- KINH
THỦ
LĂNG
NGHIÊM
-
- Thích Duy
Lực
QUYỂN TÁM
- A Nan! Như
vậy chúng sanh trong mỗi loài đều gồm đủ 12 thứ điên
đảo, cũng như dụi mắt thấy hoa đốm lăng xăng, thảy đều
từ diệu tâm sáng tỏ vọng sanh điên đảo, nên có đủ thứ
tư tưởng hư vọng tán loạn như thế. Nay ngươi tu chứng
Tam Ma Địa, đối với bản nhân của tư tưởng tán loạn
ấy, phải lập ba tiệm thứ mới có thế diệt trừ, cũng
như muốn trừ mật độc trong bình để đựng cam lồ, thì
phải dùng nước sôi và tro rửa sạch cái bình, rồi mới
đựng cam lồ.
- Thế nào
gọi là ba tiệm thứ? Một là tu tập trừ các trợ nhân; hai
là chơn tu, nạo sạch chánh tánh (tánh dâm dục); ba là tinh
tấn, xoay ngược hiện nghiệp.
l. Sao gọi
là trợ nhân?
- A Nan! 12
loại chúng sanh trong thế giới, chẳng thể tự sống, phải
nhờ bốn cách ăn để nuôi dưỡng, ấy là: ăn bằng cách
nhai xé như con người; ăn bằng ngửi mùi hơi như quỷ thần;
ăn bằng niệm tưởng như cõi Tứ Thiền và ăn bằng ý thức
như cõi Tứ không, cho nên Phật nói tất cả chúng sanh đều
nhờ sự ăn mà tồn tại.
- A Nan! tất
cả chúng sanh, ăn ngọt thì sống, ăn độc thì chết. Vậy
chúng sanh cầu Tam Ma Địa, nên dứt bỏ ngũ tân của thế
gian, ngũ tân này hễ ăn chín thì phát lòng dâm, ăn sống thì
thêm sân hận. Những người ăn ngũ tân, dù biết giảng giải
mười hai bộ kinh, nhưng mười phương thiên tiên đều chê
mùi hôi thối ấy mà tránh xa; các loài ma quỷ, thừa lúc đang
ăn ngũ tân, liếm môi của họ, người ấy thường ở chung
với quỷ, phước đức ngày càng tiêu mòn, chẳng được lợi
ích.
- Người
ăn ngũ tân mà tu Tam Ma Địa, thì Bồ Tát, Thiên Tiên, mười
phương thiện thần chẳng đến hộ vệ. Đại lực ma vương
có cơ hội hiện ra thân Phật, thuyết pháp cho họ, chê bai
giới cấm, tán thán dâm dục và sân si. Người ấy chết thành
quyến thuộc ma, khi hết phước báo của ma, liền đọa ngục
A Tỳ.
- A Nan! Người
tu đạo Bồ Đề phải dứt hẳn ngũ tân, ấy gọi là tiệm
thứ tu hành tinh tấn thứ nhất.
2. Sao gọi
là nạo sạch Chánh Tánh?
- A Nan! Chúng
sanh muốn vào Tam Ma Địa, trước tiên phải giữ giới trong
sạch, dứt hẳn lòng dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn
đồ nấu chín, chẳng ăn đồ sống.
- A Nan! Người
tu hành nếu chẳng dứt dâm dục và sát sanh, mà muốn ra khỏi
ba cõi thì chẳng có chỗ đúng. Nên phải xem sự dâm dục
như rắn độc, như kẻ thù.
- Trước
tiên phải giữ Tứ khí, Bát khí của giới Thanh Văn, trì thân
chẳng động, sau hành theo luật nghi trong sạch của Bồ Tát,
trì tâm chẳng khởi. Giới cấm đã thành tựu, đối với
thế gian, trọn chẳng còn những nghiệp tương sanh tương sát;
đã chẳng trộm cắp thì chẳng mắc nợ nhau, và khỏi phải
trả nợ của thế gian.
- Người
trong sạch ấy tu Tam Ma Địa, với cái thân của cha mẹ sanh,
chẳng cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương
thế giới, gặp Phật nghe pháp, vâng lãnh thánh chỉ, được
đại thần thông, dạo khắp cõi mười phương, túc mạng trong
sạch, chẳng còn những điều khó khăn nguy hiểm, ấy gọi
là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ hai.
3. Sao gọi
là Xoay ngược Hiện Nghiệp?
- A Nan! Người
giữ giới trong sạch như thế, tâm chẳng tham dâm thì chẳng
dong ruổi theo lục trần bên ngoài, do sự chẳng dong ruổi
tự xoay về bản tánh, đã chẳng duyên theo cảnh trần thì
lục căn chẳng chỗ nương tựa, ngược dòng về Nhất, lục
dụng chẳng thành, mười phương quốc độ sáng suốt trong
sạch, ví như lưu ly, bên trong có trăng sáng (tự chiếu vô
năng sở), thân tâm an lạc, diệu viên bình đẳng, được
đại yên ổn, tất cả mật viên tịnh diệu của Như Lai đều
hiện trong đó, người ấy liền được vô sanh pháp nhẫn.
Từ đó dần dần tùy theo cấp bậc tu chứng an lập thánh
vị, ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ ba.
- A Nan! Thiện
nam tử ấy, dục ái khô cạn, căn và cảnh chẳng duyên nhau,
cái báo thân hiện tiền này chẳng còn tiếp tục sanh nữa,
giữ tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ; tánh trí huệ sáng
suốt chiếu mười phương cõi. Chỉ có cái huệ khô cạn ấy,
gọi là Càn Huệ Địa.
THẬP TÍN
l. Tập khí
tham dục mới cạn, chưa nối được dòng pháp của Như Lai,
tức dùng tâm này chảy vào trung đạo, tánh viên diệu được
mở mang, từ chỗ chơn diệu viên lại phát ra chơn diệu, diệu
tín thường trụ, tất cả vọng tưởng đều dứt sạch, trung
đạo thuần chơn, gọi là Tín Tâm Trụ.
LƯỢC
GIẢI
Khi tham
dục mới cạn, chưa nối được dòng pháp của Như Lai, tức
dùng tâm này chảy vào trung đạo, chẳng nghiêng bên Không,
chẳng nghiêng bên Giả, cũng chẳng trụ nơi Trung đạo, từ
đây khởi quán:
Không,
Giả, Trung, tam đế viên dung, gọi là Viên Diệu; ở đây tâm
thức có thể đến. Khi giác quán đã thành, từ chơn phát
diệu, khế hợp lý viên, thì gọi là Diệu Viên, chỗ này
tâm thức chẳng thể đến. Nếu trung đạo nương theo chơn,
thì sự diệu, chưa phải chơn, từ chơn phát diệu, diệu ấy
mới là Chơn Diệu.
Diệu chưa
phải chơn, nên chẳng thể thường trụ, trung đạo thuần
chơn, nên diệu được thường trụ. Diệu đã thường trụ
thì tất cả vọng tưởng chẳng có chỗ dựa. Nói "Diệu"
là tự cảm thấy bất khả tư nghì, chẳng thể dùng ngôn
ngữ tỏ bày, lòng tin tự tâm rất chơn thật, nên gọi là
Tín Tâm Trụ.
*****
2. Chơn tín
sáng tỏ, tất cả viên thông, ba thứ: ấm (5 ấm), xứ (12
xứ), giới (18 giới), chẳng thể ngăn ngại, như thế cho đến
trong vô số kiếp quá khứ, vị lai, tất cả tập khí xã thân,
thọ thân, thảy đều hiện ra trước mắt và ghi nhớ chẳng
quên, gọi là Niệm Tâm Trụ.
3. Thuần
chơn diệu viên, tinh vi phát dụng, những tập khí từ vô thỉ
đều hóa thành một tâm tinh minh (tinh vi sáng tỏ), từ tinh
minh tiến lên chơn tịnh, gọi là Tinh Tấn Tâm.
4. Tâm tinh
tấn hiện tiền, thuần dùng trí huệ, gọi là Huệ Tâm Trụ.
5. Trí huệ
sáng tỏ, tịch lặng cùng khắp, tịch diệu thường định,
gọi là Định Tâm Trụ.
6. Từ định
tâm phát ra ánh sáng, tánh sáng sâu vào, tiến tới chẳng lui
gọi là Bất Thối Tâm.
7. Tâm an
nhiên tiến tới, duy trì chẳng mất, giao tiếp với tinh thần
của mười phương Như Lai gọi là Hộ Pháp Tâm.
8. Tánh sáng
của Bổn giác được duy trì, hay dùng diệu lực xoay Từ Quang
của Phật về tự tánh, cũng như ánh sáng của hai gương đối
nhau, trong đó, các bóng nhiệm mầu trùng trùng vô tận, gọi
là Hồi Hướng Tâm.
9. Với từ
Quang của Bản Tâm miên mật, an trụ nơi vô vi, vô thượng
trong sạch, thường trụ của Phật, chẳng thể lạc mất,
gọi là Giới Tâm Trụ.
l0. Trụ giới
tự tại, hay dạo khắp mười phương, ở đi tùy nguyện, gọi
là Nguyện Tâm Trụ.
THẬP TRỤ
l. A Nan! Thiện
nam tử ấy, do chân phương tiện phát ra mười bậc tín tâm
kể trên, tâm tinh vi phát ra ánh sáng, mười thứ dụng xen
lẫn nhau, viên dung thành một tâm, gọi là Phát Tâm Trụ.
2. Trong tâm
sáng suốt như lưu ly trong sạch, trong hiện vàng ròng tinh túy,
dùng diệu tâm trước kia sửa sang thành đất địa để đi
đứng (thực hành) gọi là Trị Địa Trụ.
3. Tâm địa
biết khắp, tất cả rõ ràng, đi khắp mười phương, được
chẳng ngăn ngại, gọi là Tu Hành Trụ.
4. Hạnh đồng
với Phật, thọ tinh thần Phật, như cái thân trung ấm tự
tìm cha mẹ, trung ấm dung thông với lòng tin, thầm nhập vào
giống Như Lai, gọi là Sanh Quý Trụ.
5. Đã vào
đạo thai, nối dòng của Phật, như thai đã thành hình, tướng
người đầy đủ, gọi là Phương Tiện Cụ Túc Trụ.
6. Dung mạo
và tâm tướng đều đồng như Phật, gọi là Chánh Tâm Trụ.
7. Thân tâm
dung hợp, ngày càng tăng trưởng gọi là Bất Thối Trụ.
8. Linh tướng
của thập thân nhất thời đầy đủ gọi là Đồng Chơn Trụ.
9. Hình đã
thành, ra khỏi thai, làm con của Phật, gọi là Pháp Vương
Tử Trụ.
10. Khi Pháp
Vương Tử đã trưởng thành, ví như Thái Tử vua Sát Lợi
đến tuổi trưởng thành, sẽ được phụ vương ủy nhiệm
việc nước, nên làm lễ quán đảnh (lễ trưởng thành), gọi
là Quán Đảnh Trụ.
THẬP HẠNH
l. A Nan! Thiện
Nam tử ấy, đã thành con Phật, đầy đủ vô lượng diệu
của đức Như Lai, tùy thuận mười phương chúng sanh, phương
tiện tiếp dẫn, gọi là Hoan Hỉ Hạnh.
2. Hay lợi
ích cho tất cả chúng sanh, gọi là Nhiêu Ích Hạnh.
3. Tự giác
giác tha, được chẳng chống trái, gọi là Vô Sân Hận Hạnh.
4. Tam thế
bình đẳng, mười phương thông đạt, vì được "ý-sanh-thân",
nên tùy mỗi loài chúng sanh mà hiện thân hóa độ cho đến
cùng tột vị lai, gọi là Vô Tận Hạnh.
5. Nơi mỗi
mỗi pháp môn, tất cả hòa đồng, được chẳng sai lầm,
gọi là Ly Si Loạn Hạnh.
6. Nơi tướng
đồng hiện ra nhiều tướng dị; nơi những tướng dị, mỗi
mỗi thấy đồng, gọi là Thiện Hiện Hạnh.
7. Như thế
cho đến vi trần đầy khắp mười phương hư không, trong mỗi
mỗi trần hiện mười phương cõi; hiện trần hiện cõi, chẳng
ngăn ngại nhau, gọi là Vô Trước Hạnh.
8. Các thứ
hiện tiền đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa, gọi là Tôn Trọng
Hạnh.
9. Viên dung
như thế, hay thành tựu quy tắc lợi sanh của mười phương
chư Phật, gọi là Thiện Pháp Hạnh.
10. Mỗi mỗi
đều trong sạch vô lậu, nhất chơn vô vi, bản tánh vốn như
thế, gọi là Chơn Thật Hạnh.
THẬP HỔI
HƯỚNG
l. A Nan! Thiện
nam tử ấy, thần thông đầy đủ, Phật sự đã thành; tự
tánh tinh túy thuần chơn, xa lìa các lỗi lầm, ngay khi hóa
độ chúng sanh mà diệt tướng năng độ, sở độ, hồi tâm
vô vi hướng đạo Niết Bàn, gọi là Cứu Hộ Nhất Thiết
Chúng Sanh, Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng.
2. Hoại cái
có thể hoại, tức xa lìa chúng sanh tướng, tướng xa lìa
cũng phải lìa, vậy tướng hoại thì sở không, lìa cái Lìa
thì năng không; năng sở đều không, bản giác bất hoại,
gọi là Bất Hoại Hồi Hướng.
3. Bản giác
trạm nhiên, tâm giác đồng như Phật giác, gọi là Đẳng
Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.
4. Tinh túy
sáng tỏ, tâm địa đồng như Phật địa, gọi là Chí Nhất
Thiết Xứ Hồi Hướng.
5. Thế giới
và Như Lai xen lộn lẫn nhau, được chẳng ngăn ngại, gọi
là Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng.
6. Nơi đồng
Phật địa, mỗi mỗi sanh ra cái nhân trong sạch, nương nhân
ấy mà phát huy, vào đạo Niết Bàn, gọi là Tùy Thuận Bình
Đẳng Thiện Căn Hồi Hướng.
7. Chơn thiện
căn đã thành, thì mười phương chúng sanh đều là bản tánh
của ta, thành tựu tánh tròn đầy, chẳng bỏ chúng sanh, gọi
là Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng.
8. Tức nơi
nhất thiết pháp, mà lìa nhất thiết tướng cái "tức" cái
"lìa", cả hai đều chẳng dính mắc, gọi là Chơn Như Tướng
Hồi Hướng.
9. Thật đắc
Chơn Như, mười phương vô ngại, gọi là Vô Phược Giải
Thoát Hồi Hướng. (Phược là trói).
l0. Đức
tánh viên mãn thành tựu, số lượng của pháp giới tiêu diệt,
gọi là Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.
TỨ GIA HẠNH
- A Nan! Thiện
nam tử ấy, đã tu xong 41 bậc tâm trong sạch, kế đó thành
tựu bốn thứ gia hạnh diệu viên:
l. Tức đem
Phật giác, dụng làm tự tâm, cũng như dùi cây lấy lửa,
cây chưa đốt cháy, lửa sắp ra mà chưa ra, gọi là Noãn Địa.
2. Lại dùng
tâm mình thành chỗ hành của Phật cũng như người đứng
trên chót núi, toàn thân đã vào hư không, nhưng dưới chân
đôi khi còn hơi dính đất, như có chỗ nương mà chẳng phải
nương, gọi là Đảnh Địa.
3. Tâm với
Phật đồng, khéo đắc trung đạo, như người hay nhẫn nại,
niệm chẳng phân biệt, phi hoài (chẳng nhớ), phi xuất (chẳng
quên), chẳng thể nói ra, gọi là Nhẫn Địa.
4. Số lượng
tiêu diệt, mê, giác và trung đạo đều chẳng thể gán tên,
gọi là Thế đệ Nhất địa.
THẬP ĐỊA
l. A Nan! Thiện
Nam tử ấy, khéo được thông đạt nơi Đại Bồ Đề, chỗ
giác ngộ thông với Như Lai, cùng tột cảnh giới của Phật,
gọi là Hoan Hỷ Địa.
2. Tánh dị
nhập đồng, tánh đồng cũng diệt, gọi là Ly Cấu Địa.
3. Trong sạch
thì phát ra ánh sáng, gọi là Phát Quang Địa.
4. Sáng tỏ
thì giác tánh sung mãn, gọi là Diệm Huệ Địa.
5. Tất cả
đồng dị đều chẳng thể đến, gọi là Nan Thắng Địa.
6. Tánh trong
sạch hiển lộ, Chơn Như vô vi gọi là Hiện Tiền Địa.
7. Cùng tột
bờ bến của Chơn Như, gọi là Viễn Hành Địa.
8. Nhất tâm
chơn như, gọi là Bất Động Địa.
9. Chơn như
phát dụng, gọi là Thiện Huệ Địa.
10. A Nan,
công hạnh tu tập của Bồ Tát từ trước đến đây, công
đức viên mãn, cũng gọi địa này là Tu Tập Vị, tức dùng
đám mây nhiệm mầu, đầy đủ từ bi trí huệ, che chở chúng
sanh, khắp biển Niết Bàn, gọi là Pháp Vân Địa.
ĐẲNG GIÁC
Như Lai ngược
dòng từ quả vị trở lại nhân địa, cứu độ chúng sanh;
Bồ Tát thuận hành từ chúng sanh tu đến quả Phật, thuận
ngược đều giao tiếp nơi Bổn Giác, gọi là Đẳng Giác.
DIỆU GIÁC
- A Nan! Từ
Càn Huệ Tâm đến bậc Đẳng Giác rồi giác ấy mới được
viên mãn nơi Tâm Kim Cang. Bắt đầu từ Càn Huệ Địa từng
lớp tiến lên, trải qua 12 ngôi vị đơn và phức (l) mới
đến Diệu Giác, thành Vô Thượng Đạo.
- Mỗi mỗi
địa ấy, đều lấy trí Kim Cang quan sát mười thứ ví dụ
như huyễn, dùng Xa Ma Tha (chỉ) và Tỳ Bà Xá Na (quán) của
chư Như Lai tu chứng trong sạch lần lượt sâu vào.
- A Nan! Như
thế đều dùng ba tiệm thứ tiến tu, nên khéo thành tựu 55
quả vị trong đạo Bồ Đề chơn thật. Quán như thế gọi
là chánh quán, chẳng quán như thế gọi là tà quán.
Bấy giờ,
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử ở trong chúng, liền đứng
dậy đảnh lễ bạch Phật:
- Thế Tôn!
Nên gọi Kinh này là Kinh gì, con và chúng sanh phải phụng trì
như thế nào?
Phật bảo
Văn Thù Sư Lợi:
- Kinh này
gọi là "Đại Phật Đảnh Thuần Trắng Chẳng Ô Nhiễm, Vô
Thượng Bảo Ấn, Mười Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn",
cũng gọi là "Cứu Hộ Thân Nhân, Độ Thoát A Nan, và Tỳ Kheo
Ni Tánh trong Hội này, đắc Tâm Bồ Đề, vào Biển Biến Tri",
cũng gọi là "Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa", cũng
gọi là "Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương Mười Phương
Phật Mẫu Đà La Ni Chú", cũng gọi là "Quán Đảnh Chương
Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm", các ngươi nên
phụng trì.
Phật nói
xong, tức thời A Nan và đại chúng nhờ Như Lai khai thị ý
nghĩa "Mật Ấn Chẳng Ô Nhiễm" và được nghe những danh hiệu
liễu nghĩa của Kinh này, đốn ngộ diệu lý của Thiền Na,
tiến tu các Thánh vị, tâm niệm rỗng lặng, dứt trừ sáu
phẩm phiền não vi tế trong tam giới.
A Nan liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay
cung kính bạch Phật rằng:
- Thế Tôn
có oai đức lớn, từ âm vô ngại, khéo khai phá những mê
hoặc vi tế của chúng sanh khiến con hôm nay thân tâm an lạc,
được lợi ích lớn.
- Thế Tôn!
Nếu diệu tâm sáng tỏ này vốn viên mãn cùng khắp, như thế
cho đến đất đai, cỏ cây sâu bọ, hàm linh, bản tánh chơn
như, tức là chơn thể thành Phật của Như Lai; vậy Phật
thể chơn thật, tại sao lại có các đạo địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, tu la, loài người và trời? Thế Tôn, lục đạo
này vốn tự có, hay là do tập khí hư vọng của chúng sanh
mà sanh khởi?
- Thế Tôn!
Như Tỳ Kheo Ni Bửu Liên Hương trì Giới Bồ Tát, lén hành
dâm dục, vọng nói hành dâm, chẳng phải sát sanh và trộm
cắp, chẳng có nghiệp báo. Nói xong, nơi nữ căn liền sanh
ngọn lửa lớn, rồi từng đốt xương lại bị bừng cháy,
đọa ngục A Tỳ.
- Như vua
Lưu Ly, và Tỳ Kheo Thiện Tinh: Lưu Ly thì giết hại hết dòng
họ Cù Đàm; Thiện Tinh thì vọng nói tất cả pháp đều Không
(đoạn diệt Không) đang sống bị đọa vào ngục A Tỳ.
- Các địa
ngục ấy, là có chỗ nhất định hay chẳng định? Mỗi người
gây nghiệp nhân, mỗi mỗi tự chịu nghiệp quả, hay là tất
cả tự nhiên?
- Xin Phật
rủ lòng Đại Từ, khai phá ngu dại, khiến tất cả chúng
sanh trì giới, nghe nghĩa quyết định, hoan hỷ phụng hành,
giữ gìn chẳng phạm.
Phật bảo
A Nan:
- Lành thay
câu hỏi này, khiến các chúng sanh chẳng mắc tà kiến, nay
ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà nói.
- A Nan! Bản
tánh của tất cả chúng sanh vốn chơn thật trong sạch, vì
vọng kiến mà vọng sanh tập khí, do đó chia thành nội phần
và ngoại phần.
- A Nan! Nội
phần tức là phần trong của chúng sanh. Do lòng ái nhiễm phát
khởi vọng tình, vọng tình tích chứa không thôi, sanh ra ái
thủy, nên chúng sanh hễ nghĩ đến thức ăn ngon thì chảy
nước miếng; nhớ đến người xưa, hoặc thương hoặc giận,
thì chảy nước mắt, tham cầu của báu, trong tâm ham muốn,
cả mình đều thấm nhuần nước tham; tâm tham dâm dục thì
hai căn nam nữ tự nhiên chảy dịch. A Nan, những ái dục ấy
dù khác, nhưng sự chảy nước là đồng, tánh nước thấm
ướt chẳng lên được, tự nhiên sa đọa, gọi là Nội Phần.
- A Nan! Ngoại
Phần tức là phần ngoài của chúng sanh. Do lòng khao khát phát
ra vọng tưởng, vọng tưởng chứa mãi không thôi, sanh ra thắng
khí. Nên chúng sanh hễ tâm giữ giới cấm thì cả thân nhẹ
nhàng; tâm trì chú ấn thì cử chỉ hùng dũng, tâm muốn sanh
cõi trời thì chiêm bao thấy bay lên, tâm nhớ cõi Phật, thì
thắng cảnh thầm hiện, phụng sự Thiện Tri Thức thì tự
khinh thân mạng. A Nan, những vọng tưởng dù khác, nhưng sự
nhẹ nhàng bay lên là động, bay động chẳng chìm, tự nhiên
vượt lên, gọi là Ngoại Phần.
- A Nan! Tất
cả sanh tử tương tục trên thế gian, sống thì tùy thuận
theo tập khí, chết thì biến đổi theo dòng nghiệp, đến
lúc lâm chung, còn chút hơi ấm, các việc thiện ác của một
đời đồng thời hiện ra, sống thì thuận, chết thì nghịch,
hai tập khí giao xen lẫn nhau, thuần tưởng thì bay lên, ắt
sanh cõi trời, nếu cái tâm bay ấy gồm cả phước đức,
trí huệ và tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm được mở mang,
thấy tất cả tịnh độ với mười phương chư Phật, theo
nguyện vãng sanh.
- Tình ít
tưởng nhiều, nhẹ nhàng bay xa thì làm phi tiên, đại lực
quỷ vương, phi hành Dạ Xoa, địa hành La Sát, dạo khắp cõi
trời, chẳng gì ngăn ngại. Trong đó nếu có thiện tâm thiện
nguyện, hộ trì Phật Pháp, hoặc hộ trì giới cấm và người
trì giới; hoặc hộ trì thần chú và người trì chú; hoặc
hộ trì thiền định, thành tựu pháp nhẫn, thì những hạng
ấy được ở cạnh pháp tọa của Như Lai.
- Tình và
tưởng bằng nhau, chẳng bay chẳng chìm, sanh nơi cõi người;
tưởng sáng suốt thì thông minh, tình ám muội thì ngu độn.
- Tình nhiều
tưởng ít, đọa vào súc sinh, nghiệp nặng thì làm loài có
lông, nghiệp nhẹ thì làm loài có cánh.
- Bảy phần
tình, ba phần tưởng, thì chìm dưới thủy luân, sanh nơi hỏa
luân, thân làm ngạ quỷ, thọ cái khổ của lửa hồng, thường
bị đốt cháy, dầu được uống nước cũng hóa thành lửa,
nên nói bị nước hại, trải qua trăm ngàn kiếp, chẳng thể
ăn uống.
- Chín phần
tình, một phần tưởng, thì đọa dưới hỏa luân, thân vào
giữa phong luân và hỏa luân, nghiệp nhẹ thì vào ngục Hữu
Gián, nghiệp nặng thì vào ngục Vô Gián.
- Thuần tình
thì chìm sâu vào ngục A Tỳ, nếu tâm chìm sâu ấy, có phỉ
báng Đại Thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng thuyết
pháp, hư tiêu tín thí, lạm nhận cung kính, hoặc phạm ngũ
nghịch, thập trọng cấm, thì lại phải sanh khắp ngục A
Tỳ mười phương.
- Chúng sanh
cùng tạo ác nghiệp thì phải chịu quả báo đồng phận,
nhưng trong cộng nghiệp mỗi người đều có biệt nghiệp
của mình, tùy theo ác nghiệp sở tạo, mỗi mỗi tự chuốc
lấy quả báo khác nhau.
- A Nan! Những
điều kể trên, đều do nghiệp của chúng sanh tự chiêu cảm,
tạo Thập Tập Nhân, thọ Lục Giao Báo.
- Sao nói
Thập Tập Nhân?
- Một là
Dâm Tập giao tiếp, phát nơi cọ xát lẫn nhau, cọ mãi không
thôi, thế nên trong đó phát ra ngọn lửa hồng, như người
dùng hai tay cọ xát, thì tướng ấm hiện tiền. Hai tập khí
đốt nhau mới sanh những việc giường sắt, trụ đồng. Mười
phương Như Lai xem sự hành dâm đồng như dục hỏa, Bồ Tát
xem dục như hầm lửa phải tránh.
- Hai là Tham
Tập giao kế (so đo tham cầu) phát nơi thu hút lẫn nhau, hút
mãi không thôi, thế nên chứa hơi lạnh bên trong thành băng
giá, như người hít hơi gió vào miệng thì có cảm xúc lạnh.
Hai tập khí lấn nhau, mới chịu những khổ của địa ngục
hàn băng. Mười phương Như Lai xem việc tham cầu đồng như
tham thủy, Bồ Tát xem tham như biển độc phải tránh.
- Ba là Mạn
Tập giao lăng (lấn ép nhau), phát nơi ỷ thế, lấn áp không
thôi; thế nên có sự cãi vã tranh chấp, quậy nước thành
sóng, như người tự liếm miệng lưỡi, chảy ra nước miếng.
Hai tập khí chọi nhau, mới sanh những việc sông huyết, sông
tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng chảy v.v...
Mười phương Như Lai xem sự ngã mạn như uống nước si, Bồ
Tát xem ngã mạn như sự chìm đắm phải tránh.
- Bốn là
Sân Tập giao xung (xung đột nhau) phát nơi chống đối chống
mãi không thôi, tâm nóng nảy phát lửa, đúc khí thành kim
loại, thế nên có những việc đao sơn, kiếm thụ, rìu, búa,
thương, cưa, như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên.
Hai tập khí đụng nhau, mới sanh những việc thiến, cắt,
chém, chặt, dùi, đâm, đánh, đập, v.v... Mười phương Như
Lai xem sự sân hận như dao gươm bén, Bồ Tát xem sân hận
như chém giết phải tránh.
- Năm là
Trá Tập giao dụ (dụ dỗ nhau), phát nơi quyến rũ, lôi kéo
chaüng thôi, thế nên có những việc dây, cây, thòng lọng,
căng nọc, như nước thấm ruộng thì cỏ cây sanh trưởng.
Hai tập khí kéo nhau mới sanh những việc gông, cùm, xiềng,
xích, roi, gậy, đòn v.v... Mười phương Như Lai xem sự dối
trá đồng như gian tặc, Bồ Tát xem dối trá như beo sói phải
sợ.
- Sáu là
Cuồng tập giao khi (lừa gạt), phát nơi phỉnh gạt, gạt mãi
không thôi, buông tâm gian dối, thế nên có đất bùn, đại
tiểu tiện, các thứ ô uế, như bụi theo gió, chẳng có chỗ
thấy. Hai tập khí dìm nhau, mới sanh những việc chìm đắm,
nhảy, ném, bay, rơi, trôi lăn v.v... Mười phương Như Lai xem
sự lừa gạt đồng như cướp giết, Bồ Tát xem sự lừa
gạt, như giẫm rắn độc.
- Bảy là
Oán Tập giao hiềm (hiềm khích), phát nơi sân hận, thế nên
có sự quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, cũi nhốt, rọ nhốt,
đãy bọc, như người hiểm độc ôm ấp điều dữ. Hai tập
khí nuốt nhau, mới sanh những việc ném, quăng, nắm, bắt,
đánh, bắn, tóm, siết v.v. Mười phương Như Lai xem sự thù
oán, đồng như Quỷ Vi Hại, Bồ Tát xem thù oán như uống
rượu độc.
- Tám là
Kiến Tập giao minh (kẻ thông minh ham kiến chấp), như năm
thứ ác kiến và các nghiệp tà ngộ, vì kiến giải khác nhau
nên chống trái lẫn nhau, ví như người lạ đi đường qua
lại gặp nhau, cãi cọ thưa kiện, nên có các cấp quan lại,
nắm giữ hồ sơ văn bản đối chứng. Hai tập khí giao xen,
thế nên mới có Thiện Ác Đồng Tử tay cầm hồ sơ văn bản,
điều tra bằng chứng cụ thể, khám hỏi, tra khảo, thẩm
vấn v.v... Mười phương Như Lai xem những ác kiến đồng như
hầm độc, Bồ Tát xem những kiến chấp hư vọng như vào
hố độc.
- Chín là
Uổng Tập (vu vạ) giao xen, phát nơi vu khống phỉ báng; thế
nên có hợp sơn, hợp thạch, cối nghiền, cối xay, như kẻ
gièm pha vu oan người lương thiện. Hai tập khí bài xích lẫn
nhau, mới sanh những việc áp giải, đè đập, ép huyết v.v.
Mười phương Như Lai xem sự vu vạ đồng như cọp gièm pha,
Bồ Tát xem sự vu vạ như bị sấm sét.
- Mười là
Tụng Tập giao thuyên (thưa kiện cãi vã), phát nơi che giấu
tội lỗi; thế nên có gương soi, đuốc chiếu, như đứng
giữa mặt trời, chẳng thể giấu bóng. Hai tập khí phô bày
lẫn nhau mới sanh ra những việc ác hữu, nghiệp kính, chiếu
soi, hỏa châu, phơi bày nghiệp xưa, đối nghiệm v.v... Mười
phương Như Lai xem sự che giấu đồng như hiểm tặc, Bồ Tát
xem sự che giấu như đội núi cao đi trên biển cả.
Sao nói Lục
Giao Báo?
- A Nan! tất
cả chúng sanh, lục thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo, đều
từ lục căn mà ra.
- Sao nói
ác báo từ lục căn mà ra?