cũng chẳng
tự thấy, mà năng thành xong được tất cả Phật pháp. Như
trong núi tuyết cây thuốc có quả, nhánh nhóc cọng thân cây chẳng khô chẳng
gãy, như thế Bồ tát siêng tu tinh tiến có bao thắng hạnh chẳng lui chẳng
mất. Như vua Chuyển luân xuất hiện nơi đời đủ bảy của báu, như thế Bồ tát
phát tâm Bồ đề đủ bảy pháp bảo, chỗ gọi bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã, xảo tiện. Như xưa Chuyển luân dạo cõi bốn châu,
đối loại hữu tình nơi tâm bình đẳng, như thế Bồ tát đem bốn nhiếp sự nhiêu
ích hữu tình, tâm thường bình đẳng. Như vua Chuyển luân tùy ở chỗ nào thời
không tranh kiện, như thế Bồ tát như thật nói pháp cũng không tranh luận.
Ví như thế giới Tam thiên đại thiên mới thành, tức có núi chúa Diệu Cao và
những biển cả, như thế Bồ tát sơ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tức
có Bát nhã và những đại bi. Ví như trời mọc, những chỗ núi cao ánh sáng
soi nước, như thế Bồ tát được đuốc Bát nhã, có những Bồ tát cao hạnh căn
thục, trước nhờ soi sáng. Ví như đại địa năng khắp chở cõng tất cả cỏ cây
hoa quả cây thuốc thảy đều bình đẳng, như thế Bồ tát chứng được đà la ni
môn như thế, đối các hữu tình nơi tâm bình đẳng. Bấy giờ,
Phật khen Tịch Tĩnh Huệ rằng: Hay thay, hay thay! Như ngươi đã nói. Các Bồ
tát Ma ha tát nếu được đà la ni như thế, có các nói ra một văn một tự
không chẳng lời Phật. Nói ra như thế xa lìa sắc thanh hương vị xúc pháp. Vì cớ
sao? Vì pháp nói ra đây chẳng phải thế tục vậy, không hết không ngằn, năng
dẫn tất cả thân tâm lanh nhẹ. Giả sử đối trước trăm ngàn Phật mà nói, cũng
không khiếp nhược. Sở dĩ vì
sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này được Phật gia trì vậy. Tâm không chỗ đắm, là
chẳng đắm ngã, chẳng đắm hữu tình, chẳng đắm các pháp. Do đây chứng được
thanh tịnh chơn như, thanh tịnh pháp giới, thanh tịnh thật tế, được pháp
vô tận, văn tự vô tận, biện nói vô tận. Bấy giờ, tức sanh vui mừng đẹp lạ,
vì được diệu huệ vậy, vì được diệu trí vậy, vì không lưới nghi vậy. Chính
lúc Phật nói môn tổng trì đây tám ngàn Bồ tát đều được đà la ni môn các
pháp chẳng vào như thế. Lại có một vạn hai ngàn Bồ tát được chẳng quay
lui. Năm ngàn Bồ tát được Vô sanh nhẫn. Một vạn sáu ngàn các chúng Thiên
tử xa trần lìa bẩn, sanh mắt tịnh pháp. Vô lượng vô biên các loài hữu tình
đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Bấy giờ,
Phật bảo Tịch Tĩnh Huệ rằng: Ðà la ni đây năng dẹp chúng ma, xô các ngoại
đạo, hoại người ghét pháp. Ðốt đèn Bát nhã diệt lửa phiền não, hộ kẻ
thuyết pháp khiến đến Niết bàn. Ðiều phục nội tâm, khéo hóa ngoại chúng.
Dung nghi nghiêm chỉnh, kẻ thấy vui mừng. Vì người chánh hành bình đẳng
nói pháp. Như thật quán sát căn tánh hữu tình, trao pháp đúng lúc chẳng
trước chẳng sau. Khi Phật
nói các công đức như thế ở thế giới Tam thiên đại thiên đây tất cả biển
cả, núi chúa Diệu Cao, đất liền các núi thảy đều rung động. Bấy giờ,
trời rưới hoa vi diệu âm, hoa đại vi diệu âm, hoa diệu linh thoại, hoa đại
diệu linh thoại, hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng,
hoa ca mạt la, hoa bôn trà lợi. Các trời trong không đánh các thứ kỹ nhạc. Ðức Thế
Tôn lại bảo Tịch Tĩnh Huệ rằng: Thiện nam tử! Kiếp quá khứ vô lượng vô số
vô biên khó nghĩ bàn, có Phật ra đời tên là Bảo Nguyệt, mười hiệu đầy đủ.
Nước tên là Vô Hủy, kiếp tên là Hỷ Tán. Ðệ tử Thanh văn ba mươi hai ức, đệ
tử Bồ tát vô lượng vô biên. Nhưng Như Lai kia trước không khổ hạnh và việc
hàng ma mà chứng Bồ đề. Khi ấy
trong chúng kia có một Bồ tát tên Bảo Công Ðức đủ diệu biện tài năng vì
hữu tình nói nhiều thứ pháp. Khi đó các đại chúng thỉnh cầu Như Lai kia
chẳng vào Niết bàn, trụ lâu nơi đời, thời Bảo Công Ðức bảo đại chúng rằng:
Chư Phật Thế Tôn không sanh không diệt, cần gì khuyên thỉnh chẳng vào Niết
bàn. Nếu thái hư không vào Niết bàn ấy, Như Lai mới thể vào Ðại Niết bàn.
Sở dĩ vì sao? Vì pháp Như Lai không thành không hoại, không nhiễm không
tịnh, chẳng thế gian chẳng xuất thế gian, chẳng hữu vi chẳng vô vi, chẳng
thường chẳng đoạn. Giả sử
một miệng có mười lưỡi, mỗi mỗi lưỡi này lại sanh trăm lưỡi, mỗi mỗi lưỡi
này lại sanh ngàn lưỡi, cũng chẳng thể nói Như Lai thành hoại, cho đến
chẳng thể nói có thường đoạn được. Thế sao đại chúng khuyến thỉnh cầu mời
Như Lai chẳng vào Niết bàn trụ lâu với đời? Khi Bảo
Công Ðức kia nói pháp đây, tám vạn sáu ngàn các chúng Bồ tát được chẳng
quay lui. Bảy ngàn chúng Bồ tát Ma ha tát đều được đà la ni môn Vô biên
công đức, đà la ni môn Vui lòng, đà la ni môn Không ngại, đà la ni môn Vui
mừng, đà la ni môn Ðại bi, đà la ni môn Yêu trăng, đà la ni môn Trăng
sáng, đà la ni môn Yêu đời, đà la ni môn Trời sáng, đà la ni môn Núi chúa
Diệu cao, đà la ni môn Biển cả sâu rộng, đà la ni môn Công đức bảo vương.
Ba vạn sáu ngàn người trời đại chúng xa lìa trần bẩn, sanh mắt tịnh pháp. Thế Tôn
lại bảo Tịch Tĩnh Huệ rằng: Bảo Công Ðức xưa, nay là thân ngươi. Do nhân
duyên đây ngươi năng nói được các thứ công đức đà la ni môn này. Khi ấy,
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát Ma ha tát nói lên tụng rằng:
Tổng trì như thuốc hay,
Chữa được các bệnh mê.
Cũng bằng cam lồ trời,
Ai uống thường an vui. Khi đó
Công Ðức Hoa Vương Bồ tát Ma ha tát lại nói tụng rằng:
Tổng trì không văn chữ,
Văn chữ hiển tổng trì.
Nhờ Bát nhã đại bi,
Lìa lời dùng lời nói. Bấy giờ,
San Ðổ Sử Ða thiên vương liền từ tòa dậy, đảnh lễ chân phật, lệch che vai
tả, gối hữu chấm đất, chấp tay cung kính mà thưa Phật rằng: Công đức chư
Phật chẳng thể nghĩ bàn, chư Phật nói ra chẳng thể nghĩ bàn. Các Ðại Bồ
tát đã hành thắng hạnh nói ra diệu pháp chẳng thể nghĩ bàn. Các trời chúng
tôi nhờ đời trước đã trồng căn lành sâu dày, được gặp Như Lai nghe thuyết
diệu pháp sâu thẳm như thế. Rồi liền đem vô lượng hương hoa đẹp của trời
dâng rải lên Như Lai để vì cúng dường. Bấy giờ,
Phật bảo Thiên vương kia rằng: Thiên vương phải biết: Các kẻ muốn cúng
dường Phật Thế Tôn phải tu ba pháp: Một là phát tâm Bồ đề. Hai là hộ trì
Chánh pháp. Ba là như giáo tu hành. Thiên
vương phải biết: Nếu kẻ năng tu học được ba pháp đây mới được gọi là chơn
cúng dường Phật. Giả sử Như Lai trụ đời một kiếp nói cúng dường đây đã
được công đức cũng chẳng thể hết. Vậy nên, Thiên vương! Nếu kẻ muốn cúng
dường Phật Thế Tôn đủ ba pháp ấy gọi chơn cúng dường. Thiên
vương phải biết: Nếu có hộ Phật một tụng bốn câu thời là ủng hộ Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề chư Phật quá khứ vị lai hiện tại sở chứng. Vì cớ sao? Vì
chư Phật Thế Tôn sở chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề từ pháp sanh vậy. Kẻ
Pháp cúng dường gọi chơn cúng dường, trong các cúng dường rất là thứ nhất,
của cải cúng dường chỗ chẳng sánh được. Thiên
vương phải biết: Ta nhớ kiếp quá khứ vô lượng vô số khó nghĩ bàn, khi tinh
tiến tu học đạo Bồ tát nghe trời trong hư không nói tụng rằng:
Ðấy thời gọi chơn cúng dường Phật.
Hai người xa lìa vua giặc thảy,
Chỗ chẳng năng xâm kho báu lớn.
Trăm ngàn vạn kiếp pháp khó nghe,
Ðược nghe chẳng trì chẳng thí thảy.
Tâm Ðại Bồ đề hộ Chánh pháp,
Như giáo tu hành tâm vắng lặng.
Lợi mình lợi người tâm bình đẳng,
Ðấy thời gọi chơn cúng dường Phật. Thiên
vương phải biết: Ta ở quá khứ trước nghe tụng đây tức vì người nói. Khi ấy
có tám ngàn các loại hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Vậy nên,
Thiên vương! Ðem pháp cúng dường rất là thứ nhất. Vì cớ sao? Vì chư Phật
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề từ Pháp sanh vậy.
H
Phẩm
Khuyên Răn
Thứ
14 – 1
Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát rằng: Thiện nam tử! Ở đời đương lai khi Chánh pháp
sắp diệt thời phận càng chuyển sâu, có các thiện nam tử thiện nữ nhân từng
ở vô lượng vô biên chỗ Phật, tu hành tịnh giới, tĩnh lự, bát nhã, là Phật
chơn tử năng tin kinh này, chỗ gây công đức chẳng thể xưng kể. Các pháp
thắng thiện từ Bát nhã sanh, nếu có người năng tín thọ chẳng báng, Ta nay
vì ngươi lược đem ví dụ mà nói. Mạn Thù
Thất Lợi! Châu Thiệm Bộ đây lượng vòng quanh bảy ngàn do tuần, bắc rộng
nam hẹp hình giống chiếc rương xe. Người ở trong ấy mặt cũng lại như thế.
Giả sử châu Thiệm Bộ đây đầy rẫy những Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, Ðộc Giác như lúa nếp mè tre lau sậy mía từng thảy, trong không kẽ hở.
Có các thiện nam tử thiện nữ nhân, hết thọ lượng ngắn dài của Thánh chúng
kia, đem những thế gian thượng diệu uống ăn, áo mặc, đồ nằm và thuốc chữa
thảy, khởi lòng rất tịnh phụng thí cúng dường. Sau vào Niết bàn đều thu Xá
lợi khởi xây Bảo tháp, sửa sang cúng dường. Hoặc đem bảy báu đầy châu
Thiệm Bộ chứa đến Phạm cung, đối các Thánh chúng đều phụng thí riêng, bấy
nhiêu bảy báu hết thọ lượng đời mình ngày đêm và ngày đêm nối nhau chẳng
dứt. Mạn Thù
Thất Lợi! Nơi ý hiểu sao? Các thiện nam tử thiện nữ nhân này nhờ nhân
duyên đây được phước nhiều chăng? Mạn Thù
Thất Lợi liền thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ!
Nhiều lắm. Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát: Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân năng đối kinh
đây tín thọ chẳng báng, chỗ được đống phước đối phước thí trước trăm bội
là hơn, ngàn bội là hơn, cho đến cực số bội cũng lại là hơn. Mạn Thù
Thất Lợi! Châu Ðông Thắng Thần lượng vòng quanh tám ngàn do tuần, hình như
bán nguyệt, mặt người cũng thế. Giả sử châu Ðông Thắng Thần những Dự lưu,
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc Giác như lúa nếp mè tre lau sậy mía rừng
thảy, trong không kẽ hở. Có các thiện nam tử thiện nữ nhân, hết thọ lượng
ngắn dài Thánh chúng kia, đem những thứ thế gian thượng diệu uống ăn, áo
mặc, đồ nằm và thuốc chữa thảy, khởi lòng rất tịnh phúng thí cúng dường.
Sau vào Niết bàn đều thu Xá lợi khởi xây Bảo tháp, sửa sang cúng dường.
Hoặc đem bảy báu đầy châu Ðông Thắng Thần chứa đến Phạm cung, đối các
Thánh chúng đều phụng thí riêng, bấy nhiêu bảy báu hết thọ lượng mình ngày
đêm và ngày đêm nối nhau chẳng dứt. Mạn Thù
Thất Lợi! Nơi ý hiểu sao? Các thiện nam tử thiện nữ nhân này nhờ nhân
duyên đây được phước nhiều chăng? Mạn Thù
Thất Lợi liền thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ!
Nhiều lắm. Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát: Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân năng đối kinh
đây tín thọ chẳng báng, chỗ được đống phước nhiều hơn phước thí trước trăm
bội là hơn, ngàn bội là hơn, cho đến cực số bội cũng lại là hơn. Mạn Thù
Thất Lợi! Châu Tây Ngưu Hóa lượng vòng quanh chín ngàn do tuần, hình như
trăng đầy, mặt người cũng thế. Giả sử đầy châu Tây Ngưu Hóa những Dự lưu,
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc Giác như lúa nếp mè tre lau sậy mía rừng
thảy, trong không kẽ hở. Có các thiện nam tử thiện nữ nhân, hết thọ lượng
ngắn dài Thánh chúng kia, đem các thứ thế gian thượng diệu uống ăn, áo
mặc, đồ nằm và thuốc chữa thảy, khởi lòng rất tịnh phụng thí cúng dường.
Sau vào Niết bàn đều thu Xá lợi khởi xây Bảo tháp, sửa sang cúng dường.
Hoặc đem bảy báu đầy châu Tây Ngưu Hóa chứa đến Phạm cung, đối các Thánh
chúng đều phụng thí riêng, bấy nhiêu bảy báu hết thọ lượng mình ngày đêm
và ngày đêm nối nhau chẳng dứt. Mạn Thù
Thất Lợi! Nơi ý hiểu sao? Các thiện nam tử thiện nữ nhân này nhờ nhân
duyên đây được phước nhiều chăng? Mạn Thù
Thất Lợi liền thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ!
Nhiều lắm. Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát: Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân năng đối kinh
đây tín thọ chẳng báng, chỗ được đống phước đối phước thí trước trăm bội
là hơn, ngàn bội là hơn, cho đến cực số bội cũng lại là hơn. Mạn Thù
Thất Lợi! Châu Bắc Câu Lô lượng vòng quanh mười ngàn do tuần, hình nó
vuông chánh, mặt người cũng vậy. Giả sử đầy rẫy Châu Bắc Câu Lô những Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc Giác như lúa nếp mè tre lau sậy mía
rừng thảy, trong không kẽ hở. Có các thiện nam tử thiện nữ nhân, hết thọ
lượng ngắn dài Thánh chúng kia, đem các thứ thế gian thượng diệu uống ăn,
áo mặc, đồ nằm và thuốc chữa thảy, khởi lòng rất tịnh phụng thí cúng
dường. Sau vào Niết bàn đều thu Xa lợi khởi xây Bảo tháp sửa sang cúng
dường. Hoặc đem bảy báu đầy châu Bắc Câu Lô chứa đến Phạm cung, đối các
Thánh chúng đều phụng thí riêng, bấy nhiêu bảy báu hết thọ lượng mình ngày
đêm và ngày đêm nối nhau chẳng dứt. Mạn Thù
Thất Lợi! Nơi ý hiểu sao? Các thiện nam tử thiện nữ nhân này nhờ nhân
duyên này nhờ nhân duyên đây được phước nhiều chăng? Mạn Thù
Thất Lợi liền thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ!
Nhiều lắm. Phật bảo
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát: Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân năng đối kinh
đây tín thọ chẳng báng, chỗ được đống phước đối phước thí trước trăm bội
là hơn, ngàn bội là hơn, cho đến cực số bội cũng lại là hơn.
Nguồn: www.quangduc.com