.
Kinh Trường Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Sài gòn 1991
---o0o---
6.
KINH MAHALI
1. Như vậy tôi nghe.
Một thời đức Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly) ở giảng
đường Trùng Các, rừng Đại Lâm. Lúc bấy giờ, một số đông
sứ giả Bà-la-môn nước Kosala (Câu-tất-la) và nước Magadha
(Ma-kiệt-đà), đang ở tại Vesali vì một vài công việc.
Những vị sứ giả ấy được nghe như sau: "Này các Tôn
giả, Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca
hiện nay đang trú tại Vesali, ở giảng đường Trùng Các,
rừng Đại Lâm. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được
truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Ngài đã tự chứng ngộ thế giới này với Thiên
giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên và loài Người, tự chứng ngộ rồi hiển thị cho
mọi loài được biết. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày phạm hạnh hoàn
toàn đầy đủ thanh tịnh". Nếu được yết kiến một
vị A-la-hán như vậy thì rất quý".
2. Những vị sứ giả
Bà-la-môn ở Kosala và ở Magadha ấy đi đến giảng đường
tại rừng Đại Lâm. Lúc bấy giờ, đại đức Nàgita là
thị giả đức Thế Tôn. Những vị sứ giả Bà-la-môn ở
Kosala và ở Magadha ấy đi đến chỗ đại đức Nàgita ở và
thưa:
- Tôn giả Nàgita,
hiện nay Tôn giả Gotama ở tại đâu, chúng tôi muốn yết
kiến Tôn giả Gotama.
- Các Hiền giả, nay
không phải thời yết kiến đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đang
chỉ tịnh. Những sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha liền
ngồi xuống tại một bên và nói: "Sau khi được yết
kiến Tôn giả Gotama, chúng tôi mới đi".
3. Otthadda (môi thỏ)
người Licchavi cùng với một số đông dân chúng Licchavi cũng
đi đến Trùng Các giảng đường, rừng Đại Lâm gặp đại
đức Nàgita, đảnh lễ vị này rồi đứng một bên. Otthadda
người Licchavi thưa với đại đức Nàgita:
- Hiện nay đức Thế
Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở tại đâu, chúng con muốn
yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
- Màhàli, nay không
phải thời yết kiến đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn đang
chỉ tịnh.
Otthadda người Licchavi
liền ngồi xuống một bên tại chỗ ấy và nói:
- Sau khi được yết
kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác con mới đi.
4. Khi ấy Sa-di Sìha đến
đại đức Nàgita, đảnh lễ đại đức và đứng một bên.
Sau khi đứng một bên, Sa-di Sìha nói với đại đức Nàgita:
- Bạch Đại đức
Kassapa (Ca-diếp) một số đông sứ giả Bà-La-môn ở Kosala và
Magadha đã đến đây để yết kiến đức Thế Tôn; Otthada người
Licchavi cũng đến đây với số đông dân chúng Licchavi để
yết kiến đức Thế Tôn. Đại đức Kassapa, lành thay, nếu
những vị này được yết kiến đức Thế Tôn.
- Vậy Sìha hãy thưa
với đức Thế Tôn.
- Thưa vâng, bạch Đại
đức !
Sa-di Sìha vâng theo
lời dạy của đại đức Nàgita, đến tại chỗ đức Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Sa-di Sìha sau khi đứng
một bên liền bạch đức Thế Tôn:
- Bạch đức Thế Tôn,
một số đông sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến đây
để yết kiến đức Thế Tôn. Otthadda, người Licchavi cùng
một số đông dân chúng Licchavi đã đến đây để yết
kiến đức Thế Tôn. Lành thay nếu những vị này được
yết kiến đức Thế Tôn !
- Nay Sìha, hãy dọn
chỗ ngồi trong bóng mát, trước mặt ngôi tịnh xá.
- Thưa vâng, bạch
Thế Tôn!
Sa-di Sìha vâng theo
lời dạy đức Thế Tôn, sắp đặt một chỗ ngồi trong bóng
mát trước mặt ngôi tịnh xá, và đức Thế Tôn đi ra khỏi
tịnh xá và ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn trong bóng mát,
trước mặt ngôi tịnh xá.
5. Rồi các sứ giả Bà-la-môn
ở Kosala và Magadha đến tại chỗ đức Phật, nói lên những
lời chúc tụng thân hữu và xã giao với Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Otthadda người Licchavi cùng với một số
lớn dân Licchavi cũng đến tại chỗ đức Phật, đảnh lễ
Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên,
Otthadda người Licchavi thưa với Thế Tôn:
- Bạch Đại đức,
hai ba ngày về trước, Sunakkhatta, dòng họ Licchavi đến chỗ
con ở và nói với con: "Này Mahàli, từ khi tôi sống gần
đức Phật, không lâu quá ba năm, tôi được thấy những thiên
sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không được nghe
các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi". Bạch
Thế Tôn, những thiên âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không
nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, không
hiểu những thiên âm ấy có thật hay không có thật ?
- Này Mahàli những thiên
âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm
mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có
thật, không phải không có.
6. - Bạch Thế Tôn, do
nhân gì, do duyên gì, những thiên âm mà Sunakkhatta, dòng họ
Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn
khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải là không có.
- Này Mahàli, có
Tỷ-kheo tu định nhất hướng, hướng về phía Đông với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn
khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng
về phía Đông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên
âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được
về phía Đông các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn
khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú,
phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli vì Tỷ-kheo này trong khi tu
định nhứt hướng, hướng về phía Đông, chỉ với mục đích
thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng
không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú,
phấn khởi.
7. Lại nữa, này Mahàli,
có vị Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam...
về phía Tây... về phía Bắc... phía Trên, Dưới, Ngang, với
mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn
khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi. Vị này tu định nhứt hướng, hướng
về phía Trên, Dưới, Ngang, với mục đích thấy các thiên
sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục
đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên
vị này thấy được về phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên
sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên
âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli,
vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía
Trên, Dưới, Ngang, chỉ với mục đích thấy các thiên sắc
mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích
nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
8. Này Mahàli, có vị
Tỷ-kheo tu định nhất hướng, hướng về phía Đông với
mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi
nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích
thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhất hướng, hướng
về phía Đông với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích
thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích thấy các thiên
sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này nghe được
về phía Đông các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
Vì sao vậy ? Này Mahàli, vì vị Tỷ-kheo này trong khi tu định
nhứt hướng, hướng về phía Đông, chỉ với mục đích nghe
các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không
với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú,
phấn khởi.
9. Lại nữa, này Mahàli,
có Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam... hướng
về phía Tây... hướng về phía Bắc... phía Trên, Dưới,
Ngang với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú
phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía
Trên, Dưới, Ngang với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích thấy các
thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này nghe
được, phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên âm mỹ diệu, thích
thú, phấn khởi, nhưng không thấy được các thiên sắc mỹ
diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì
Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía
Trên, Dưới, Ngang chỉ với mục đích nghe các thiên âm mỹ
diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích thấy
các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
10. Này Mahàli, có
Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Đông với
mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn
khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú,
phấn khởi. Vì vị tu định nhị hướng, hướng về phía Đông
với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú,
phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích
thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Đông thấy được
các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và nghe được
các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy ? Này
Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng, hướng
về phía Đông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu,
thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm,
mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.
11. Này Mahàli, có vị
Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Nam... hướng Tây...
hướng về phía Bắc... về phía Trên, Dưới, Ngang, với mục
đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và
với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn
khởi. Vì vị này tu định nhị hướng, hướng về phía Trên,
Dưới, Ngang với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích
thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ
diệu, thích thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Trên,
Dưới, Ngang, thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn
khởi và nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì
cớ sao? Này Mahàli vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng,
hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích thấy các
thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, và với mục đích
nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Này Mahàli,
do nhân này, do duyên này, những thiên âm ấy có thật, không
phải là không có.
12. - Bạch Thế Tôn,
như vậy có phải muốn chứng được các pháp định thiền
định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới (sự
chỉ dạy của) Thế Tôn ?
- Này Mahàli, không
phải muốn chứng được các pháp thiền định ấy mà các
Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới (sự chỉ dạy của)
Ta. Này Mahàli, có những pháp khác cao thượng hơn, thù thắng
hơn. Vì muốn chứng được những pháp ấy, các vị Tỷ-kheo
sống đời phạm hạnh, dưới (sự chỉ dạy của) Ta.
13. Bạch Thế Tôn,
những pháp ấy, cao thượng hơn, thù thắng hơn là gì mà các
vị Tỷ-kheo vì muốn chứng được những pháp ấy sống đời
phạm hạnh, dưới sự (chỉ dạy của) Thế Tôn?
- Này Mahàli, ở đây
Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không đọa
ác thú, chắc chắn đạt quả Bồ-đề. Này Mahàli, pháp này
cao thượng và thù thắng hơn, vì muốn chứng được pháp này,
các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới (sự chỉ dạy của) Ta.
Lại nữa, này Mahàli,
Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành
bậc Nhứt lai, còn phải sanh lại trong đời này một lần
nữa trước khi diệt hẳn khổ đau. Này Mahàli, pháp này cao
thượng hơn và thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này,
các Tỷ-kheo sống phạm hạnh, dưới (sự chỉ dẫn của) Ta.
Lại nữa, này Mahàli,
vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành
vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở
lại thế giới này nữa. Này Mahàli, pháp này cao thượng và
thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo
sống phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Ta.
Này Mahàli, những pháp
cao thượng và thù thắng này, vì muốn chứng được pháp
ấy, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của)
Ta.
14. - Bạch Thế Tôn, có
con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự chứng ngộ
những pháp ấy?
- Này Mahàli, có con
đường, có đạo lộ đưa đến sự chứng ngộ những pháp
ấy.
- Bạch Thế Tôn, có
con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự chứng ngộ
những pháp ấy?
- Đó là con đường
Thánh có tám ngành: Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. Này Mahàli, con đường này, đạo lộ này đưa đến
sự chứng ngộ những pháp ấy.
15. Này Mahàli, một
thời Ta ở Kosambi vườn Ghositàràma. Lúc bấy giờ có hai người
xuất gia. Mandissa một vị du sĩ và jaliya đệ tử của Dàrupattika,
đến tại chỗ Ta ở, nói lên những lời chúc tụng thân
hữu và xã giao với Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng
một bên, hai vị xuất gia nói với Ta như sau:
- Này Hiền giả,
mạng căn và thân thể là một hay là khác ?
- Này Hiền giả, hãy
nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
- Vâng, Hiền giả !
Hai vị xuất gia trả
lời Ta như thế và Ta nói như sau:
16. - Này Hiền giả,
ở đây Như Lai sanh ra đời, vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
... (như kinh Sa-môn Quả)... Này Hiền giả, như vậy vị
Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh... chứng và an trú Sơ thiền. Này
Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị
ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay khác không ?"
Này Hiền giả,
Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề
cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là
khác".
Này Hiền giả, tuy Ta
biết như vậy, nhưng Ta không nói: "Mạng văn và thân
thể là một hay là khác".
17. Chứng và an trú đệ
nhị thiền... đệ tam thiền... đệ tứ tiền. Này Hiền giả,
khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng
đề cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một
hay khác không ?"
Này Hiền giả,
Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy vị ấy sẵn sàng đề
cập đến vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là
khác".
Này Hiền giả, tuy Ta
biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn
và thân thể là một hay là khác".
18... . Vị ấy hướng
tâm, dẫn tâm đến tri kiến. Này Hiền giả, khi vị Tỷ-kheo
biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề
cập đến vấn đề: "Mạng căn và thân thể là một hay
là khác không?"
Này Hiền giả, vị
Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề
cập đến vấn đề: "Mạng căn và thân thể là một hay
là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta
biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói "Mạng căn
và thân thể là một hay là khác".
19. Vị ấy biết:
"Sau đời này sẽ không có đời khác nữa". Này
Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị
ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề "Mạng căn và
thân thể là một hay là khác" không "?
Này Hiền giả, vị
Tỷ-kheo biết như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến
vấn đề "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta
không nói "Mạng căn và thân thể là một hay là khác".
Đức Thế Tôn thuyết
như vậy. Otthadda người Licchavi hoan hỷ tín họ lời Thê Tôn
dạy.
7.
KINH JALIYA
Kinh này giống kinh Mahàli
số VI từ số 15 đến số 19 vừa nói đến trước.
--- o0o ---
| Mục lục - Kinh Trường Bộ |
|
1| 2 | 3 |
4 | 5 |
6 & 7 | 8 | 9
| 10 | 11 | 12
| 13 | 14
| 15
| 16 |
17 | 18 |
| 19 | 20 | 21
| 22 | 23 | 24
| 25 | 26 | 27
| 28 | 29
| 30 | 31 | 32
| 33 | 34 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy:
Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ
Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục