MA HA TÁT
Thứ 13 - 1
Bấy giờ, cụ thọ
Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ nào Bồ tát lại còn gọi Ma
ha tát? Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát ở trong chúng đại hữu tình nhất định
phải làm thượng thủ. Vì duyên cớ đấy nên Bồ tát lại gọi là Ma ha tát. Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những kẻ nào là chúng đại
hữu tình, mà Bồ tát ở trong ấy nhất định làm thượng thủ? Phật bảo: Thiện
Hiện! Chúng đại hữu tình là kẻ trụ chủng tánh thứ tám, Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác địa và từ sơ phát tâm cho đến Bất thối chuyển
Ðại Bồ tát Ma ha tát. Ðấy gọi là chúng đại hữu tình, Bồ tát ở trong chúng
đại hữu tình nhất định phải làm thượng thủ, nên lại gọi là Ma ha tát.
Cụ thọ Thiện Hiện
lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát như vậy, bởi nhân duyên gì ở
trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ? Phật bảo:
Thiện Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này phát tâm Kim cương dụ, quả quyết chẳng
lui hoại, do nhờ tâm này nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải
được làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là tâm Kim cương dụ Bồ tát Ma ha
tát? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy: Ta phải
mặc áo giáp kiên cố, ở trong đồng nội mênh mông vô biên sanh tử, để đả phá
kẻ oán địch vô lượng phiền não; ta phải làm khô cạn biển cả sanh tử thẳm
sâu không ngằn mé; ta phải vứt bỏ tất cả của cải và thân mạng trong ngoài
là vật sở trọng; ta phải đối tất cả hữu tình đem tâm bình đẳng làm đại lợi
ích; ta phải đem Tam thừa cứu vớt tất cả hữu tình đều cho ở cõi Vô dư y
Niết bàn mà vào Niết bàn; ta dù phải đem Tam thừa giáo pháp diệt độ tất cả
hữu tình, nhưng thật chẳng thấy hữu tình nào được diệt độ; ta phải đối tất
cả pháp như thật giác rõ vô sanh vô diệt; ta phải tinh thuần đem tâm tương
ưng Nhất thiết trí trí, tu hành sáu Ba la mật đa; ta phải tu học nơi tất
cả pháp thông đạt rốt ráo khắp vào diệu trí; ta pải thông đạt nhất lý thú
môn của tất cả pháp tướng; ta phải thông đạt nhị lý thú môn cho đến vô
biên lý thú môn của tất cả pháp tướng; ta phải đối tất cả pháp tu học cho
thông đạt diệu trí nhất lý thú môn; ta phải đối tất cả pháp tu học cho
thông đạt diệu trí nhị lý thú môn, cho đến thông đạt diệt trí vô biên lý
thú môn; ta phải tu học dẫn phát vô biên tĩnh lự vô lượng vô sắc pháp môn;
ta phải tu học dẫn phát vô biên ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, ba giải thoát
môn, sáu Ba la mật đa pháp môn; ta phải tu học dẫn phát vô biên năm nhãn,
sáu thần thông, mười lực Phật, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí pháp môn. Thiện Hiện! Như vậy gọi là tâm Kim
cương dụ Bồ tát Ma ha tát. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc làm phương
tiện, an trụ tâm này cũng chẳng ỷ lại mà sanh kiêu cử. Cho nên ở trong
chúng đại hữu tình nhất định phải được làm bậc thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy: Tất cả các loại hữu tình đang
bị khổ não trong địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, trong thú người trời, ta
phải thảy chịu khiến kia an vui. Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy: Ta
phải vì một hữu tình trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức đại kiếp
chịu các hình khổ dữ dội các nơi địa ngục, dùng vô số phương tiện giáo hóa
khiến chứng Vô dư Niết bàn. Cứ thứ lớp như thế, vì tất cả hữu tình mỗi mỗi
đều trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức đại kiếp chịu các khổ hình
nơi các địa ngục, cũng mỗi mỗi đều dùng vô số phương tiện giáo hóa khiến
chứng Vô dư Niết bàn. Làm việc này rồi, tự trồng căn lành, lại trải qua vô
lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức đại kiếp, tu tập viên mãn Bồ đề tư lương,
nhiên hậu chứng lấy Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Như vậy gọi là
tâm Kim cương dụ Bồ tát Ma ha tát. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu cử, cho
nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm bậc thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này phát tâm Thù thắng quảng đại, quyết chẳng
lui hoại. Do nhờ tâm này, nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải
được làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là Bồ tát Ma ha tát phát tâm Thù
thắng quảng đại? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như
vầy: Ta nên từ sơ phát tâm cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,
ở thời gian giữa thề sẽ chẳng khởi tâm tham dục, tâm sân nhuế, tâm ngu si,
tâm giận, tâm hờn, tâm giấu, tâm não, tâm dối, tâm gạt, tâm nịnh, tâm
ganh, tâm kiết, tâm kiêu, tâm hại và tâm tà kiến khinh dễ thảy, cũng lại
chẳng khởi tâm hướng về bậc Thanh văn, Ðộc giác. Thiện Hiện! Như vậy gọi
là Bồ tát Ma ha tát tâm Thù thắng quảng đại. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô
sở đắc làm phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu
cử, cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này phát tâm Bất khả khuynh động, quyết chẳng
lui hoại. Do nhờ tâm này nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải
được làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là Bồ tát Ma ha tát tâm Bất khả
khuynh động? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy:
Ta phải đem tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, tu tập phát khởi tất cả
đáng tu đáng nên làm việc. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát tâm
Bất khả khuynh động. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm phương
tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu cử, nên ở trong
chúng đại hữu tình nhất định phải làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này phát
tâm Lợi ích an vui, quyết chẳng lay động. Do nhờ tâm này nên ở trong chúng
đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là Bồ tát Ma ha tát tâm Lợi ích
an vui? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy: Ta
phải tột đời vị lai, đối tất cả hữu tình vì làm chỗ nương về: cầu, thuyền,
sông, biển cứu vớt che chở thường chẳng nới bỏ. Thiện Hiện! Như vậy gọi là
Bồ tát Ma ha tát tâm Lợi ích an vui. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu cử, cho
nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khu tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, thường hay ái pháp, lạc pháp, hân pháp, hỷ
pháp. Do nhờ duyên này nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được
làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Những là pháp nào? Làm sao Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, thường đối pháp này ái lạc hân hỷ? Phật bảo:
Thiện Hiện! Nói rằng pháp, nghĩa là pháp tất cả hữu tình và sắc, phi sắc
đều vô tự tánh, đều bất khả đắc, thật tướng bất hoại, đấy gọi là pháp. Nói
rằng ái pháp, nghĩa là đối với pháp ấy khởi muốn mong cầu. Nói rằng lạc
pháp, nghĩa là đối với pháp ấy ngợi khen công đức. Nói rằng hân pháp,
nghĩa là đối với pháp ấy vui mừng tín thọ. Nói rằng hỷ pháp, nghĩa là đối
với pháp ấy mến mộ tu tập nhiều. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát như vậy, khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thường hay
ái pháp, lạc pháp, hân pháp, hỷ pháp; cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu cử,
nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ nội
không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không,
vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất
thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh
tự tánh không, cho nên được ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được
làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là tâm Kim cương dụ Bồ tát Ma ha
tát? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy: Ta phải
mặc áo giáp kiên cố, ở trong đồng nội mênh mông vô biên sanh tử, để đả phá
kẻ oán địch vô lượng phiền não; ta phải làm khô cạn biển cả sanh tử thẳm
sâu không ngằn mé; ta phải vứt bỏ tất cả của cải và thân mạng trong ngoài
là vật sở trọng; ta phải đối tất cả hữu tình đem tâm bình đẳng làm đại lợi
ích; ta phải đem pháp Tam thừa cứu vớt tất cả hữu tình đều cho ở cõi Vô dư
y Niết bàn mà vào Niết bàn; ta dù phải đem Tam thừa giáo pháp diệt độ tất
cả hữu tình, nhưng thật chẳng thấy hữu tình nào được diệt độ; ta phải đối
tất cẳ pháp như thật giác rõ vô sanh vô diệt; ta phải tinh thuần đem tâm
tương ưng Nhất thiết trí trí, tu hành sáu Ba la mật đa; ta phải tu học nơi
tất cả pháp thông đạt nhất lý thú môn của tất cả pháp tướng; ta phải thông
đạt nhị lý thú môn cho đến vô biên lý thú môn của tất cả pháp tướng; ta
phải đối tất cả pháp tu học cho thông đạt diệu trí nhất lý thú môn; ta
phải đối tất cả pháp tu học cho thông đạt diệu trí nhị lý thú môn, cho đến
thông đạt diệu trí vô biên lý thú môn; ta phải tu học dẫn phát vô biên
tĩnh lự vô lượng vô sắc pháp môn; ta phải tu học dẫn phát vô biên ba mươi
bảy Bồ đề phần pháp, ba giải thoát môn, sáu Ba la mật đa pháp môn; ta phải
tu học dẫn phát vô biên năm nhãn, sáu thần thông, mười lực Phật, bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp môn.
Thiện Hiện! Như vậy gọi là tâm Kim cương dụ Bồ tát Ma ha tát. Nếu Bồ tát
Ma ha tát đem vô sở đắc làm phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng ỷ lại
mà sanh kiêu cử. Cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được
làm bậc thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy: Tất cả các loại hữu tình đang
bị khổ não trong địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, trong thú người trời, ta
phải thảy chịu khiến kia an vui. Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy: Ta
phải vì một hữu tình trải qua vô lượng trăm năm ngàn trăm ức muôn ức đại
kiếp chịu các hình khổ dữ dội các nơi địa ngục, dùng vô số phương tiện
giáo hóa khiến chứng Vô dư Niết bàn. Cứ thứ lớp như thế, vì tất cả hữu
tình mỗi mỗi đều trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức đại kiếp chịu
các khổ hình nơi các địa ngục, cũng mỗi mỗi đều dùng vô số phương tiện
giáo hóa khiến chứng Vô dư Niết bàn. Làm việc này rồi, tự trồng căn lành,
lại trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức đại kiếp, tu tập viên mãn
Bồ đề tư lương, nhiên hậu chứng lấy Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện
Hiện! Như vậy gọi là tâm Kim cương dụ Bồ tát Ma ha tát. Nếu Bồ tát Ma ha
tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại
mà sanh kiêu cử, cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được
làm bậc thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này phát tâm Thù thắng quảng đại, quyết chẳng
lui hoại. Do nhờ tâm này, nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải
được làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là Bồ tát Ma ha tát phát tâm Thù
thắng quảng đại? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như
vầy: Ta nên từ sơ phát tâm cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,
ở thời gian giữa thề sẽ chẳng khởi tâm tham dục, tâm sân nhuế, tâm ngu si,
tâm giận, tâm hờn, tâm giấu, tâm não, tâm dối, tâm gạt, tâm nịnh, tâm
ganh, tâm kiết, tâm kiêu, tâm hại và tâm tà kiến khinh dễ thảy, cũng lại
chẳng khởi tâm hướng về bậc Thanh văn, Ðộc giác. Thiện Hiện! Như vậy gọi
là Bồ tát Ma ha tát tâm Thù thắng quảng đại. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô
sở đắc làm phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu
cử, cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này phát tâm Bất khả khuynh động, quyết chẳng
lui hoại. Do nhờ tâm này nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải
được làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là Bồ tát Ma ha tát phát tâm Bất
khả khuynh động? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như
vầy: Ta phải đem tâm tương ứng với Nhất thiết trí trí, tu tập phát khởi
tất cả đáng tu đáng nên làm việc. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha
tát tâm Bất khả khuynh động. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm
phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu cử, nên ở
trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này phát tâm Lọi ích an vui, quyết chẳng lay
động. Do nhờ tâm này nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được
làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Kẻ nào được gọi là Bồ tát Ma ha tát phát tâm Lợi
ích an vui? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát sanh tâm như vầy:
Ta phải tột đời vị lai, đối tất cả hữu tình vì làm chỗ nương về: cầu,
thuyền, sông, biển cứu vớt che chở thường chẳng nới bỏ. Thiện Hiện! Như
vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát tâm Lợi ích an vui. Nếu Bồ tát Ma ha tát đem
vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ tâm này cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh
kiêu cử, nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng
thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, thường hay
ái pháp, lạc pháp, hân pháp, hỷ pháp. Do nhờ tâm này nên ở trong chúng đại
hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện
thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Những là pháp nào? Làm sao Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, thường đối pháp ấu ái lạc hân hỷ? Phật bảo:
Thiện Hiện! Nói rằng pháp, nghĩa là pháp tất cả hữu tình và sắc, phi sắc
đều vô tự tánh, đều bất khả đắc, thật tướng bất hoại, đấy gọi là Pháp. Nói
rằng ái pháp, nghĩa là đối với pháp ấy khởi muốn mong cầu. Nói rằng lạc
pháp, nghĩa là đối với pháp ấy ngợi khen công đức. Nói rằng hân pháp,
nghĩa là đối với pháp ấy vui mừng tín thọ. Nói rằng hỷ pháp, nghĩa là đối
với pháp ấy mến mộ tu tập nhiều. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát như vậy, khi
tu hành Bát nhã Ba la Mật đa, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thường hay
ái pháp, lạc pháp, hân pháp, hỷ pháp; cũng chẳng ỷ lại mà sanh kiêu cử,
cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ nội không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không,
vô tế không tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không, cho nên ở trong chúng đại hữu tình
nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định,
cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, cho nên ở trong
chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn,
cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Ba la mật đa, cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định
phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ năm nhãn, sáu thần thông, cho nên ở trong
chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất
thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, cho nên ở trong chúng đại
hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ.
Lại nữa, Thiện
Hiện! Vì Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ Kim cương dụ tam ma địa, cho đến đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, an trụ Vô trước vô vi vô nhiễm giải thoát như hư
không tam ma địa, cho nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định phải được
làm thượng thủ.
Thiện Hiện! Vì
nhiều các nhân duyên như vậy thảy, cho nên Bồ tát Ma ha tát này ở trong
chúng đại hữu tình nhất định phải được làm thượng thủ. Thiện Hiện! Vậy nên
Bồ tát lại gọi là Ma ha tát.
Bấy giờ, cụ thọ Xá
Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi cũng muốn nói Bồ tát do nghĩa này
nên lại gọi là Ma ha tát. Phật nói: Xá Lợi Tử! Tùy ý ngươi nói. Xá Lợi Tử
nói: Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở đắc làm
phương tiện, thuyết pháp dứt ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sanh
giả kiến, dưỡng giả kiến, sĩ phu kiến, bổ đắc già la kiến, ý sxanh kiến,
nho đồng kiến, tác giả kiến, sử giả kiến, khởi giả kiến, sử khởi giả kiến,
thọ giả kiến, sử thọ giả kiến, tri giả kiến và kiến giả kiến; cho nên Bồ
tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát năng vì hữu
tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thuyết pháp dứt thường kiến, đoạn
kiến, nên Bồ tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát
năng vì hữu tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thuyết pháp dứt hữu
kiến, vô kiến, nên Bồ tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Do các
Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thuyết pháp dứt
uẩn kiến, xứ kiến, giới kiến, đế kiến, duyên khởi kiến, nên Bồ tát này lại
gọi là Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở
đắc mà làm phương tiện, thuyết pháp dứt bốn tĩnh lự kiến, bốn vô lượng
kiến, bốn vô sắc định kiến, nên Bồ tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch Thế
Tôn! Do các Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện,
thuyết pháp dứt bốn niệm trụ kiến, bốn chánh đoạn kiến, bốn thần túc kiến,
năm căn kiến, năm lực kiến, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi kiến, nên
Bồ tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát năng vì hữu
tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thuyết pháp dứt ba giải thoát môn
kiến, sáu Ba la mật kiến, nên Bồ tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch Thế
Tôn! Do các Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện,
thuyết pháp dứt năm nhãn kiến, sáu thần thông kiến, nên Bồ tát này lại gọi
là Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở đắc
mà làm phương tiện, thuyết pháp dứt Phật mười lực kiến, bốn vô sở úy kiến,
bốn vô ngại giải kiến, đại từ đại bi đại hỷ đại xả kiến, mười tám pháp
Phật bất cộng kiến, nhất thiết trí kiến, đạo tướng trí kiến, nhất thiết
tướng trí kiến, nên Bồ tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch Thế Tôn! Do các
Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thuyết pháp dứt
thành thục hữu tình kiến, nghiêm tịnh Phật độ kiến, Bồ tát kiến, Phật Ðà
kiến và Chuyển pháp luân kiến, nên Bồ tát này lại gọi là Ma ha tát. Bạch
Thế Tôn! Dùng tóm mà nói: Do các Bồ tát năng vì hữu tình, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, thuyết pháp dứt tất cả kiến chấp, cho nên Bồ tát này được
gọi là Ma ha tát.
Khi ấy, cụ thọ
Thiện Hiện hỏi Xá Lợi Tử rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng vì hữu tình, đem
vô sở đắc làm phương tiện để thuyết pháp dứt các kiến chấp ấy, duyên gì Bồ
tát Ma ha tát tự có sở đắc làm phương tiện, khởi kiến sắc, kiến thọ tưởng
hành thức. Khởi kiến nhãn xứ, kiến thanh hương vị xúc pháp xứ. Khởi kiến
nhãn giới, kiến sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ. Khởi kiến nhĩ giới, kiến thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ
xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Khởi kiến tỷ giới, kiến hương
giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Khởi kiến
thiệt giới, kiến vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm
duyên sanh ra các thọ. Khởi kiến thân giới, kiến xúc giới, thân thức giới
và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Khởi kiến ý giới, kiến
pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Khởi
kiến địa giới, kiến thủy hỏa phong không thức giới. Khởi kiến khổ thánh
đế, kiến tập diệt đạo thánh đế. Khởi kiến vô minh, kiến hành, thức, danh
sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não.
Khởi kiến bốn tĩnh lự, bốn vô sắc định, Khởi kiến bốn niệm trụ, kiến bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi. Khởi kiến không giải thoát môn, kiến vô tướng, vô nguyện giải
thoát môn. Khởi kiến bố thí Ba la mật đa, kiến tịnh giới an nhẫn tinh tiến
tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa. Khởi kiến năm nhãn, kiến sáu thần thông.
Khởi kiến Phật mười lực, kiến bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí. Khởi kiến thành thục hữu tình, kiến nghiêm tịnh
Phật độ, kiến Bồ tát, kiến Phật Ðà và kiến Chuyển pháp luân ư?
Cụ thọ Xá Lợi Tử
đáp Thiện Hiện rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật
đa không có phương tiện, bèn khởi kiến sắc, kiến thọ tưởng hành thức cho
đến bèn khởi kiến Phật Ðà, kiến Chuyển pháp luân, là Bồ tát Ma ha tát này
chẳng năng vì các hữu tình, đem vô sở đắc làm phương tiện, thuyết phát dứt
các kiến chấp. Nếu Bồ tát Ma ha tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa có
phương tiện khéo léo ấy, năng vì hữu tình đem vô sở đắc làm phương tiện,
thuyết phát dứt các kiến chấp, là Bồ tát Ma ha tát này chẳng khởi kiến
sắc, kiến thọ tưởng hành thức, cho đến chẳng khởi kiến Phật Ðà, kiến
Chuyển pháp luân.
Bấy giờ, cụ thọ
Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Tôi cũng muốn nói Bồ tát do nghĩa này
nên lại gọi là Ma ha tát. Phật nói: Thiện Hiện! Tùy ý Ngươi nói. Thiện
Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát Nhất thiết trí trí phát tâm Bồ
đề, tâm Vô đẳng đẳng, tâm Bất cộng tất cẳ Thanh văn, Ðộc giác. Ðối với các
tâm như vậy cũng chẳng chấp lấy. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Tâm Nhất thiết
trí kia là chơn vô lậu, chẳng đọa ba cõi; tâm cầu Nhất thiết trí trí cũng
là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Ðối với các tâm như vậy chẳng nên chấp
lấy. Cho nên Bồ tát này cũng lại gọi là Ma ha tát.
Khi ấy, Xá Lợi Tử
hỏi Thiện Hiện rằng: Bồ tát Ma ha tát tâm Vô đẳng đẳng, tâm Bất cộng tất
cả Thanh văn, Ðộc giác là thế nào? Thiện Hiện đáp: Các Bồ tát Ma ha tát từ
sơ phát tâm, chẳng thấy các pháp có sanh có diệt, có giảm có tăng, có lai
có khứ, có nhiễm có tịnh, cũng chẳng thấy có tâm Thanh văn, Ðộc giác, tâm
Bồ tát, tâm Như Lai. Xá Lợi Tử! Ðây gọi là Bồ tát Ma ha tát tâm Vô đẳng
đẳng, tâm Bất cộng tất cả Thanh văn, Ðộc giác. Các Bồ tát Ma ha tát đối
các tâm như vậy cũng chẳng chấp lấy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử
hỏi Thiện Hiện rằng: Nếu với tâm như vậy chẳng nên chấp lấy ấy, thời đối
tất cả tâm ngu phu, dị sanh, Thanh văn, Ðộc giác thảy cũng chẳng nên chấp
lấy. Và với tâm sắc chẳng nên chấp lấy, với tâm thọ tưởng hành thức cũng
chẳng nên chấp lấy. Với tâm nhãn xứ chẳng nên chấp lấy, với tâm nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm sắc xứ chẳng nên chấp
lấy, với tâm thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm
nhãn giới chẳng nên chấp lấy, với tâm sắc giới, nhãn thức giới và nhãn
xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm
nhĩ giới chẳng nên chấp lấy, với tâm thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc,
nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm tỷ giới
chẳng nên chấp lấy, với tâm hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm
duyên sanh ra các thọ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm thiệt giới chẳng
nên chấp lấy, với tâm vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm
duyên sanh ra các thọ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm thân giới chẳng nên
chấp lấy, với tâm xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên
sanh ra các thọ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm ý giới chẳng nên chấp
lấy, với tâm pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các
thọ cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm địa giới chẳng nên chấp lấy, với tâm
thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm khổ thánh
đế chẳng nên chấp lấy, với tâm tập diệt đạo thánh cũng chẳng nên chấp lấy.
Với tâm vô minh chẳng nên chấp lấy, với tâm hành, thức, danh sắc, lục xứ,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não cũng chẳng nên
chấp lấy. Với tâm bốn tĩnh lự chẳng nên chấp lấy, với tâm bốn vô lượng,
bốn vô sắc định cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm bốn niệm trụ chẳng nên
chấp lấy, với tâm bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm lực, bảy đẳng giác
chi, tám thánh đạo chi cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm không giải thoát
môn chẳng nên chấp lấy, với tâm vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng
chẳng nên chấp lấy. Với tâm bố thí Ba la mật đa chẳng nên chấp lấy, với
tâm tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng
nên chấp lấy. Với tâm năm nhãn chẳng nên chấp lấy, với tâm sáu thần thông
cũng chẳng nên chấp lấy. Với tâm Phật mười lực chẳng nên chấp lấy, với tâm
bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí
cũng chẳng nên chấp lấy. Vì sao thế? Vì các tâm như vậy đều vô tâm tánh
vậy. Thiện Hiện, như vậy. Thật như lời vừa nói.
Khi ấy, Xá Lợi Tử
hỏi Thiện Hiện rằng: Nếu tất cả tâm vì không có tâm tánh vậy, chẳng nên
chấp lấy ấy, thời sắc vì không có tánh sắc vậy, chẳng nên chấp lấy; thọ
tưởng hành thức, vì không có tánh thọ tưởng hành thức vậy, cũng chẳng nên
chấp lấy. Nhãn xứ, vì không có tánh nhãn xứ vậy, chẳng nên chấp lấy; nhĩ
tỷ thiệt thân ý xứ, vì không có tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vậy, cũng
chẳng nên chấp lấy. Sắc xứ, vì không có tánh sắc xứ vậy, chẳng nên chấp
lấy; thanh hương vị xúc pháp xứ, vì không có tánh thanh hương vị xúc pháp
xứ vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Nhãn giới, vì không có tánh nhãn giới
vậy, chẳng nên chấp lấy; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ, vì không có tánh sắc giới cho đến nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Nhĩ giới, vì không có
tánh nhĩ giới vậy, chẳng nên chấp lấy; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ
xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, vì không có tánh thanh giới cho
đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Tỷ
giới, vì không có tánh tỷ giới vậy, chẳng nên chấp lấy; hương giới, tỷ
thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, vì không có tánh
hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy, cũng chẳng nên
chấp lấy. Thiệt giới, vì không có tánh thiệt giới vậy, chẳng nên chấp lấy;
vị giới, thiệt giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, vì
không có tánh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy,
cũng chẳng nên chấp lấy. Thân giới, vì không có tánh thân giới vậy, chẳng
nên chấp lấy; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên
sanh ra các thọ, vì không có tánh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh
ra các thọ vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Ý giới, vì không có tánh ý giới
vậy, chẳng nên chấp lấy; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ, vì không có tánh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh
ra các thọ vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Ðịa giới, vì không có tánh địa
giới vậy, chẳng nên chấp lấy; thủy hỏa phong không thức giới, vì không có
tánh thủy hỏa phong không thức giới vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Khổ
thánh đế, vì không có tánh khổ thánh đế vậy, chẳng nên chấp lấy; tập diệt
đạo thánh đế, vì không có tánh tập diệt đạo thánh đế vậy, cũng chẳng nên
chấp lấy. Vô minh, vì không có tánh vô minh vậy, chẳng nên chấp lấy; hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ
ưu não, vì không có tánh hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não vậy, cũng
chẳng nên chấp lấy. Bốn tĩnh lự, vì không có tánh bốn tĩnh lự vậy, chẳng
nên chấp lấy; bốn vô lượng, bốn vô sắc định, vì không có tánh bốn vô
lượng, bốn vô sắc định vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Bốn niệm trụ, vì
không có tánh bốn niệm trụ vậy, chẳng nên chấp lấy; bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, vì không
có tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vậy, cũng chẳng nên chấp
lấy. Không giải thoát môn, vì không có tánh không giải thoát môn vậy,
chẳng nên chấp lấy; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, vì không có tánh
vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Bố thí Ba
la mật đa, vì không có tánh bố thí Ba la mật đa vậy, chẳng nên chấp lấy;
tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa, vì không có tánh
tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la vậy, cũng chẳng nên chấp
lấy. Năm nhãn, vì không có tánh năm nhãn vậy, chẳng nên chấp lấy; sáu thần
thông, vì không có tánh sáu thần thông vậy, cũng chẳng nên chấp lấy. Phật
mười lực vì không có tánh Phật mười lực vậy, chẳng nên chấp lấy; bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, vì không có
tánh bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí vậy, cũng chẳng nên chấp
lấy. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa nói.
Khi ấy, Xá Lợi Tử
hỏi Thiện Hiện rằng: Nếu tâm Nhất thiết trí trí là chơn vô lậu chẳng đọa
ba cõi ấy, thời tất cẳ tâm ngu phu, dị sanh, Thanh văn, Ðộc giác thảy cũng
nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì các tâm như vậy cũng
là bản tánh không. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là chơn vô lậu chẳng
đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Sắc
cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; thọ tưởng hành thức cũng nên là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì sắc thọ tưởng hành thức bản
tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là chơn vô lậu
chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa
nói.
Xá Lợi Tử nói:
Nhãn xứ cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ,
cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì nhãn nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật
như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Sắc
xứ cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; thanh hương vị xúc pháp xứ,
cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì sắc thanh hương
vị xúc pháp xứ bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không,
là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy.
Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói:
Nhãn giới cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; sắc giới, nhãn thức
giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng nên là chơn vô
lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì nhãn giới cho đến nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh
không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như
vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Nhĩ
giới cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; thanh giới, nhĩ thức giới
và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng nên là chơn vô lậu
chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì nhĩ giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh
ra các thọ, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật
như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Tỷ
giới cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; hương giới, tỷ thức giới và
tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng nên là chơn vô lậu chẳng
đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì tỷ giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các
thọ, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là chơn vô
lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời
vừa nói.
Xá Lợi Tử nói:
Thiệt giới cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; vị giới, thiệt thức
giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng nên là chơn
vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì thiệt giới cho đến thiệt xúc làm
duyên sanh ra các thọ, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh
không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như
vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói:
Thân giới cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; xúc giới, thân thức
giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng nên là chơn vô
lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì thân giới cho đến thân xúc làm duyên
sanh ra các thọ, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh
không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như
vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Ý
giới cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; pháp giới, ý thức giới và ý
xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba
cõi. Vì sao thế? Vì ý giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, bản
tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là chơn vô lậu
chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa
nói.
Xá Lợi Tử nói: Ðịa
giới cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; thủy hỏa phong không thức
giới, cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì địa thủy
hỏa phong không thức giới, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản
tánh không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy,
như vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Khổ
thánh đế cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; tập diệt đạo thánh đế,
cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì khổ tập diệt đạo
thánh đế, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật
như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Vô
minh cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; hành, thức, danh sắc, lục
xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, cũng nên là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì vô minh cho đến lão tử sầu
thán khổ ưu não, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh
không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như
vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Bốn
tĩnh lự cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; bốn vô lượng, bốn vô sắc
định, cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì bốn tĩnh
lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì
pháp bản tánh không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng:
Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Bốn
niệm trụ cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, cũng nên
là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì bốn niệm trụ cho đến tám
thánh đạo chi, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không,
là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy.
Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói:
Không giải thoát môn cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; vô tướng,
vô nguyện giải thoát môn, cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao
thế? Vì không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, bản tánh đều không vậy.
Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện
Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Bố
thí Ba la mật đa cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; tịnh giới an
nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa, cũng nên là chơn vô lậu chẳng
đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật
đa, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là chơn vô
lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời
vừa nói.
Xá Lợi Tử nói: Năm
nhãn cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; sáu thần thông, cũng nên là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì năm nhãn, sáu thần thông bản
tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là chơn vô lậu
chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa
nói.
Xá Lợi Tử nói:
Phật mười lực cũng nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi; bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, cũng nên là chơn vô
lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì Phật mười lực cho đến nhất thiết
tướng trí, bản tánh đều không vậy. Sở vì sao? Vì pháp bản tánh không, là
chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật
như lời vừa nói.
Khi ấy, Xá Lợi Tử
hỏi Thiện Hiện rằng: Nếu pháp tâm sắc thảy vì không có tánh tâm sắc thảy
vậy, đều chẳng nên chấp lấy ấy, thời tất cẳ pháp lẽ nên đều bình đẳng,
không có sai khác? Thiện Hiện đáp rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời vừa
nói. Xá Lợi Tử nói: Nếu tất cả pháp nhất định không sai khác ấy, vì sao
Như Lai thuyết tâm sắc thảy pháp có món món sai khác? Thiện Hiện đáp rằng:
Ðấy là Như Lai tùy theo lời nói thế tục thi thiết có món món sai khác này,
chớ chẳng phải do thật nghĩa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử
hỏi Thiện Hiện rằng: Nếu tất cả ngu phu, dị sanh, Thanh văn, Ðộc giác, Bồ
tát, Như Lai tâm sắc thảy pháp, vì bản tánh đều không vậy, là chơn vô lậu
chẳng đọa ba cõi ấy, thời thánh giả, dị sanh và nhất thiết trí cùng phi
nhất thiết trí, lẽ nên đều bình đẳng, không có sai khác? Thiện Hiện đáp
rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời nói. Xá Lợi Tử nói: Nếu các phàm
thánh nhất định không sai khác ấy, vì sao Như Lai thuyết các phàm, thánh
có thứ thứ sai khác? Thiện Hiện đáp rằng: Ðây cũng là Như Lai tùy theo lời
nói thế tục thi thiết, mới có các thứ sai khác này, chớ chẳng phải do thật
nghĩa.
Xá Lợi Tử! Như vậy
Bồ tát Ma ha tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nên đem vô sở đắc mà
làm phương tiện vậy, đối với chỗ phát tâm Bồ đề, tâm Vô đẳng đẳng, tâm Bất
cộng tất cả Thanh văn, Ðộc giác, chẳng ỷ, chẳng đắm. Ðối với tất cả pháp
cũng không chấp ấy. Do nghĩa này vậy, nên gọi là Ma ha tát.
Bấy giờ, cụ thọ
Mãn Từ Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi cũng muốn nói Bồ tát do nghĩa
này nên lại gọi là Ma ha tát? Phật bảo: Mãn Từ Tử! Tùy ý Ngươi nói. Mãn Từ
Tử thưa: Bạch Thế Tôn! Do các Bồ tát vì muốn lợi vui cho tất cả hữu tình,
nên mặc áo giáp đại công đức, phát ý Ðại thừa, nên cõi xe Ðại thừa, lại
được gọi là Ma ha tát.
Khi ấy, Xá Lợi Tử
hỏi Mãn Từ Tử rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát, vì muốn lợi vui cho tất cả
hữu tình, mặc áo giáp đại công đức? Mãn Từ Tử nói: Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha
tát tu hạnh Bồ đề, chẳng vì số ít hữu tình nên được lợi vui, mà vì tất cả
hữu tình được lợi vui nên tu hạnh Bồ đề. Xá Lợi Tử! Như vậy gọi là Bồ tát
Ma ha tát, vì muốn lợi vui cho tất cả hữu tình, mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi
Tử! Bồ tát Ma ha tát trụ bố thí Ba la mật đa, khi tu bố thí Ba la mật đa,
chẳng vì số ít hữu tình nên được lợi vui, mà vì tất cả hữu tình được lợi
vui nên tu bố thí Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát trụ tịnh giới
Ba la mật đa, khi tu tịnh giới Ba la mật đa, chẳng vì số ít hữu tình nên
được lợi vui, mà vì tất cả hữu tình nên được lợi vui, mà vì tất cả hữu
tình được lợi vui, nên tu tịnh giới Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha
tát trụ an nhẫn Ba la mật đa, khi tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng vì số ít
hữu tình nên được lợi vui, mà vì tất cả hữu tình được vui nên tu an nhẫn
Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát trụ tinh tiến Ba la mật đa, khi
tu tinh tiến Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát trụ tĩnh lự Ba la
mật đa, khi tu tĩnh lự Ba la mật đa, chẳng vì số ít hữu tình nên được lợi
vui, mà vì tất cả hữu tình được lợi vui, nên tu tĩnh lự Ba la mật đa. Xá
Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát trụ Bát nhã Ba la mật đa, khi tu Bát nhã Ba la
mật đa, chẳng vì số ít hữu tình nên được lợi vui, mà vì tất cả hữu tình
được lợi vui, nên tu Bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Như vậy gọi là Bồ
tát Ma ha tát, vì muốn lợi vui cho tất cả hữu tình mà mặc áo giáp đại công
đức.
Lại nữa, Xá Lợi
Tử! Bồ tát Ma ha tát mặc áo giáp đại công đức lợi vui hữu tình chẳng bị
hạn cục, nghĩa là chẳng tác lên nghĩ này: Ta giáo hóa ngần ấy hữu tình
khiến được Vô dư Niết bàn, ngần ấy hữu tình chẳng cho nó được. Ta giáo hóa
ngần ấy hữu tình khiến trụ Vô thượng Bồ đề, ngần ấy hữu tình chẳng cho nó
trụ. Nhưng Bồ tát Ma ha tát này, khắp khiến tất cẳ hữu tình được Vô dư
Niết bàn và trụ Vô thượng Bồ đề, vậy nên mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi
Tử! Bồ tát Ma ha tát lại tác lên nghĩ như vầy: Ta phải tự viên mãn bố thí
Ba la mật đa, cũng giáo hóa tất cả hữu tình nơi bố thí Ba la mật đa tu cho
viên mãn. Ta phải tự viên mãn tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã
Ba la mật đa, cũng giáo hóa tất cả hữu tình nơi tịnh giới cho đến bát nhã
Ba la mật đa cho viên mãn. Ta phải tự trụ nội không, cũng giáo hóa tất cả
hữu tình khiến trụ nội không. Ta phải tự trụ ngoại không, nội ngoại không,
không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất
cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự
tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không,
vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; cũng giáo hóa tất cả
hữu tình khiến trụ ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Ta phải tự
trụ bốn tĩnh lự, cũng giáo hóa tất cả hữu tình khiến tu bốn tĩnh lự. Ta
phải tự trụ bốn vô lượng, bốn vô sắc định; cũng giáo hóa tất cả hữu tình
khiến tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Ta phải tự trụ bốn niệm trụ, cũng
giáo hóa tất cả hữu tình khiến tu bốn niệm trụ. Ta phải tự trụ bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo
chi; cũng giáo hóa tất cả hữu tình khiến tu bốn chánh đoạn cho đến tám
thánh đạo chi. Ta phải tự trụ không giải thoát môn, cũng giáo hóa tất cả
hữu tình khiến tu không giải thoát môn. Ta phải tự trụ vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn; cũng giáo hóa tất cả hữu tình khiến tu vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Ta phải tự trụ năm nhãn, cũng giáo hóa tất cả hữu tình
khiến tu năm nhãn. Ta phải tự trụ sáu thần thông, cũng giáo hóa tất cả hữu
tình khiến tu sáu thần thông. Ta phải tự trụ Phật mười lực, cũng giáo hóa
tất cả hữu tình khiến tu Phật mười lực. Ta phải tự trụ bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; cũng giáo hóa tất cả
hữu tình khiến tu bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí. Xá Lợi Tử!
Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát vì muốn lợi vui tất cả hữu tình, mà mặc áo
giáp đại công đức.
Nguồn: www.quangduc.com
Hội Thứ NhấtPhẩm