LƯỢC GIẢI BỔN MÔN PHÁP HOA KINH
Tích môn là những gì chúng ta nhìn thấy, nắm bắt, suy nghiệm được và Bổn môn thuộc phần sâu kín trong lòng người. Đối với hành giả Pháp Hoa, niềm tin sâu xa tự đáy lòng, hướng trọn về Tam bảo rất cần thiết cho việc học đạo, hành đạo. Xây dựng trên niềm tin kiên cố, bài nguyện hương mở đầu cho nghi thức thọ trì Bổn môn Pháp Hoa kinh.
Thật sự tôi không biết làm thơ, nhưng bỗng dưng một ngày đẹp trời, nắng ấm, bài tâm hương tuôn trào. Thiết nghĩ đó là kết tinh của lòng thành trên 40 năm miệt mài thọ trì kinh Pháp Hoa và đến thời điểm hữu duyên hình thành bài nguyện hương như vậy. Tôi xin giới thiệu phần tâm hương của Bổn môn Pháp Hoa mà tôi cảm nhận được để chia sẻ an lạc, giải thoát với những pháp lữ đồng hành có cùng độ cảm và nhân duyên với Pháp Hoa.
“Đốt nén tâm hương trước Phật đài,
Ngũ phần dâng trọn Đức Như Lai,
Cầu xin nhân loại lên bờ giác,
Hạnh phúc bình an khắp muôn loài.
Đốt nén tâm hương cúng Phật Đà,
Lòng thành gởi tận chốn bao la,
Cầu xin Tam bảo thường gia hộ,
Đạo pháp hoằng thông đến mọi nhà.
Đốt nén tâm hương ở Ta bà,
Nhớ lời di huấn Đức Thích Ca,
Cầu xin Bồ tát Tùng địa xuất,
Thầm giúp cho người tụng Pháp Hoa".
Bài nguyện hương ngắn, đơn giản có 3 đoạn, 12 câu, nhưng mở ra cánh cửa cho chúng ta vào đạo. Không qua được cửa này, chúng ta hoàn toàn tuyệt phần đối với thế giới Bổn môn.
Mở đầu, chúng ta đốt hương và nói lên tâm nguyện của mình. Người Nhật rất kỹ về việc dùng hương. Họ không đốt nhiều hương như chúng ta và cũng không dùng gỗ tạp để làm nhang, vì đốt lên làm cho nước mắt, nước mũi dàn dụa, ngộp thở, không thể nào thanh tịnh nổi. Nhang của họ rất nhỏ, chỉ lớn bằng chân nhang của ta và không dài quá hai tấc, họ thường chọn các danh hương là trầm hay ít nhất cũng là bạch đàn.
Tuy nhiên, dù hương thơm quý đến đâu, cũng chỉ là hương trần, không có khả năng bay ngược gió, làm sao đi vào pháp giới, đến với Phật và làm lợi cho chúng sanh được.
Hương thơm bên ngoài, cùng với thân thể tắm rửa sạch sẽ, thuộc duyên phụ, kết hợp với hương lòng, tức tâm thành của chúng ta. Tâm tốt, hành động tốt, mới là phần chính yếu đưa chúng ta đến với Phật được.
Đến trước bàn thờ Phật, nghe mùi hương thơm nhẹ nhàng phảng phất và bằng lòng thành cao độ, chúng ta quỳ xuống bạch Phật:
“Đốt nén tâm hương trước Phật đài. Ngũ phần dâng trọn Đức Như Lai. Cầu xin nhân loại lên bờ giác. Hạnh phúc bình an khắp muôn loài”.
Đây là pháp tu từ ngoài lần vào tâm. Phần lớn khởi đầu, chúng ta nhìn thấy tượng Phật hay vị sa môn giải thoát hoặc cảm một câu kinh, bài kệ nào đó mà phát tâm đến với đạo. Riêng tôi, luôn luôn đặt tượng Phật trước mặt, để hình ảnh đẹp của Ngài thường xuyên thâm nhập vào tâm trí. Khi tham thiền, lễ bái, hình ảnh Phật là đối tượng gần gũi tôi nhất. Từ cách sống đem Phật bên ngoài vào lòng như vậy, khi gặp nghịch cảnh thì Phật xuất hiện liền, xoá mất hình ảnh xấu, khiến tôi không khởi bực tức mà còn phát triển tâm từ.
Nhờ Phật thường xuyên hiện hữu trước mặt, làm sống dậy trong lòng, bất chợt một hôm quỳ trước tượng Phật, tôi cảm nghĩ đây là tượng Phật ngồi đài sen, gọi là Phật đài, không phải Phật thiệt. Tuy nhiên, qua làn khói hương nhẹ nhàng, bằng độ cảm từ từ dâng lên, Phật cốt tan biến lúc nào không hay, để hiện ra cho tôi một Đức Phật thực khả kính. Lúc ấy, tôi chỉ còn một niềm tin trọn vẹn đối trước Đức Phật đầy đủ ngũ phần Pháp thân. Từ giây phút đó, cánh cửa của thế giới tôn giáo mới bắt đầu thực sự mở ra.
Đức Phật đã Niết bàn hơn 25 thế kỷ, nhưng Pháp thân Ngài vẫn thường trú vĩnh hằng, nghĩa là sự nghiệp của Ngài để lại cho chúng ta kết tinh trong năm phần chính. Trước nhất, Đức Phật tiêu biểu cho đấng trọn lành, không phạm chút lỗi lầm. Ngày nay, nhân loại nhắc đến, vẫn tôn vinh Ngài là bậc đức hạnh vẹn toàn; tức Pháp thân giới đức của Ngài vẫn sống mãi trên cuộc đời này. Từ nền tảng con người giới đức hoàn toàn, tâm đức Phật luôn thanh thản trước mọi hoàn cảnh thuận nghịch, xấu tốt, khen chê. Định lực của Pháp thân Ngài uy nghi sừng sững trước mọi tác động của phàm phu.
Tâm hồn định tĩnh, giới đức vẹn toàn, phát xuất từ nguồn tuệ giác siêu tuyệt của Đức Phật. Tuệ Pháp thân hay những lời chỉ giáo của Ngài để lại trong tam tạng giáo điển vẫn là kim chỉ nam soi đường dẫn bước cho những người hướng thượng trên khắp năm châu. Mặc dù thành tựu mọi việc khó khăn trên đường hành đạo, nhưng không việc nào hay điều gì có khả năng ràng buộc, làm vướng bận thân tâm Ngài, không còn vấn đề gì tồn đọng trong tâm trí, tiêu biểu cho giải thoát và giải thoát tri kiến Pháp thân.
Đức Phật vắng bóng trên cuộc đời, chúng ta nhớ nghĩ đến Ngài, tức nhớ đến ngũ phần Pháp thân kể trên. Để đi theo con đường Phật vạch ra tương ưng với ngũ phần Pháp thân, chúng ta phải sử dụng năm phần tâm hương dâng cúng.
Trước tiên, làm sao đốt cho được nén tâm hương để cúng Như Lai mới quan trọng, không phải đọc suông cho sướng tai. Trong cuộc đời tu hành, tôi đã từng thể nghiệm pháp tu này, thâm nhập được thế giới Bổn môn, nên gợi ý cho quý vị tự đốt hương lòng, đừng tưởng đọc nguyện hương cho Phật nghe, thương ta.
Nén tâm hương là gì và đốt bằng cách nào, dùng gì để đốt ? Chúng ta cần giải quyết những vấn đề mở đầu này mới có thể thọ trì Bổn môn. Nếu không tìm ra nguyên liệu và không biết cách đốt, có nói suông năm này qua năm khác cũng vô ích. Ví dụ ai cũng biết sức mạnh của hạt nguyên tử thật kinh khủng, nhưng hạt nguyên tử là gì và làm thế nào để khai thác nó thành sức mạnh to lớn mới quan trọng. Nếu chỉ giảng giải hoài trên lý thuyết thì nguyên tử cũng chỉ là tên gọi như bao nhiêu tên khác, chẳng ăn thua gì.
Đức Phật đã thành Vô thượng Đẳng giác vì Ngài biết rõ tâm hương là gì và biết cách đốt tâm hương. Ngài dạy chúng ta, còn phần thực chứng, mỗi người phải tự khám phá chúng ta là gì. Có phải là tứ đại ngũ uẩn hay không ?
Đức Phật khẳng định tứ đại ngũ uẩn không phải là TA, đốt nó vô ích, vì từ vô lượng kiếp chúng ta đã đốt nó bao nhiêu lần rồi. Chúng ta phải thay đổi ngũ uẩn như người thay áo thôi. Từ đó, người tu phải tìm cho ra con người thật trôi lăn trong sanh tử, đã mặc muôn ngàn chiếc áo khác nhau trong các loài. Tìm được con người thật tức chơn tâm hay Phật tánh hoặc Pháp thân, mà ở đây tôi dùng danh từ tâm hương.
Đọc bốn câu nguyện này nhằm nhắc lại ý Phật dạy trong kinh, giúp chúng ta nhận chân được tâm hương quan trọng và phải đốt được tâm hương. Đốt hương trong lư dễ, nhưng đốt tâm cho thành hương không đơn giản.
Bước đầu chúng ta mượn hình thức lư hương và đèn trí tuệ, cùng nương theo bốn câu nguyện như là điểm tựa nhấc chúng ta từ cuộc sống thực tế ngũ uẩn lên cuộc sống tinh thần. Trên tinh thần đó, quỳ trước Phật, dâng nén hương châm từ bản thể, tức bản tâm thanh tịnh, chúng ta nghe được tiếng lòng phát lên chân tình. Bấy giờ đọc ra tiếng hay không đọc, nhưng có công năng tách con người tâm linh ra khỏi con người vật chất, vui buồn vinh nhục của trần gian đều bị cắt đứt, đưa chúng ta về thể Không.
Ngược lại, miệng đọc, tâm nghĩ lung tung, chắc chắn muôn đời ở lại với sanh tử khổ đau. Chúng ta tu muốn đến thế giới Phật, tất yếu phải từ bỏ thế giới phàm phu, trải qua năm lần bảy lượt cương quyết thoát ly khỏi trói buộc hạn chế của ngũ uẩn thân.
Đốt hương bên ngoài xong, quỳ xuống phải đốt cho được tâm hương là lòng thành của chúng ta. Không có lòng thành thì hình thức trở thành vô ích. Ngược lại, tuy vật bên ngoài dâng cúng đơn sơ mấy, nhưng chứa đựng tràn đầy lòng thành, Phật vẫn chứng.
Thật vậy, các vị Tổ sư đắc đạo sống cuộc đời đạm bạc, không cúng phẩm vật đắt tiền như chúng ta. Tuy nhiên, chắc chắn lòng thành của các Ngài cao hơn chúng ta nhiều vì đã cống hiến cả cuộc đời tu hành theo chánh pháp Như Lai. Hoặc câu chuyện bà già cắt búi tóc đem bán để mua dầu cúng Phật. Về vật chất, những ngọn đèn của các vương tôn công tử trị giá gấp bội lần ngọn đèn dầu chỉ đáng một xu của bà lão. Nhưng trong tim đèn nhỏ xíu ấy tỏa rực ánh sáng niềm tin tuyệt đối và lòng chí thành của bà lão đến độ Đề Bà vận thần thông thổi không tắt được.
Vì đốt hương lòng, chúng ta cần dùng lửa tam muội, tức chánh định, nghĩa là khi chiêm ngưỡng Phật, Ngài tỏa sức thu hút mạnh, tác động tâm ta hoàn toàn lắng yên đến mức không còn biết đến hiện hữu của chính mình. Ta vẫn quỳ đó, nhưng trong tâm không còn bất cứ vọng niệm nào. Lòng thành và tâm bình ổn của chúng ta hòa vào nhau, phát ra tia lửa, khiến cho hương lòng chúng ta bốc lên, tỏa khói, làm ấm lòng ta và xông ngát hương thơm cho muôn loài. Nói cách khác, việc quan trọng phải tu thế nào cho đạt hiệu quả, có được tam muội chân hỏa sưởi ấm lòng mình và kế đến giúp cho trí tuệ bừng sáng. Chúng sanh nương theo đó phát tâm bồ đề, xa lìa phiền não, không phải đọc suông là xong việc.
Màn ngũ uẩn ngăn che ta và Phật bị lửa chánh định thiêu hủy và biến đổi năm phần : sắc, thọ, tưởng, hành, thức của ngũ uẩn thành năm phần tâm hương.
Bằng lòng thành thông với Phật, chúng ta dâng cúng tâm hương và Phật cho lại chúng ta phần Pháp thân. Cả hai đều ở bản thể thanh tịnh, không có trên cuộc đời.
Trước tiên, tu đúng chánh pháp, nghiệp chướng trần lao bị tiêu hủy, tạo cho chúng ta thân mới là thân giới đức. Chúng ta giữ trọn 5 giới hoặc 250 giới, 380 giới hay Bồ tát giới và thể hiện thành việc làm lợi ích chúng sanh, khiến người quý mến, tôn trọng. Chúng ta cảm hóa người bằng đức hạnh và đem thành quả này dâng cúng cho Phật. Ngài nhận việc làm tốt của ta, không phải nhận phẩm vật. Phật Niết bàn có tự thọ dụng thân, không sống bằng thức ăn vật chất nữa.
Tuy dâng cúng tất cả cho Phật, nhưng hiểu cho cùng, chúng ta làm cho chính chúng ta, vì tu hành càng cúng Phật, căn lành chúng ta càng lớn thêm, đạo hạnh càng cao hơn. Thành tựu giới đức là tạo được một phần tâm hương hay giới hương.
Kế đến, chúng ta tu tạo định hương. Định hương tiêu biểu cho tâm bình ổn, nhờ phá bỏ được thọ uẩn. Trong cuộc sống, chúng ta luôn bị chi phối bởi khổ thọ, lạc thọ. Cái gì làm chúng ta cảm nhận sung sướng và sống với nó là lạc thọ, cái không vừa ý, dày vò ta mãi là khổ thọ. Hết vui đến buồn, cứ như vậy, khổ vui bao vây hành hạ tâm hồn chúng ta không ngừng nghỉ. Muốn bình ổn, chúng ta phải từ bỏ cả hai, không nhận cái vui buồn của cuộc đời tặng cho ta.
Đốt cháy cảm thọ hay an trú xả thọ rồi, chúng ta thâm nhập bể Không của Bát nhã, ai làm gì mặc họ. Tâm hồn hoàn toàn yên tĩnh, việc đời không còn tác động. Người cầu nguyện thực khác với người cầu nguyện giả ở điểm đó. Cầu nguyện giả nên liếc qua liếc lại và tiếng khấn phát xuất từ lòng tham lam ích kỷ. Trái lại, từ tâm hương cầu nguyện, họ chỉ quỳ yên lặng. Và trong yên lặng đó, chúng ta thấy cả một sức sống mãnh liệt toát ra. Tâm của người cầu nguyện hoàn toàn định tĩnh, phiền não nhiễm ô không quấy rầy, không có gì trên cuộc đời có sức thu hút cám dỗ, mới có tư cách cúng dường, thông được với Phật và nhận được Phật lực hộ niệm.
Khi thành tựu được định hương, cảm thọ đã dứt, không còn nghĩ tưởng đủ thứ như trước, nên tưởng uẩn cũng theo đó chấm dứt. Nhờ hết sạch vọng tưởng điên đảo, chuyên tu Thiền quán, chúng ta phát huệ. Lúc ấy, những gì phát xuất từ tâm bừng sáng đều là Pháp Hoa hay Tối thượng viên giáo, không loại bỏ gì, tất cả đều là nhân của Vô thượng Bồ đề. Tâm bừng sáng, thâm nhập được những gì Phật muốn truyền trao và nắm bắt được yêu cầu của thế gian, tùy theo đó giúp đỡ, khai ngộ cho người. Hiểu biết sáng suốt, dứt trừ phiền não cho mình và làm lợi ích cho người, kết thành huệ hương dâng cúng Phật.
Phật tại thế thuyết pháp làm trời người an lạc thế nào thì ngày nay ta cũng làm như vậy để cúng dường Phật. Trên tinh thần ấy, tôi rất vui khi hướng dẫn quý vị tu thanh tịnh ; nhưng quý vị không thanh tịnh, tôi tự thấy mình có lỗi với Phật.
Có được giới định huệ hương sẽ dẫn chúng ta đến giải thoát và giải thoát tri kiến hương. Trước khi tu, chúng ta muốn và nghĩ đủ thứ. Đến lúc vào chùa, chạm phải thực tế lại khác, việc không giống như chúng ta tưởng, nên dễ trở thành bực bội, chán nản, gây gổ. Đó là tâm của người mới phát tâm đầy tham vọng.
Trải thời gian dài thọ trì kinh điển, như pháp tu hành, nhận ra người và việc hiện hữu đều có lý do, muốn khác không được. Muốn hoàn toàn là tham vọng. Tâm bình ổn thấy được thực tế, những gì tồn tại đều có ý nghĩa. Hết duyên thì có muốn cũng không được, còn duyên thì muốn xóa cũng không nổi.
Với huệ sáng suốt, dưới mắt Thiền sư, những tồn tại trên nhân gian không có gì không phải đạo, không gì không đẹp. Các Ngài sống trong trần lao mà hoàn toàn giải thoát; khác với kẻ ở chốn giải thoát thiền môn mà vẫn đầy ắp tranh chấp, triền phược.
Nếu chúng ta thực sự giải thoát, mọi gương mặt đỏ, đen, trắng, vàng đều không chướng ngại. Đó là một thực thể tiêu biểu cho nghiệp của chúng sanh. Nhờ nó mà chúng ta thấy chân lý, hiểu chân lý và đến gần chân lý. Và cũng nhờ đó mà chúng ta rèn luyện ý chí của người xuất gia cầu đạo.
Tu đúng pháp, chứng được quả giải thoát, không ai dám làm phiền chúng ta. Người còn gây khó khăn được là biết chúng ta còn nghiệp, thầm cảm ơn họ giúp ta phát giác ra nghiệp và tiếp tục sám hối. Chẳng những giải thoát được những khó khăn, bức ngặt của cuộc đời, chúng ta còn nhẹ nhàng thanh thản với mọi thành quả tạo được; khác với người thế gian càng thành công thì càng bị công việc bao vây phiền toái hơn.
Chúng ta xếp những thành quả đạt được cho vào quá khứ, không nhớ tiếc cái đã qua, không mơ mộng điều chưa đến. Chỉ có một niệm hiện tiền, một lòng thẳng tiến, giải quyết việc trước mắt cho tốt đẹp, không còn gì khắc khoải, thắc mắc trong lòng.
Thức uẩn hay tri kiến thế gian biến mất để Phật huệ sanh, tạo thành giải thoát tri kiến. Ai đến với hành giả cũng được an vui. Điển hình như Xá Lợi Phất, một đại luận sư biết nhiều, nói giỏi, nhưng không ai khổ tâm hơn Ngài. Bất chợt gặp Ngài Mã Thắng đi khất thực, không nói. Trong yên lặng của con người chứng đắc Pháp thân giải thoát tri kiến, đã tác động cho Xá Lợi Phật giải thoát, tất cả thao thức ngàn đời tự rơi rụng.
Trong năm phần tâm hương, hôm nay chúng ta dâng cúng Phật được một phần, ngày mai cúng thêm được hai phần. Cứ như vậy, y theo pháp tiến tu để cúng Phật thì trên bước đường tu, mỗi ngày đạo đức chúng ta cao hơn, tâm hồn giải thoát hơn, hiểu biết sâu rộng thêm. Những thành quả chúng ta đạt được tương ưng với năm phần Pháp thân Phật mới có thể dâng cúng được. Trái lại, ở trong cung điện xông ngát hương trầm, nhưng không có năm tâm hương, Phật cũng không đến được. Trên tinh thần ấy, kinh Pháp Hoa dạy bất cứ chỗ nào có lòng thành, có đạo đức, trí tuệ, chỗ đó có Phật, dù là ngã tư đường hay đồng trống hoặc điện đường.
Như vậy, cúng hương nhằm nhắc nhở chúng ta phải trang bị năm phần : giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Ngày nào chúng ta cũng quỳ đọc bạch Phật, hứa cúng, nhưng không cúng vì có năm phần hương đâu mà cúng. Chúng ta đã phạm tội nói láo nặng.
Tôi rút gọn nguyện hương thành tâm hương, tức là bằng tâm thành tương ưng với Pháp thân Phật, chỗ nào cũng cúng được, vì không đâu không có Pháp thân.
Từ năm phần tâm chúng ta kết hợp với năm phần Pháp thân Phật, hình thành một thế giới tín ngưỡng, lúc đó mới khả dĩ nói bằng tâm, hay thốt lên : “Đốt nén tâm hương trước Phật đài. Ngũ phần dâng trọn Đức Như Lai”. Tất cả những gì tôi hiểu biết, tu hành đạt được kết quả tốt, tôi xin dâng cho Phật.
Khi lòng thành và năm phần tâm của chúng ta tự nhiên hội nhập với Pháp thân Phật, chúng ta có yêu cầu : “Cầu xin nhân loại lên bờ giác. Hạnh phúc bình an khắp muôn loài”.
Thiết nghĩ cúng cho Phật, nhưng chúng sanh phải được hưởng, phải phát tâm, mới đi đúng lộ trình Bồ tát đạo, thực hiện đúng nguyện của Như Lai. Ý này thường được kinh diễn tả : Thành tựu chúng sanh là cúng dường Phật.
Hành động cúng Phật, lòng chí thành và việc làm tốt của chúng ta dâng cúng Như Lai, nhưng thực Như Lai có dùng đâu. Cúng Như Lai xong, tất cả thành quả này quay về cho nhân loại. Năm phần hương : giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến ở trong yên lặng, đốt từ bản thể, cúng Như Lai mười phương. Và bản tâm thanh tịnh cuộn theo làn hương, âm thầm lặng lẽ đi vào lòng người, giúp họ xa rời vọng tưởng điên đảo, phát tâm bồ đề. Từ đó, thấy được việc nào đáng làm và không nên làm, nên đều thành tựu tốt đẹp, tứ sanh lục đạo nương theo được bình an. Trái lại, nếu không làm được như vậy, chúng ta đã phạm tội phá pháp.
Khi chưa thành tựu năm phần Pháp thân, chúng ta khó giáo hoá được chúng sanh, vì càng xây dựng nó càng chống trái. Nhưng trang nghiêm được thân tâm bằng năm phần Pháp thân, việc làm, lời nói của chúng ta đều là chân lý. Hành giả vào đời, mỗi người đi một hướng để đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác. Đó là mục tiêu trước nhất. Nhờ tâm tiếp cận Pháp thân Phật, chúng ta được an vui, giải thoát, nên cũng ước mơ cho người thân kẻ oán đều tiếp thu ánh sáng trí tuệ Phật và cảm nhận sự an lành trong pháp giống như chúng ta.
Đoạn niệm hương này tuy ngắn, nhưng quan trọng. Không làm đúng như vậy, không nhấc ngũ uẩn thân thành tâm hương đi vào thế giới Phật để cầu nguyện, thì tụng trăm ngàn lần cũng vô ích.
Thâm nhập dâng cúng năm phần tâm hương cho Phật, tâm trí chúng ta luôn sống dậy Phật, pháp, Thánh Hiền. Từ đó, tạo thành thế giới Thật Báo của Phật trong tâm tưởng, nên dù cuộc sống có hẩm hiu, chúng ta vẫn cảm thấy an lành. Đó là giai đoạn hai, thế giới của tâm, của niềm tin hiện ra.
“Đốt nén tâm hương cúng Phật Đà. Lòng thành gửi tận chốn bao la”.
Tâm hương chúng ta gởi theo mây khói, đi xa hơn nữa, tới mười phương bao la, không cùng tận, chỗ nào có Phật, lòng chúng ta sẽ đến đó cúng. Ý này được diễn tả trong kinh Hoa Nghiêm : “Nhất thân phục hiện sát trần thân, nhất nhất biến lễ sát trần Phật”.
Chúng ta có nhân duyên căn lành, đời này bị kẹt trong xác thân ngũ uẩn nên thường bị vướng mắc với hiểu biết giới hạn của sáu giác quan. Tuy nhiên, nhờ có lòng thành cao, niềm tin lớn, chúng ta phá tung được vỏ ngũ uẩn, sáu giác quan của thân không còn tác dụng nữa.
Người nào có sống với cảnh giới Thiền định dễ nhận ra điều này. Chúng ta lìa ngũ uẩn vì lòng để vào thế giới Phật, nên mười phương Phật hiện ra. Nói cách khác, từ con người ngũ uẩn của chúng ta biến thành niềm tin, thành tâm hương thâm nhập pháp giới, đi khăép mười phương. Tùy lòng thành của chúng ta muốn đến đâu cũng được, vì đi bằng tâm niệm, không phải dùng xác phàm. Đây là loại hình thế giới tu chứng do tâm thành tột đỉnh mà tạo được.
Trên bước đường tu, thâm nhập được thế giới bao la, tức giới đàn vô tướng, có được những kỳ diệu, như một Phật tử đến nói với tôi rằng : “Con đã thấy Thầy mười mấy năm trước”, mặc dù trên thực tế thì đây là lần đầu gặp tôi. Điều này gợi cho tôi hiểu vô tướng giới đàn có khả năng mang tâm đại bi đi cùng khắp. Ta không có ý nghĩ đến với họ, nhưng ai có nhân duyên thì tự nhiên nhận được tương ưng.
Ngài Thiên Thai giải thích ý này bằng ví dụ nước không lên trăng, trăng không xuống nước, nhưng trong nước có trăng. Cảm ứng đạo giao ở trong vô hình, chúng ta không thể thấy bằng mắt và khó giải thích được, nhưng có thực. Giống như âm thanh và hình ảnh đưa vào thể điện, không thấy, nhưng truyền đi khắp mọi nơi.
Cũng vậy, người tu Bổn môn ngồi yên, tham thiền, tụng kinh, chuyển làn sóng điện vào vô tướng giới đàn và từ đây truyền xuống tâm thức của tất cả người có nhân duyên căn lành. Họ tiếp thu được và nghĩ đến ta, phát tâm bồ đề, thoát được khổ ách. Thành tựu được pháp này chứng tỏ chúng ta đã sử dụng được tâm hương ở giai đoạn hai.
Tuy lòng thành của chúng ta gởi tận chốn bao la, nhưng có định hướng rõ rệt, thể hiện qua lời : Cầu xin Tam bảo thường gia hộ. Tam bảo : Phật, pháp, Tăng là ba nơi mà chúng ta gởi tâm tới, không bao giờ lạc hướng.
Phật bảo hay hiểu biết sáng suốt, giác ngộ hoàn toàn. Chúng ta hướng tâm gởi lòng thành đến đó, đến bất cứ người nào sáng suốt, giác ngộ hay lòng mong cầu của chúng ta là mong cầu Vô thượng Bồ đề. Kế đến, màn vô minh che kín cuộc sống con người, chẳng ai biết bên kia cửa tử, chúng ta sẽ ra sao, chỉ trừ các bậc lục thông La hán. Vì vậy, tôi thường suy nghĩ về quả vị A la hán cho chúng ta biết được ngày giờ mãn duyên ở cuộc đời này, biết được người đến với chúng ta vì yêu cầu nào, giúp ích hay ám hại chúng ta. Nói chung, hàng đệ tử Phật thực tâm tu hành, ít nhất đều hướng đến quả vị lục thông La hán, từ bỏ tất cả toan tính của thế nhân, biết tất cả việc xảy ra cho ta và người, nghĩa là biết chân lý hay là pháp. Sau cùng, chúng ta nguyện đến với bậc chân tu thật học Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác để cùng làm pháp lữ tu hành.
Khi tham quan thế giới Phật, sống thân cận với Tam Bảo, chúng ta ước mơ Đức Phật ứng hiện trên cuộc đời, Bồ tát xuất hiện cứu khổ ban vui cho người, vì sức của chúng ta có giới hạn, khả năng yếu kém, thân phận hẩm hiu, thì làm gì được. Vì vậy, chúng ta khởi ý niệm mong cầu “Đạo pháp hoằng thông đến mọi nhà”.
Nhà ở đây phải hiểu là nhà ngũ uẩn, tức từng con người, từng tâm hồn. Mong sao ai cũng tin Phật, không tin tà ma. Tin tà ma là tin gian dối sẽ giàu có. Tin Phật là tin nhân quả, nên phải sống đời sống chân chính. Tin Tam Bảo là tin trí tuệ sáng suốt, tin chân lý và tin người làm tốt, chắc chắn thế giới này sẽ an lành.
Ở giai đoạn hai, tu hành cầu nguyện, từ tâm đi vào thế giới bao la của Phật và sang giai đoạn ba, từ bao la trở về thực tế Ta bà. Trước ở thế giới Phật lý tưởng, thấy Phật, nghe pháp, đẹp tuyệt vời bao nhiêu, thì nay trở lại Ta bà, thấy thực tế kinh dị bấy nhiêu.
Tuy nhiên, dù có phũ phàng đến đâu, chúng ta bình tâm lại, mở mắt huệ ra mà quan sát thực tế, xét coi con người thực của mình là gì, tiền bạc có bao nhiêu, đạo đức và hiểu biết đến đâu. Thiên hạ cần gạo, chúng ta đáp lại bằng gạo, hỏi kỹ thuật phải trả lời kỹ thuật, hoặc nhờ che chở trước thế lực ác, chúng ta sẵn sàng bảo vệ họ. Như vậy, trở lại Ta bà tu, phải thấy rõ tâm địa từng người mà đối xử. Mỗi người có hoàn cảnh sống và tu khác nhau, phải giải quyết được tất cả yêu cầu cho người.
Đối trước vấn đề quá khó như vậy, trong khi thân phận nghèo hèn, khổ nhục của chúng ta sống trong sanh tử khổ đau, làm sao giải quyết đây ? Nếu thực lòng tu, mặc dù còn nhiều phiền muộn khổ đau bao vây bức bách chúng ta hoặc còn bận rộn nhiều việc, chúng ta cũng quyết chí dành một niệm tâm, một niệm thức tỉnh nhỏ bé nào đó, phát tâm Bồ đề tu hành. Những việc lớn lao chúng ta không làm nổi, chỉ cố gắng nuôi dưỡng một niệm, tự dặn lòng rằng Ta bà là như thế, ai có xấu với ta thế nào đi nữa, chúng ta cũng đừng tệ với họ. Nó Ta bà, nhưng chúng ta phải giữ tâm hương để làm sợi chỉ vàng nối tiếp ta xuyên suốt với thế giới Phật. Ngược lại, nó Ta bà, ta cũng Ta bà lại, chúng ta đã đánh mất dây liên hệ với Phật, đành phải ở luôn thế giới phàm phu này với họ ! Còn gì kinh khủng hơn nhỉ !
Trước thực tế Ta bà như vậy, chúng ta không gửi tâm hương đi thế giới khác nữa, phải đốt nén tâm hương ở Ta bà. Nhắc đến Ta bà, chúng ta nhớ ngay đến đấng giáo chủ cõi này là Đức Thích Ca, vị Thầy duy nhất mà chúng ta cần nương theo tu hành.
Kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai thọ lượng đã khẳng định rằng Đức Phật không chết, Ngài vẫn thường trụ ở Ta Bà thuyết pháp, che chở chúng ta, nhưng chỉ người nào có tâm ý ngay thật, diệu hòa, mới thấy Phật. Chúng ta đi khắp mười phương cũng không thấy Phật nào khác ngoài Đức Thích Ca, vì Ngài xác định rằng ở chỗ khác, Ngài có tên khác, mang loại hình khác. Vì vậy chúng ta đến đâu đều có Đức Thích Ca hiện hữu bên cạnh, nên thốt lên : “Nhớ lời di huấn Đức Thích Ca. Cầu xin Bồ tát Tùng địa xuất. Thầm giúp cho người tụng Pháp Hoa.”
Đức Phật dạy rằng Bồ tát mười phương đến Ta bà trợ hóa rồi cũng về bổn địa của các Ngài. Duy có Bồ tát Tùng địa dũng xuất giữ tạng bí Như Lai, phát nguyện giữ gìn người thọ trì kinh Pháp Hoa sau Phật diệt độ ở Ta bà.
Tôi cảm nhận sâu sắc lực gia bị vô hình của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni và Bồ tát Tùng địa dũng xuất luôn mật tá cho tôi trên bước đường tu, giúp tôi luôn sống trong an lành, thành tựu được Phật sự, mặc dù không tài giỏi, không khoẻ mạnh. Nhờ lực vô hình sắp xếp cho tôi làm đạo, khiến người lớn che chở tôi, người nhỏ thì tận tình với tôi. Những điều thật tốt, không tính toán được, do người không quen biết giúp đỡ bất ngờ trong cuộc sống tu hành, chúng ta thường gọi nôm na là gặp quý nhân. Khi chúng ta gặp tai nạn, khó khăn, họ giúp không cần trả ơn và chúng ta tìm họ cũng không được. Trong đời tôi từng gặp không biết bao ân nhân mà tôi muốn trả ơn không được. Đối với tôi, đó là Phật gia bị cho Bồ tát Tùng địa dũng xuất đến giúp tôi vượt khó khăn, nguy hiểm một cách nhẹ nhàng.
Được các Ngài mật tá rồi, chúng ta tiến tu thanh thản. Tuy nhiên, vì nhìn thấy người khác tu Pháp Hoa không đúng pháp, bị nhiều tai nạn, khổ đau, chúng ta khởi tâm từ bi, nhờ Bồ tát Tùng địa dũng xuất thầm giúp cho họ cũng được may mắn như hành giả.
Đọc câu kệ cuối cùng này, có người chỉ trích rằng tôi ích kỷ vì chỉ xin Bồ tát giúp cho người tu Pháp Hoa.
Theo tôi, chúng ta tu hành cần phải kiến lập đạo tràng hay chuyên môn hóa pháp môn tu mới có kết quả. Ở Nhật, họ rất chú trọng vấn đề này. Họ có nhiều tông phái, mỗi tông tu khác nhau, người tu Thiền phải vào Thiền đường, không thể tu chung với người chuyên trì chú hay niệm Phật được. Chúng ta không chống nhau, vì tất cả pháp đều tốt, nhưng cách hành trì mỗi pháp khác nhau, nên tu chung sẽ thành chỏi nhau, chín người mười ý sao tu được.
Người tu Pháp Hoa mới có độ cảm và liên hệ với Bồ tát Tùng địa dũng xuất vì các Ngài chỉ hiện hữu trong thời Pháp Hoa và phát nguyện hoằng truyền, hộ trì người trì kinh Pháp Hoa mà thôi.
Chúng ta cầu nguyện Bồ tát Tùng địa dũng xuất, trong đó có bốn vị thượng thủ : Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh. Bốn vị này tiêu biểu cho bốn đức. Chúng ta phải thành tựu một trong bốn đức giống các Ngài, tức đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, mới có thể bước vào thế giới Pháp Hoa mầu nhiệm.
Bồ tát Tùng địa dũng xuất phát nguyện hành đạo mãi mãi ở Ta bà, người trì kinh Pháp Hoa cũng có nguyện như vậy. Chúng ta sống trên cuộc đời thể hiện được một trong bốn hạnh của các Ngài và Bồ tát ẩn mật giúp đỡ chúng ta. Đó là sợi dây liên hệ giữa ta và các Ngài. Đọc đến đây, chúng ta tự cảm trong thế giới vô hình có hàng hàng lớp lớp Bồ tát gia bị đến, chúng ta rất yên lòng. Các Ngài thầm giúp, không ai thấy, nhưng ta cảm nhận được sự trợ lực ấy, mới dám phát nguyện ở lại đây, không sợ.
Tóm lại, ba đoạn ngắn của bài kệ nguyện hương phát xuất từ tâm thành, tạo mối liên hệ mật thiết giữa ta, Phật, Bồ tát hữu hình, vô hình và chúng sanh ; không phải là lời rên rỉ van xin mà không được gì.
Từ khởi tu của phần tâm hương giúp chúng ta phát bồ đề tâm, thâm nhập đạo tràng, tiến tu giải thoát và mang an lạc đến cho người. Từ thế giới hiện tượng này, chúng ta tiến sang thế giới Thật báo của chư Phật mười phương, nghe được pháp âm Phật và thấy Phật nhiều hơn. Bấy giờ, mọi người, mọi vật được ảnh hiện qua lăng kính tâm của chúng ta. Tùy tâm mà tạo ra xấu đẹp, vui khổ. Vì vậy người tu không dại gì thấy xấu để khổ. Lúc nhỏ, tánh tôi dễ bực, nên tôi tập nhắm mắt nhìn vật để thấy thế giới đẹp bằng tâm bồ đề. Thấy bằng tâm tham vọng, đẹp không nổi.
Sau cùng, tâm hương đưa chúng ta đến thế giới Thường Tịch Quang, nhìn nhau dưới dạng Bồ tát Tùng địa dũng xuất thân màu hoàng kim, tiêu biểu cho ý Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Tôi nhận được cốt lõi này, ứng dụng trong cuộc sống tu hành, chỉ tiếp xúc với ông Phật bên trong của người, với tâm bồ đề của họ, không giao thiệp với nghiệp ác bên ngoài, thì người xấu ác cũng trở thành tốt với tôi.
Mong rằng Tăng Ni Phật tử sử dụng được tinh ba của ba lời nguyện này trong cuộc sống tu hành để tâm hương của mỗi người chúng ta ở Ta bà mỗi ngày tỏa rộng lan xa cho cuộc đời này mãi mãi thơm ngát hương giới đức, hương từ bi, hương trí tuệ.
Xây dựng xong phần tâm hương đúng pháp, chúng ta mới thiết kế đạo tràng để thâm nhập pháp giới. Vì vậy, lúc nguyện hương, lực tập trung cao, tạo nên pháp giới thanh tịnh, chúng ta tiến tu, thực hành thêm được pháp khác. Hiểu như vậy, chúng ta nhận ra có lúc tụng kinh không thanh tịnh, không kết quả vì bố trí đạo tràng chưa đúng pháp. Chúng ta chỉ nói bằng lời, chưa thực nói bằng tấm lòng.
Nguyện hương, dâng lời tâm nguyện xong, giữa ta và chư Phật, Bồ tát thông nhau. Lúc ấy, không còn tượng Phật và ta bằng xương thịt, nhưng hiện hữu con người tâm linh của chúng ta thông qua Báo thân Phật viên mãn phước đức, trí tuệ ở thế giới Thật báo trang nghiêm.
Thấy Phật bằng năm phần tâm hương, chúng ta mới phát ra lời khen ngợi công đức của Phật gọi là tán Phật. Trong 10 hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát, có pháp tu thứ nhì là xưng tán Như Lai.
Chúng ta khen ngợi công đức của Phật và lạy Phật, hai phần này phải liên hệ hỗ tương mật thiết với nhau. Nhiều người phạm sai lầm khi tu hai pháp này tách rời ra. Không kết hợp được pháp lạy Phật và ca ngợi Phật thì công đức khó sanh. Thấy người lạy cũng bắt chước mà không hiểu tại sao lạy. Trên bước đường tu, phải tìm thấy đức hạnh của Phật, khiến chúng ta có độ cảm và bấy giờ đảnh lễ Phật bằng tất cả lòng thành, bằng niềm cung kính tuyệt đối, công đức mới sanh.
Từ xưa có nhiều bài tán Phật bằng chữ Hán rất hay, nhưng nay tôi thấy nhiều người không biết chữ Hán, nên đọc suông, không cảm được, quả là uổng công. Thiết nghĩ người Nhật có kệ tụng tiếng Nhật, Trung Hoa có kệ tụng của họ. Tại sao chúng ta không sử dụng bài tán thán Phật bằng chữ Quốc ngữ cho dễ hiểu.
Khởi niệm như vậy và đến một ngày hữu duyên, do độ cảm Phật trong 40 năm tu hành, tự đáy lòng tôi phát ra bài kệ ca ngợi công đức Phật :
Tâm Thế Tôn mảy trần không bợn
Thân của Ngài vô tận phước lành
Từ bi cứu khổ độ sanh
Chúng con đảnh lễ chí thành quy y.
Nhìn Phật hay nhìn thân tâm Ngài để chúng ta bắt chước cách sống bên ngoài và đời sống nội tâm của Phật. Kiểm điểm diễn biến tâm linh và hành động của chúng ta, so với Phật, từ đó tự điều chỉnh thân dần dần cho giống Phật.
Tâm của Phật thanh tịnh, một chút xíu phiền não bằng hạt bụi cũng không dính vô được. Riêng chúng ta thường làm ít hay không làm được gì, nhưng lại thích khoe khoang, kể công. Nay quan sát thấy Phật hoàn toàn khác hẳn. Ngài trải vô lượng kiếp tu hành, thành Vô thượng Đẳng giác, hiện thân mười phương giáo hoá chúng sanh, nhiều không thể tính kể. Trong pháp giới, không riêng loài người, mà cả bốn loài đều xem Ngài là đấng cha lành. Với vị trí cao tột như vậy, Đức Phật vẫn hoàn toàn thanh thản, lắng yên. Công đức Ngài tu tập từ quá khứ đến tận vị lai không bao giờ dứt. Tuy nhiên, tâm Ngài hoàn toàn trong suốt, giải thoát, lòng không vướng bận chút gì với những thành quả ấy. Từ so sánh đó, chúng ta xấu hổ, ăn năn, sửa mình lần, xoá bỏ những gì tồn tại trong lòng để tâm được thanh tịnh giống Phật.
Thân của Phật trang nghiêm bằng phước đức, trí tuệ thật lớn lao, vun chứa không biết bao công đức lành. Thật vậy, quan sát Báo thân Phật, nhận ra điều này rõ ràng. Mọi người làm gì cũng tự nguyện hồi hướng phước báo đến Ngài. Thực tế, xây chùa thờ Phật hay hoạt động Phật sự, nghĩa là nhắc đến Ngài, nhân danh Ngài để làm thì hằng tâm hằng sản dư thừa, ai cũng hết lòng. Trong khi chúng ta mang sổ đi xin tiền, họ có cho cũng khó chịu.
Chúng ta so sánh thân vô tận phước lành của Phật với thân phận nghèo đói hẩm hiu của mình để ăn năn, tu hành. Đọc với tâm niệm đó mới thực tu.
“Từ bi cứu khổ độ sanh. Chúng con đảnh lễ chí thành quy y”.
Khi chúng ta quy y với Phật, phải có lý do. Chúng ta không nương theo người nào, nhưng đối với Phật thì sẵn lòng dâng cả thân mạng, không tiếc, không sợ. Thân tâm Phật đầy đủ những điều thiện mỹ. Tuy nhiên, kết lại, lấy lòng từ bi là chính. Phật chỉ sống với tâm từ bi, nên Ngài yên lặng, nhưng ai nghĩ đến Ngài đều được an vui giải thoát.
Chúng ta cũng đem so sánh lòng từ bi của mình với lòng từ bi của Phật. Lòng từ bi của chúng ta có chăng cũng chỉ giới hạn, cũng chỉ thương được người tốt với ta, không thể thương được người đánh chửi mình. Người muốn xin tiền ta, họ phải nói điều đau khổ cùng tột để chúng ta động lòng từ bi mới cho. Như vậy, lòng thương của chúng ta trốn sâu trong lòng. Trái lại, lòng từ bi của Phật đầy ắp, tràn cả bên ngoài, thể hiện từ ánh mắt đến dáng đi, lời nói, cử chỉ, không chỗ nào trên thân Ngài không hiện từ bi. Nhờ so sánh vậy, lần hồi tu theo Phật, chúng ta mới hiện được lời nói của từ bi, nét mặt của từ bi, việc làm của từ bi.
Mở cuộc hành trình từ Ta bà đi lần vào thế giới Thật báo và thế giới Thường tịch quang, chúng ta thấy rõ lòng từ bi của Phật đạt đỉnh cao và cụ thể hoá bằng việc làm giáo hóa tất cả chúng sanh, không bỏ sót một loài nào. Cảm đức độ Ngài cao xa vời vợi mà thành kính rớt nước mắt, cúi đầu thốt lên : “Chúng con đảnh lễ chí thành quy y”.
Đó là phương cách tu theo giáo tông, đem hình ảnh Phật và giáo lý vào lòng để từ từ lòng chúng ta thanh tịnh giống Phật, cho đến hiện thân bên ngoài và hành động giống Phật.
Thấy Phật, nghĩ Phật như vậy, chúng ta lạy Phật mới không cảm thấy mệt mỏi, nóng bức. Riêng tôi, trời nóng, tôi lạy Phật không đổ mồ hôi và thấy được công đức hiện ra. Tuy nhiên, điều này không đơn giản, không phải lúc nào chúng ta lạy cũng dễ dàng có độ cảm và gặt hái được công đức.
Cảm nhận sâu sắc phước đức vô lượng của Phật, chúng ta mới đảnh lễ xin theo Ngài. Bước đầu tu hành theo Phật, tôi thấy khó vô cùng. Đức Phật từ thế giới Thường tịch quang hiện thân lại thế giới này và Ngài từ Ta bà trở về đó. Ngài qua lại hai thế giới ấy thật quá dễ dàng. Riêng chúng ta từ đây muốn về thế giới Phật quá khó khăn. Chúng ta xin theo Phật về thế giới của Ngài, nhưng xin là một lẽ, có đi được hay không là việc khác. Phải có thân tâm như Phật mới vào ra thế giới Ngài dễ dàng. Chưa giống Phật, dù có nói hoài, chúng ta vẫn cứ ở đây trơ trơ, chẳng đi đến đâu. Làm thế nào để đến được với Phật, đó là tiền đề cho chúng ta suy nghĩ trên suốt lộ trình Bồ tát đạo vậy.
C húng ta tán thán Phật có độ cảm rồi, bắt đầu lạy Phật. Pháp tu lạy Phật giúp thân tâm thanh tịnh, rất cần cho chúng ta ở đời sau. Thật vậy, hàng thượng căn thượng trí vào đạo bằng cửa pháp, cửa tâm. Người thấp hơn một nấc, nghe Phật nói thí dụ hay điều tương ưng với họ, liền liễu ngộ, tự điều chỉnh tâm ý thành thanh tịnh.
Hạng người thứ ba không có khả năng chứng ngộ lời Phật dạy, cần lạy Phật, sám hối để tiêu nghiệp, thấy đạo. Từ thuở nhỏ xuất gia, tôi siêng năng hành trì pháp lễ Phật, nhận được nhiều lợi lạc. Vì nghiệp chướng của chúng ta sâu nặng, thì thân cận người làm họ khó chịu, nghi ngờ, như vậy nghiệp ác ta càng dễ sanh. Chúng ta cố gắng lo cho họ, họ cũng không cần.
Theo tôi, chúng ta không cần chiều họ, vì vô ích, nên để tâm hướng đến Phật, Bồ tát thì tốt hơn. Các Ngài có tâm đại bi, thương chúng sanh vô điều kiện, người trần gian không thể có tâm đó. Những vị chân tu đắc đạo đã vượt ngoài tám tướng sai biệt, đầy đủ khả năng lăn xả vào đời để cứu độ người nhiều nghiệp chướng.
Chúng ta lạy Phật, Bồ tát, hướng tâm đến các Ngài cầu gia bị, tâm cũng tự thanh tịnh lần. Kinh nghiệm tôi trên bước đường tu, lúc nhỏ thường bệnh hoạn, ốm yếu, người nhìn thấy nghi ngờ tôi ho lao.
Tuy nhiên, tôi hết lòng lạy Phật, gần Phật, Ngài không chê. Nói đúng hơn, lòng tôi thích nghĩ đến Phật hơn là nhớ đến người trần thế, nên cũng không muốn gần họ. Lúc đó, tuy mang thân nghiệp, nhưng tâm thông được với Phật, tôi có cảm giác hơn người thế tục, vì bỏ xác này, tôi còn biết đường đi về với Phật. Nhờ không quan tâm đến chúng sanh, lo tu cho chính mình, trải qua thời gian dài, độ cảm tâm với Phật cao, phiền não thế gian không tác hại. Từ đó, nghiệp tiêu, tâm hoan hỷ sanh, tướng hảo hiện.
Bước đầu lạy Phật, mệt đẫm mồ hôi là biết nghiệp ta nặng. Dần dần, nghiệp tiêu, hôi dơ cũng mất, không còn đổ mồ hôi. Và tiến hơn nữa, không cảm thấy mệt mỏi, nhưng thấy vui. Cho đến không lạy Phật, có cảm giác như thiếu hụt, mất mát. Điều này chứng tỏ nghiệp ác giảm, căn lành tăng trưởng.
Đạt được thành quả ấy, người xem thường chúng ta bắt đầu để ý, tìm hiểu về ta. Tuy nhiên, khi căn lành sanh, phải cố gắng nuôi dưỡng nó. Nếu không, căn lành sẽ ốm bịnh, chúng ta trở thành nhất xiển đề, không tu được. Thực tế cho thấy nhiều người tinh tấn một thời gian, sau lại trở nên ác xấu, vì họ đã để cho căn lành chết mất.
Mỗi ngày siêng năng lạy Phật, tụng kinh và suy nghĩ lời Phật dạy, ứng dụng trong cuộc sống, căn lành sẽ lớn dần theo thành quả tu hành của chúng ta, tác động cho người sanh thiện cảm với ta.
Trên bước đường tu, đến đây, nhiều người thường dễ bị hư. Bước đầu, không được ai ngó ngàng, dễ tu, nhưng hảo tướng sanh thì ở đâu cũng mời thỉnh. Chúng ta phải quán sát căn lành của mình có đủ sức thuyết phục bạn ác hay không ? Nếu căn lành ta nhỏ, mà nghiệp của người thì lớn, họ sẽ dập chúng ta chết, ví như cây mới lên, phải coi chừng nhổ cỏ dại. Chúng ta tiếp xúc với người, lòng vẫn an nhiên, mới nên tiếp tục giúp họ, để căn lành của họ và ta cùng tăng trưởng. Nhưng căn lành của ta không ngăn chận được nghiệp ác của người, thì coi chừng ta bị họ độ ngược lại.
Bước đầu tu phải dè dặt. Chỉ giúp đỡ người đến mức độ nào mà ta có thể kiểm soát được. Vì vậy, căn lành còn nhỏ, chỉ nên chơi với người tốt. Vượt quá sức, chúng ta bị hại, tức phạm sai lầm rồi, người xem thường chà đạp, chắc chắn chúng ta khó tiến tu. Chỉ còn cách lạy Phật, sám hối, hướng về Phật, Bồ tát để tu lại. Tất nhiên là phải cực khổ hơn giai đoạn một ta bắt đầu phát tâm tu. Âm thầm nỗ lực sám hối đến khi người không thấy ta xấu, mới trở lại tu chung với đại chúng được.
Chúng ta tán thán Phật, tạo được độ cảm tâm rồi, đầu tiên lạy Tam bảo vì Phật dạy muốn tu phải quy y Tam bảo, dù xuất gia hay tại gia. Ở đây chúng ta hướng về mười phương Tam Bảo quy y :
“Nam mô quy thập phương tận hư không giới nhất thiết chư Phật.
Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhất thiết tôn pháp.
Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhất thiết Hiền Thánh Tăng”.
Thực tế chúng ta tu dễ cảm điều này. Ở thế giới Ta bà toàn là chuyện phiền muộn, dễ chán, nên không để tâm. Bắt đầu tu hành, phải gá tâm ở Tịnh độ mười phương. Chỗ nào có Tịnh độ, chúng ta theo. Chỗ nào Ta bà, chúng ta rời bỏ. Mang tâm niệm tầm đạo, tầm tri thức mười phương, nghĩa là đặt niềm tin ở thế giới an lành.
“Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhất thiết chư Phật”.
Khởi điểm chúng ta tình nguyện đi theo Phật ứng hoá thân trên cuộc đời. Thấy Phật ứng hóa thân chỗ nào, hiện trong các loài, mang các thân hình thuyết pháp, chúng ta thấy biết được, cũng đến bằng tất cả lòng mình, dù Phật ở chân trời góc biển nào. Vì vậy, quy y Phật không có ý nghĩ ở chùa, nhưng bất cứ chỗ nào có Phật, chúng ta cũng tới, không nề gian nguy khổ cực.
Chúng ta tới với Phật bằng thân hay tâm. Tuy nhiên, vì sanh vào lúc không có Phật trên cuộc đời, nên chỉ có thể đến với Phật bằng tâm hay thức. Đứng yên, hướng tâm về nơi xa xăm, bằng lòng thành đó, chúng ta quy y với Phật, mới thấy được Ngài. Có bao nhiêu Phật trong mười phương, chúng ta có bấy nhiêu tâm thức để lễ. Tôi lễ Phật theo cách này nên thường quên hết tất cả việc bên ngoài. Quan trọng là giữa tâm thức tôi nở bung pháp giới và Phật xuất hiện trong đó để tôi đảnh lễ. Bằng thần thức lễ Phật, nghĩa là mỗi ngày đọc kinh, biết được việc làm của mười phương Phật, thần thức tiếp thu đưa vào A lại da thức. Bất giác một hôm, chúng ta ngủ quên, thì A lại da mở cửa cho Phật đó hiện ra.
Sơ tâm tu phải luôn sống với Phật, hướng về chân lý và để tâm đến tam thừa tứ quả giải thoát Tăng. Đừng hướng đến nghiệp Tăng, ác Tăng, họ sẽ truyền cho chúng ta phiền não, nghiệp chướng trần lao.
Quy y thập phương Hiền Thánh Tăng gồm Hiền Thánh Tăng của nhị thừa và Bồ tát thừa. Hiền vị của nhị thừa là người đắc từ sơ quả đến tam quả và hàng A la hán là Thánh vị. Tam Hiền của Bồ tát thừa thuộc hàng thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng. Hàng Thánh vị của Bồ tát thừa từ sơ địa đến thập địa.
Khi xướng lên câu :
“Nam mô quy y thập phương tận hư không giới nhất thiết Hiền Thánh Tăng”, chúng ta cảm nhận rằng nhờ nương theo Hiền Thánh Tăng và dùng giải thoát tri kiến hương, thấy được đồng lúc mười phương Phật.
Tận hư không giới mười phương có bao nhiêu Đức Phật hiện ra, ta đều đảnh lễ. Trên lộ trình tu tập, tùy mức độ hành trì mà thấy tận hư không giới mỗi ngày một khác. Dưới tầm mắt của A la hán, thấy được 75 ức Phật độ.
Qua tận hư không giới của Bồ tát cộng thêm 76 ức Phật độ và đến tam kỳ quả mãn, phần tận hư không giới cộng thêm 77 ức Phật độ. Đó là mức độ thấy được tất cả pháp giới.
Hàng tam thừa tu lễ cho đủ túc số này. Nhưng đặc biệt là theo Viên thừa, chỉ lạy Hồng danh thông được tất cả pháp. Vì vậy, Ngài Bất Không Tam tạng tán thán pháp Hồng danh sám hối là pháp cao tột.
Nhờ nương với Tam bảo mười phương, lạy ứng hóa thân Phật, Bồ tát và học giáo nghĩa của các Ngài lưu lại, tâm chúng ta từ từ an lành, trí tuệ sáng ra. Từ đó, nhìn ngược lại mới nhận ra Tam bảo của Pháp Hoa hay Phật thừa vượt lên sanh diệt, thường hằng, miên viễn, chúng ta sung sướng niệm :
“Nam mô Tối thượng thừa Viên giáo Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.”
Bước đầu niệm Phật, pháp, Tăng, nhưng nay tu Pháp Hoa niệm ngược lại, pháp trở thành chính, Phật là phụ, vì kinh Pháp Hoa là mẹ sanh ra các Đức Phật. Chư Phật đều do tu hành chánh pháp, mới thành Phật, nên pháp là chân lý có trước, Phật ra đời sau. Dù Phật nào cũng phải an trụ chân lý, rời bỏ chân lý không còn là Phật nữa.
Vì vậy, trước tiên chúng ta quy y pháp là Tối thượng thừa Viên giáo Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, chỉ cho chân lý, khác với pháp phương tiện. Pháp đó cao tột dung thông được tất cả pháp. Trên tinh thần hành trì được pháp viên dung vô ngại, hành giả đến với người tu các pháp khác như tham thiền, trì chú, niệm Phật, Khất sĩ, Nam tông... , chúng ta được họ chấp nhận và trở thành người xuất sắc nhất. Trái lại, nếu đến với người mà bị đánh đuổi, thì không phải là Pháp Hoa.
Tu Pháp Hoa phải kết hợp được Diệu pháp và Liên hoa, nghĩa là bên trong đầy đủ chân thật pháp bất biến và bên ngoài tùy duyên làm lợi ích cuộc đời. Ai cần, ta sẵn lòng giúp; xong việc, ta là ta. Ta không là của ai, nhưng là của tất cả.
Khi nhận ra được Pháp Hoa là mẹ của các Đức Phật, chúng ta quyết tâm tu theo diệu pháp, tìm thấy được trong phẩm Như Lai thọ lượng, Đức Phật khẳng định Ngài thành Phật từ vô lượng kiếp trước. Kinh diễn tả bằng con số ngũ bách ức trần điểm, không phải mới thành. Đức Phật đã thành Vô thượng chánh đẳng giác từ lâu xa đó là Báo thân Lô Xá Na. Từ Phật Báo thân viên mãn Lô Xá Na mới hiện ra trăm ngàn muôn ức ứng hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Phật Thích Ca là một hiện thân trong loài người.
Nhờ có sự hiện hữu của Phật Thích Ca trên cuộc đời, chúng ta nương theo hình bóng của Ngài mà tìm được Đức Phật cửu viễn Lô Xá Na kết hợp bằng phước đức, trí tuệ đầy đủ.
Chính vì cốt lõi bên trong của Phật Thích Ca là Báo thân viên mãn, nên hiện đời mang sanh thân như mọi người, nhưng Đức Phật Thích Ca tiêu biểu cho mẫu người hành Viên giáo, dung được và tổng hợp được tất cả, không vướng mắc pháp nào. Ngài hiện hữu sáng ngời trên cuộc đời, từ trẻ già, giàu nghèo, khôn dại, đều tôn Ngài là bậc Thầy, là đấng cha lành. Tâm Phật hàm chứa pháp tối thượng viên dung vô ngại và hiện ra bên ngoài 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và cuộc sống cao thượng thể hiện đầy đủ Diệu Pháp Liên Hoa.
Thấy được Đức Phật là bậc sáng suốt nhất, cao cả nhất, phước đức nhất, dung thông tất cả, chúng ta sung sướng đảnh lễ :
“Nam mô Cửu viễn thật thành đại ân giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật”.
Đó là Đức Phật bất sanh bất diệt thành Phật từ lâu xa, không phải mới thành. Cả một công phu hành Bồ tát đạo trong quá khứ, không đơn giản, nhờ vậy đời này Ngài hiện thân lại, thông minh xuất chúng, văn võ song toàn, mới 12 tuổi mà giỏi đến độ không thầy nào có khả năng dạy được.
Ngài thành Phật từ ngũ bách ức trần kiếp ở trong thế giới Thường Tịch Quang, không ai có thể xâm phạm. Vì thương nhân gian, Đức Phật phải mang thân ngũ ấm Thích Ca Mâu Ni để dìu dắt chúng ta trở về với cuộc sống vĩnh hằng an lạc như Ngài.
Cảm nhận sâu sắc lòng từ vô hạn của Phật như vậy, chúng ta mang cùng tâm trạng với Xá Lợi Phất ở hội Pháp Hoa, rơi lệ bạch Phật rằng tu hành theo ngoại đạo thiệt khổ sở, nhưng khổ rồi vẫn hoàn khổ. May nhờ Phật mở lối đưa đường, trong chớp mắt đạt quả vị A la hán. Ơn lớn của Thế Tôn, dù có dùng đầu đội, vai mang trong vô số kiếp, cũng không đền đáp được.
Chúng ta dùng tâm kiên cố ấy mà đảnh lễ quy y với Đức Phật cửu viễn có tâm kim cang bất hoại và thầm cám ơn Ngài đã khai mở chân lý.
Sau đó chúng ta lạy :
Nam mô Pháp Hoa Kinh chứng tín thị hiện Đa Bảo Như Lai, tiêu biểu cho Tăng bảo của Pháp Hoa.
Trước chúng ta lạy Hiền Thánh Tăng là người thay Phật giáo hóa chúng sanh. Nay Tăng của Bổn môn Pháp Hoa chỉ cho Đức Đa Bảo Như Lai là vị Phật quá khứ hiện thân lại nghe Phật Thích Ca thuyết pháp mới có chân lý, vì chân lý chỉ phô bày khi người nói và người nghe đồng đẳng, thông nhau.
Phật Thích Ca nói không lời và Đa Bảo nghe không tiếng. Hai tâm của Đa Bảo và Thích Ca thống nhất thành một, thể hiện Tam Bảo của Pháp Hoa có một. Thật vậy, mặc dù chia Tam Bảo thành ba là : Pháp tiêu biểu bằng Diệu pháp, Phật tiêu biểu bằng Đức cửu viễn thật thành Thích Ca Mâu Ni và Tăng là Đa Bảo. Nhưng ba phần này hợp thành một, vì Đức Thích Ca thành Phật do ngộ pháp và Ngài từ chân lý hiện thân trên cuộc đời vận dụng pháp, nói pháp cho người. Ai nghe, tu hành, ngộ được bản nguyên, trở về chân lý.
Trên tinh thần ấy, lạy kinh Pháp Hoa, lạy Phật cửu viễn thật thành Bổn sư Thích Ca Mâu Ni và Đa Bảo, nhằm mở ra cho chúng ta hiểu biết như vậy và đánh thức Phật tâm bên trong của chúng ta. Vì vậy, tu bên ngoài nhưng không tỉnh thức bên trong chỉ là nấu cát muốn thành cơm. Chúng ta thấy nhiều người càng tu càng dữ, càng khờ, vì phạm sai lầm này.
Với cách tu đánh thức bên trong bằng cách đem Phật, Pháp, Tăng vào lòng, lâu ngày ba điều quý báu này tự hiện ra trong cuộc sống chúng ta. Bổn môn Pháp Hoa diễn tả rằng tâm họ là Thiền, thân làm giống Phật, lời nói là pháp.
Đức Phật sanh tiền thuyết pháp làm an vui cho người, chúng ta từng bước cũng làm như vậy mới đắc đạo. Tâm là Thiền, chỉ cho tâm yên tĩnh đến mức độ trần duyên không khuấy động được.
Tâm thanh tịnh, trong suốt, hòa hợp, không chống trái, tiêu biểu qua hình ảnh Tăng già. Trên bước đường tu, lần lần phát triển yên tĩnh, sáng suốt ngay trong lòng, mặc cho cuộc đời làm gì cũng được, đừng để tâm ta giao động. Tu như vậy, nên khi bị ai làm phiền, tôi sợ và phục họ. Trái lại, bị khuấy phá, tôi không khởi niệm tức giận, tôi sung sướng vì tự biết mình gần được Phật.
Người được bản tâm thanh tịnh rồi, việc làm và lời nói của họ đều là chân lý. Người chưa đắc đạo, dù có nói chân lý cũng thành tà pháp. Điều này dễ nhận ra trên thực tế, chúng ta thấy người tốt, họ nói gì cũng tốt. Người không có đạo đức, dù có trau chuốt lời hoa mỹ, cũng chẳng ai tin được.
Quan trọng ở hành động và tâm của chúng ta. Chính vì vậy, có khi Thầy rầy mắng chúng ta, nhưng đó là lời đạo đức, người nịnh mà chúng ta vẫn thấy đó là lời phi đạo đức. Thuở nhỏ, học với Hòa thượng Trí Tịnh, tôi luôn nhớ Ngài dạy rằng nghe người khen phải tự xét lại mình, nên từ chối lời khen hay cố gắng vươn lên cho được như vậy.
Chúng ta nương theo Tam bảo, thấy Phật Đa Bảo từ quá khứ hiện thân trong suốt, Phật Thích Ca là đấng vô thượng năng nhơn và lời Phật nói nhằm khai thị nhất thừa. Chúng ta cũng đánh thức cái trong suốt, đánh thức phần vô thượng năng nhơn, điều chỉnh lời nói và cuộc sống của chúng ta.
Trên căn bản đó, chúng ta càng thu ngắn khoảng cách giữa thế giới xa xăm của chư Phật và thế giới này gần lại bao nhiêu, thì càng dễ tiếp cận chân lý bấy nhiêu. Thu ngắn bằng cách nào ? Theo tôi, khi phát nguyện đồng hạnh với Bồ tát nào, sẽ được vị ấy gia hộ. Trở về thực tế, được một hạnh Bồ tát nào, sẽ có Bồ tát hữu hình hay một số người tốt đến hợp tác, giúp đỡ và thương quý chúng ta. Làm được như vậy, chúng ta kéo Tịnh độ gần lại Ta bà, vì mang qua đây được một Bồ tát là đẩy được một ác ma. Khi tu, ác ma còn đến quấy nhiễu, tự biết chúng ta còn cách xa đạo, chưa phải người trì kinh Diệu Pháp.
Theo tinh thần Pháp Hoa, Tịnh độ và Ta bà chỉ là hai mặt của một bàn tay. Khởi một niệm ác là Ta bà, một niệm thiện là Tịnh độ. Tịnh độ của Pháp Hoa nằm trong tâm của chúng ta.
Tóm lại, đi trên lộ trình tu hành, quy y theo Bổn môn Pháp Hoa, Đức Đạo sư dẫn chúng ta nhập môn qua cửa Tam Bảo mười phương, mở ra chân trời an lạc. Có được hành trang quý báu ấy, chúng ta tiến lên thâm nhập thế giới Pháp Hoa, kính lễ Đức Phật hằng hữu miên viễn, bất sanh bất diệt và Đức Đa Bảo Như Lai.
Mong rằng Tăng Ni Phật tử luôn nhiếp tâm an trụ trong diệu pháp, thân luôn hiện hữu tươi đẹp lợi ích cuộc đời, ngõ hầu báo đáp công ơn muôn một của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tu Pháp Hoa không đặt nặng vấn đề văn tự, ngữ ngôn, nhưng chú trọng đến thọ trì cốt lõi của pháp để tiến tu có kết quả. Nghi thức thọ trì Bổn môn Pháp Hoa gồm năm phần : Nguyện hương, lễ Phật, sám hối, phát nguyện và hồi hướng.
Trước tiên, chúng ta đảnh lễ Phật trong kinh Pháp Hoa nhằm mục tiêu trồng căn lành với các Ngài. Điều này cần thiết, vì Phật dạy rằng không có căn lành, không thể thọ trì Pháp Hoa. Muốn trồng căn lành phải thực hiện pháp lễ bái cung kính các Đức Phật, mang hình ảnh thánh thiện của Ngài vào tâm.
Tiến sang giai đoạn hai, ngoài việc kính lễ Phật, chúng ta cần tìm nghĩa lý sâu xa của kinh, xem Phật suy nghĩ như thế nào để hướng tư tưởng theo đó. Đây là pháp trồng căn lành ở Phật huệ.
Thực hành hai pháp này lâu ngày, thân tướng trở thành dễ thương và nhận thức sáng suốt giống Phật, tức nuôi lớn căn lành của chúng ta. Trên nền tảng đó mới có tư cách thọ trì Pháp Hoa.
Sau cùng, chúng ta muốn đi theo lộ trình Pháp Hoa, tất yếu phải tu Bồ tát hạnh, vì Pháp Hoa là pháp tu của Bồ tát, làm việc cứu nhân độ thế, lợi ích cho người.
Trong ba pháp tu trồng căn lành này, bước đầu từ thuở nhỏ, ngày nào tôi cũng lạy Phật, ít nhất 200 lạy. Tự nguyện lạy với tất cả tâm hoan hỷ và lòng thành kính, không phải bị bắt buộc. Trong khi các chú tiểu khác đi ngủ sau thời công phu khuya, tôi tiếp tục lễ Phật. Nhờ vậy, tinh thần thư thái, sáng suốt, nên lễ xong, tôi lại đọc kinh sách, dễ dàng nhận ra được ý Phật dạy.
Người có căn lành và sống với căn lành, tự nhiên tâm tánh khác với người mang nghiệp ác. Người ác thường có tâm niệm tranh chấp, muốn hưởng thụ, nhưng không chịu làm việc. Trái lại, người có căn lành, tu Bồ tát pháp, phát tâm bồ đề, bản thân họ không cần gì, chỉ thích làm lợi cho người.
Riêng tôi, nhờ siêng năng lạy Phật, thọ trì lý kinh, phát triển căn lành thêm sâu dày, tác động cho tôi vui thích công quả. Bất cứ tu ở chùa nào, tôi cũng tự mình tìm kiếm việc làm, không nề hà việc khó, việc khổ, không đợi sai biểu, bắt buộc mới làm.
Trong phần lễ Phật, tôi trích ra danh hiệu Phật, Bồ tát trong kinh Pháp Hoa. Chúng ta lễ lạy để liên hệ với các Ngài, học kinh nghiệm hành đạo của bậc tiền bối, ứng dụng vào cuộc sống hiện tại cho được lợi lạc.
Mở đầu, chúng ta quy y đảnh lễ Tam bảo mười phương và Tam bảo theo tinh thần Pháp Hoa, hành giả đảnh lễ ba đời mười phương các Đức Phật, hiện thân trên cuộc đời giáo hóa chúng sanh. Với pháp tu này, ba đời mười phương Phật được thu lại trong một niệm tâm của chúng ta, nhưng khi mở ra, không đâu không đến được.
Riêng tôi, 20 năm trước, chuyên thọ trì Hồng danh Pháp Hoa, nhận được an lành và niềm hoan hỷ vô cùng tận. Tôi cảm thấy giữa Phật và tôi có mối liên hệ gần gũi thân thương. Thiết nghĩ nhiều đời tôi đã từng thân cận, cúng dường các Ngài, nên đời này nhắc đến tên, thấy quen liền. Không có độ cảm này, tức không có nhân duyên với Phật, với kinh Pháp Hoa, tu hành khó kết quả.
Nghe danh hiệu Phật, nhận ra liên hệ thân quen và gợi nhớ xa thêm các Ngài đã từng làm những việc thánh thiện gì. Nhớ lại công hạnh Phật quá khứ, tất nhiên cũng nhớ đến quá khứ của ta mà cảm thấy xấu hổ, vì ta như thế nào mới ra nông nỗi như thế này. Lạy Phật, so sánh như vậy, chắc chắn chúng ta hết lòng ăn năn, sửa đổi, tu hành.
Lễ Phật ba đời mười phương là cách lễ của người tu Đại thừa. Lễ Phật quá khứ là học kinh nghiệm tu đạt kết quả hoàn hảo của bậc tiền bối. Lễ Phật hiện tại là cầu thiện tri thức giúp đỡ và lễ Phật vị lai là tranh thủ người chống đối trở về với chúng ta.
Như vậy, đảnh lễ ba đời mười phương Phật, chúng ta muốn tạo một thế giới hay một xã hội mà mọi người đều là Phật. Vì chúng ta đang sống trong thế giới đầy nghiệp chướng và phiền não, tràn ngập tranh giành, thù hận, sát hại nhau. Từ thế giới khổ đau này, chúng ta phát tâm bồ đề, tu hành, lần lần thăng hoa đời sống tâm linh, phát triển Phật huệ, thấy được dòng hiện hữu liên tục của Phật quá khứ, nối tiếp đến Phật hiện tại và Phật vị lai.
Kinh Pháp Hoa nêu 10 vị Phật quá khứ. Nhìn về Phật quá khứ, tức nhìn những tấm gương sáng trong lịch sử. Đức Phật nhắc cho chúng ta nhân hạnh tu hành của các vị Phật quá khứ như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật Oai Âm Vương, v.v..., để chúng ta nương theo đó mà tự rèn luyện, sửa mình.
Theo kinh nghiệm tu của riêng tôi, vị Phật nào tôi cảm thấy gần gũi nhất thì lúc có sự cố gì trong cuộc sống tu hành, tôi nhớ ngay đến vị Phật đó và thấy công hạnh các Ngài hiện ra. Trên bước đường tu, chúng ta không cảm đức, không thấy nhân địa tu hành của Phật, chỉ lạy suông, không thể có kết quả.
Kính lễ chư Phật quá khứ không còn hiện hữu trên cuộc đời, nghĩa là trân trọng cả một sự nghiệp trí tuệ của các Ngài để lại, làm gương sáng cho chúng ta noi theo.
Mở đầu là Phật Oai Âm Vương. Theo Thiền tông, Oai Âm Vương là vị đầu tiên ngộ pháp thành Phật. Ở thời kỳ trước Ngài, không có Phật. (Oai Âm Vương Phật tiền, dĩ pháp ấn tâm ).
Đối với hành giả Pháp Hoa, lạy Phật Oai Âm Vương là lạy hai muôn ức Phật, tạo cho ta độ cảm đảnh lễ Đức Phật khởi thủy. Đức Phật quá khứ này dẫn đến hiện tại và mãi trong tương lai vẫn hiện hữu không mất. Điển hình như tiền thân của Phật Thích Ca là Thường Bất Khinh đã từng hành đạo Bồ tát trong thời tượng pháp của Phật Oai Âm Vương. Nhờ có đối tượng là các Tỳ kheo tăng thượng mạn đánh chửi, ném đá, Ngài chứng ngộ pháp, nghe được 200 muôn ức bài kệ Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương thuyết, lậu tâm được thanh tịnh, thấy thật tướng các pháp. Lúc trước, Thường Bất Khinh nói, họ đánh chửi, không nghe. Sau khi ngộ chân lý, thấy cái đáng nói, đáng làm, thì hàng tăng thượng mạn quay lại cầu học.
Oai Âm Vương nghĩa là lời nói có quyền uy cao nhất. Pháp của Oai Âm Vương tiêu biểu cho chân lý thể hiện dưới dạng quyền uy tuyệt đối, tức lời nói phải đúng chân lý, làm lợi ích cho người an vui, giải thoát.
Chúng ta lạy Phật Oai Âm Vương hay học theo hiểu biết tuyệt đối của Ngài, từ đó phát ra lời nói xác thực, có giá trị. Lạy Phật Oai Âm Vương , cũng khiến tôi nhớ đến lời dạy của Hòa thượng Trí Tịnh nhắc nhở “ Biết là nói được. Và còn phải biết thêm có nên nói hay không và nói ở đâu, nói với ai, lúc nào”. Nói không đúng lúc, không đúng đối tượng hoặc bắt chước lặp y lời người lớn, đều có thể chuốc họa vào thân.
Tôi lạy Phật Oai Âm Vương hình dung hiểu biết tuyệt vời, lời nói có uy lực tuyệt đối của Ngài mà nhớ đến thân phận mình cố gắng phát huy tự thân. Với phương cách lạy Phật, quán tưởng và thể nghiệm trong cuộc sống tu hành như vậy, tôi được Phật lực gia bị, lần hồi từng bước, lời nói cũng có giá trị, được một số người tôn trọng, nghe theo.
Tuy nhiên, để cho việc thấy đúng và lời nói có giá trị, kinh Pháp Hoa giới thiệu chúng ta học thêm với Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Khi lạy Ngài, chúng ta nhớ đến phẩm Tựa trong kinh Pháp Hoa, theo đó nghi thức nói pháp chân thật của các Đức Phật đều giống nhau. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi từ vô lượng kiếp trước mang tên là Diệu Quang đã thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh hiện thần biến tướng trước khi nói kinh Pháp Hoa.
Lạy Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh là lạy hai vạn Phật đồng tên và đồng họ Phả Loa Đọa. Đức Phật này đã có trước khi Phật Thích Ca ra đời. Lạy Ngài để mong được ánh quang của Ngài soi rọi đến ta, để thu ngắn thời gian hành đạo và tiếp nhận được pháp chân thật.
Nhờ pháp tu này mà chỉ trong 49 ngày, Nhật Liên Thánh nhân thấy được các Đức Phật quá khứ, nghe được pháp âm và được xưng tụng như Thượng Hạnh Bồ tát.
Hai vạn Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh tuần tự ra đời, mang cùng tên, nhằm chỉ chân lý hằng hữu, tức bất cứ Phật nào cũng phải giống nhau ở điểm Nhật, Nguyệt, Đăng, Minh.
Minh là ánh sáng. Nhật là mặt trời. Nguyệt là mặt trăng, Đăng là đèn. Nghĩa là Phật có ánh sáng trí tuệ, biết và làm được tất cả ; nhưng tùy thời, tùy chỗ, sử dụng trí tuệ khác nhau, nên phân ra có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn.
Nhật, nguyệt, đăng, tiêu biểu cho ba thân Phật. Một Phật nhưng hình dung thành ba thân. Nói cách khác, một ngưòi muốn làm được việc phải có ba điều kiện hay hằng hữu dưới ba dạng khác nhau; có lúc như mặt trời, lúc là mặt trăng hay ngọn đèn.
Mặt trời chỉ cho Pháp thân Phật muôn đời không thay đổi. Trí tuệ tuyệt vời của Pháp thân Phật ví như ánh sáng mặt trời cực mạnh, cao nhất, nắm bắt chân lý và vận dụng chân lý tự tại.
Theo tinh thần này, trong thời Pháp Hoa, Đức Phật thuyết chân lý. 5.000 Tỳ kheo tăng thượng mạn bỏ đi, không nghe. Đức Phật khẳng định họ là cỏ rác, ra đi càng tốt.
Các thời pháp trước, Phật không nói thẳng như vậy. Vì lòng từ bi, muốn cho mọi người đến gần chân lý, Ngài phải sử dụng ánh sáng mát dịu hơn, không nóng gắt như ánh mặt trời. Ngài vỗ về, khuyến khích chúng ta tu, giáo hóa bằng cách lấy Ngài làm thí dụ để chúng ta noi theo tu hành.
Ai bắt chước thực hành theo, được Phật khen ngợi, không theo thì thôi. Ngài không nói thẳng lỗi, nhằm tránh chạm tự ái. Đức Phật đối với chúng ta tràn đầy lòng khoan dung y như bà mẹ hiện đối với đứa con ngu dại.
Ánh sáng mặt trăng trong đêm dài sanh tử thỉnh thoảng lóe lên. Nơi nào có nước, dù nước đục hay trong, đều có trăng hiện vào. Cũng vậy, người nào có tâm hồn dịu hòa, ngay thật đều thấy Phật. Phật này là Phật Báo thân giáo hóa chúng sanh.
Tuy nhiên, ở thế gian tìm được người ngay thật, dịu hòa, không dễ. Ngoài ra, còn đỏi hỏi tâm hồn chúng ta lắng yên hoàn toàn, mới tiếp nhận được Báo thân Phật soi sáng. Tâm vừa ngay thật, dịu hòa, vừa yên tĩnh. Điều này quá khó đối với chúng sanh đầy nghiệp chướng ở Ta bà, nên chúng ta không thể nào hiểu và thấy được Báo thân Phật.
Từ đó, Ngài muốn giáo hóa chúng ta, phải ứng hiện mang thân tứ đại, ngũ uẩn giống như ta. Phật hiện sanh thân, dùng ngôn ngữ và thân người để giáo hóa, rồi Niết bàn, được tiêu biểu bằng cây đèn.
Nhờ ngọn đèn của Phật rọi đường, tức nương theo kho tàng giáo lý của Ngài để lại, chúng ta thoát ra khỏi đường hầm sanh tử. Như vậy, ánh sáng giác ngộ hay trí tuệ của Phật phân làm ba thứ : giáo hóa chúng sanh trên tâm bình đẳng, trên Bồ tát hạnh và ứng hiện tùy loại hình.
Chúng ta lạy Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, liên tưởng đến Pháp thân, Báo thân và Ứng thân Phật, cũng tự luyện cho mình có ba thân hay ba tâm : bình đẳng, đại bi và hằng thuận.
Càng lạy, càng nuôi lớn ba tâm này, chứng tỏ chúng ta đang cảm hạnh Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh và nhận được lực Phật gia bị. Nếu không sanh trưởng được ba tâm này, tức không phát huy được Pháp thân, Báo thân của chính mình, coi như lạy vô ích.
Cuối thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh có Phật Nhiên Đăng. Nhiên Đăng nghĩa là mồi đèn. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh có đủ ba thân giáo hóa chúng sanh, nhưng Phật Nhiên Đăng mang tính thừa kế chư Phật mà kinh diễn tả là Phật sau cùng.
Trước kia, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh làm được tất cả, khi là mặt trời, lúc làm mặt trăng hay làm ngọn đèn. Đến thời Phật Nhiên Đăng, không thể được như vậy. Phải lùi xuống một nấc, chỉ làm nhiệm vụ mồi đèn, làm công tác gạch nối giữa người trước và người sau để gợi niềm tin cho họ tiến lên.
Lạy Phật Nhiên Đăng, tôi quán tưởng Ngài châm ngọn đèn trí tuệ cho Phật Thích Ca và mồi ánh sáng cho ngọn đèn tâm của chúng ta bừng sáng, bắc nhịp cầu nối liền thế giới tối tăm của người có căn lành với thế giới rực sáng của chư Phật.
Kế đến, chúng ta kính lễ Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, một vị có trí năng siêu việt. Trong phẩm Hóa thành dụ cho biết khi chưa tu, Ngài đã là Chuyển luân Thánh vương cai trị khắp thiên hạ thái bình. Lúc nhận ra đạo giải thoát cao quý cùng tột, Ngài liền xuất gia, giao ngôi lại cho 16 vương tử.
Đặc biệt, Ngài thành Phật rồi mà vẫn yên lặng trong 10 tiểu kiếp, chưa thuyết pháp. Đó là điều mà tôi tâm đắc khi học hạnh của Phật Đại Thông Trí Thắng. Ngài yên lặng, không nói, nhưng tác động trong khắp mười phương. Các Đại Phạm Thiên vương kéo đến cúng dường thượng diệu và thỉnh Phật thuyết pháp.
Các vị trời cao nhất cùng với 16 vương tử tiêu biểu cho tầng lớp trí thức lãnh đạo thiên thượng và nhân gian đến thỉnh Phật giảng dạy thì còn ai dám chống đối, chê bai.
Bốn phương, tám hướng Đại Phạm Thiên vương và 16 vương tử cầu thỉnh, nói lên lòng khát ngưỡng giáo pháp cao độ. Chính lúc đó mới đúng thời tiết nhân duyên để Phật thuyết pháp.
Thuyết pháp sớm, không đúng thời, họ tiếp nhận hời hợt, pháp không tác động vào tâm, không tẩy được trần nghiệp, nên phước không sanh mà nghiệp tăng trưởng, không thể tu được.
Lạy Phật Đại Thông Trí Thắng, chúng ta lập chí tu hành sao cho đạt được quả đức và dùng đức cảm hóa chúng sanh. Không vội vàng dạy người khi bản thân còn nhiều lỗi lầm, sai trái.
Lạy Phật Không Vương gợi nhắc đến phẩm Thọ học, vô học nhơn ký trong kinh Pháp Hoa, hiểu được thế nào là Bồ tát đạo.
Tất cả trời người đều xem A Nan là vương tử mới xuất gia, tu hành và mắc nạn Ma Đăng già. Nhưng Phật Thích Ca cho biết với sự bảo chứng của Phật Không Vương, A Nan là một đại Bồ tát lưu nghiệp để hóa độ chúng sanh. Ngài tu hành trong sự hộ niệm của Phật Không Vương, tạo được muôn ngàn công đức ở tất cả Phật độ. Ngài phát nguyện đời đời kiếp kiếp hộ trì tạng pháp Như Lai. Kinh điển còn tồn tại cho chúng ta nương theo tu hành đều do công đức của Ngài A Nan, một vị Bồ tát lớn thị hiện nghiệp thân.
Đức Thích Ca cho biết nếu nói ra sự thật của Ngài A Nan thì trời người sẽ kinh nghi và Tỳ kheo tự tôn phải đọa. Ngày nay, chúng ta không kinh nghi mà còn kính lễ Phật Không Vương qua Ngài A Nan, chắc chắn cũng được Đức Phật này hộ niệm và thành tựu được hạnh Bồ tát như Ngài A Nan trong mười phương thế giới Phật.
Lạy Phật Tự Tại Đăng Vương, chúng ta tập sống theo Ngài, đừng để tâm vướng bận bất cứ việc gì của trần gian mới thực sự giải thoát. Lòng thanh thản, vượt qua bao cạm bẫy, chướng ngại của cuộc đời, ví như mây bay không gì ngăn cản được.
Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức là vị đạo sư của Dược Vương Bồ tát. Ngài trợ hóa cho Dược Vương thành tựu được Nhất thiết chúng sanh hỷ kiến Bồ tát thân.
Tịnh Minh nghĩa là tịch nhi thường chiếu,không còn hiện hữu ở thế gian, nhưng đức hạnh vẫn lưu truyền, tác động mạnh đến độ làm cho Dược Vương hiện Nhất thiết sắc thân tam muội.
Đắc tam muội này, chúng sanh cần loại thân nào, Bồ tát hiện thân đó giáo hóa và hiểu được ngôn ngữ, giải được tâm tư, nguyện vọng của tất cả loài, gọi là Giải nhất thiết ngữ ngôn Đà la ni.
Lạy Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, cầu mong Ngài nhiếp trì để chúng ta cũng làm được những việc khó làm như Bồ tát Dược Vương.
Ngài giáo dưỡng Diệu Âm Bồ tát đạt được thần lực đặc biệt. Trong kinh ghi Diệu Âm mới khởi niệm đến Ta bà, ở đây liền nổi lên 84.000 hoa sen báu, trong chớp mắt, Ngài lại trở về thế giới phương Đông.
Vân Lôi Âm là âm thanh sấm sét trên trời, tiêu biểu cho quyền uy của Đức Phật. Xướng danh, đảnh lễ Ngài, chúng ta nghĩ đến thân phận mình không giáo hóa được ai, nên ước mơ nhận được lực siêu tuyệt của Đức Phật Vân Lôi Âm trợ giúp chúng ta phát huy khả năng, cũng có được lực nhiếp hóa mọi chướng ngại trên cuộc đời và làm được việc lớn như Diệu Âm Bồ tát.
Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí tiêu biểu cho trí sáng suốt, giác ngộ viên mãn. Chúng ta hoàn toàn mù mờ trước mọi sinh hoạt diễn biến của muôn loài, trong khi Đức Phật hiểu rõ ngọn ngành từ nhân đến quả.
Chúng ta đảnh lễ, cầu mong Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật rọi sáng tâm trí để chúng ta thấy rõ phần nào bộ mặt thực của chúng sanh mà phát ra được ngôn ngữ, âm thanh giáo hóa đầy sức mạnh thuyết phục.
10- ĐẢNH LỄ THẬP PHƯƠNG TẬN HƯ KHÔNG BIẾN PHÁP GIỚI QUÁ KHỨ NHẤT THIẾT CHƯ PHẬT
Cuối cùng, chúng ta tổng lễ các Đức Phật quá khứ và đặc biệt nêu danh các vị Phật trên, tạo cho ta một ý thức về nguồn, kính phục, lễ lạy nhân hạnh quả đức của các Ngài. Đức hạnh ấy vẫn tỏa sáng soi đường cho chúng ta phát huy nhân hạnh của chính mình.
Càng lạy 10 vị Phật quá khứ, tâm hồn chúng ta càng tương giao với Phật, nhận được lực Phật hỗ trợ để dũng mảnh tinh tấn trên lộ trình hành Bồ tát đạo đời đời kiếp kiếp không lui sụt.
Trải một thời gian dài không có Đức Phật ra đời, chúng ta khó nêu bâät được những điều chân thiện mỹ của Ngài, nếu không được chư vị Tổ sư và các bậc cao đức từng thế hệ kế thừa, chứng minh bằng cuộc sống cao đẹp của các Ngài. Sự hiện hữu của Phật hiện tại nối liền với quá khứ là điều rất quan trọng. Thật vậy, ngày nay, chúng ta ca ngợi Phật Thích Ca hay các vị Tổ sư, nhưng không có các bậc cao Tăng hiện tại sống gương mẫu giống Phật, giống Tổ, chúng ta cũng không thể tác động cho người phát tâm được.
Riêng tôi, trên bước đường tu nhờ gặp những bậc xuất thế, giúp tôi vững niềm tin. Điển hình như Thiền sư Sato ở Nhật Bản gợi cho tôi hiểu được sức mạnh của trí tuệ do Thiền định. Tôi nhận ra sự đắc đạo của Ngài qua các tín hiệu như Ngài biết trước cho người ra đón khi tôi đến thăm, dù không báo trước. Ngài cũng biết rõ ý định của tôi và khuyên nên về Việt Nam hành đạo, dễ tạo công đức hơn.
Trong Hồng danh Pháp Hoa nêu danh 18 vị Phật hiện tại, trong khi Phật quá khứ chỉ có 10 vị. Quá khứ ít, hiện tại nhiều là điều đáng mừng. Nhưng còn mang ý nghĩa khác nữa là những gì quá khứ thường bị giới hạn trong vòng tâm thức chúng ta, tức suy tư của chúng ta không có đối tượng.
18 vị Phật hiện tại gồm 5 vị Phật mà tiền thân là 15 vương tử của Phật Đại Thông Trí Thắng lãnh đạo tám phương, cộng thêm 3 vị là Phật Thiện Đức, Tịnh Hoa Tú Vương Trí và Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương. Con số 18 thường được các danh Tăng lý giải là 6 căn tiếp xúc với 6 trần, sanh ra 6 thức hay cộng cả ba lại thành 18, gọi là thập bát giới, tiêu biểu cho loại hình thế giới do tâm thức chúng ta biến hiện. Nói chung là hiểu biết của chúng ta không nằm ngoài căn trần thức.
Vì vậy, chúng ta lạy 18 vị Phật hiện tại ở tám phương để tạo mối liên hệ căn trần thức ; nói cách khác, tìm quan hệ trong cuộc sống chúng ta mà lấy Phật đức trang nghiêm để giúp ta thành Phật.
Mỗi phương đều có một vị Phật tương ưng với nghiệp thức chúng ta. Từ góc độ ấy, nhìn đâu cũng thấy Phật là ta đã tạo được cảnh Niết bàn ngay trên trần gian. Trái lại, chúng ta nhìn ra cuộc đời thấy toàn chúng sanh tệ ác, tất nhiên ta sẽ bực tức, đau khổ. Tất cả cảnh sướng vui, Cực lạc hay Ta bà, đau khổ địa ngục cũng đều từ tâm chúng ta mà tạo thành. Ý thức sâu sắc như vậy thì dại gì mà không quán thấy Phật để có được cảnh Cực lạc.
Kính lễ 18 vị Phật hiện tại, hoặc gần hơn, chúng ta hiểu Phật là tuệ giác, tức những người sáng suốt được tôn trọng. Chúng ta quan sát cách sống của họ để điều chỉnh cách sống của chính mình, không phải lễ tên Phật suông.
1 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG ĐÔNG
Trước tiên, kính lễ 5 vị Phật ở phương Đông. Đối với tôi, lạy Phật ở phương Đông dễ cảm nhận hân hoan vì nơi đó mặt trời mọc, tiêu biểu cho sức sống đang lên. Đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa, diễn tả Vô lượng nghĩa, cũng phóng quang về phương Đông, cho thấy 18.000 thế giới hay nguồn sống của các loài chúng sanh.
Những gì sắp mọc ở phương Đông hay lạy Phật phương Đông, ta thấy bao nhiêu Đức Phật sắp hiện ra. Đó là cả ước vọng nhìn về tương lai. Chúng ta cầu nguyện các Ngài, lần lần trên cuộc sống thực tế, thiện tri thức cũng đến hợp tác với chúng ta.
* Lạy Phật A Súc tiêu biểu cho ánh sáng trí tuệ hay còn có tên là Phật Vô Động, chúng ta hình dung ra thầy của Duy Ma Cật. Nhờ nương với trí tuệ sáng suốt của Phật Vô Động, Duy Ma trở thành người kỳ vĩ trên cuộc đời. Phật Vô Động không đến Ta Bà, nhưng gởi Bồ tát Duy Ma đến. Từ thế giới phương Đông của Phật Vô Động, hiện thân lại cuộc đời, mang tên Duy Ma, nghĩa là bản tâm thanh tịnh, thấy được mọi việc chính xác và làm lợi ích cho mọi người, được kính trọng tuyệt đối. Ngài thành công vì không lập y khuôn giải quyết của người trước. Duy Ma học được sáng suốt của Phật A Súc, sử dụng sáng suốt để quyết định những gì thực tế trải ra trước mắt, nói và làm phù hợp với cuộc sống thực tại.
Trên thực tế, tôi lạy Phật A Súc, thường nghĩ về những bậc chân tu mà tôi được thân cận. Có vị tuy ít nói, nhưng ai cũng kính nể như cố Hòa thượng Thiện Hòa. Trong buổi họp, Ngài ít phát biểu, nhưng mọi người thường muốn lắng nghe ý kiến Ngài. Vị thứ hai là Hòa thượng Trí Tịnh, thường ở trong phòng, ít tiếp xúc với người và cũng ít nói. Tuy nhiên, với cương vị Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương, Ngài đang giữ vai trò quan trọng trong Giáo hội. Và một vị cũng ít nói, có tác động cao hơn nữa là cố Hòa thượng Pháp chủ ở chùa Hồng Phúc. Mọi người muốn cầu học với Ngài, tìm hiểu về Ngài. Đó là ba vị cao đức tôi đã từng tiếp xúc, cảm thấy có sự gần gũi với Phật Vô Động. Trước khi học Phật Vô Động, tôi học được ở ba vị này ít nói, ít làm, nhưng trở thành người quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc cho những tâm hồn cầu đạo.
Chúng ta đang sống trong đêm dài sanh tử, cầu ánh sáng của Phật A Súc rọi sáng lòng ta để nhận ra được những gì đáng nói, đáng làm cho đạo pháp trường tồn.
* Kế đến lạy Phật Tu Di Đảnh. Tu Di hay Diệu Cao là tên ngọn núi cao nhất trong Diêm phù đề. Phật Tu Di Đảnh tiêu biểu cho bậc đạo đức cao nhất. Lạy Ngài, chúng ta nỗ lực trau giồi đạo đức càng cao càng tốt, mới có thể khuyên đời, dạy người. Nương với Ngài, chúng ta chuyển đổi từ con người bình thường, phát huy đức hạnh đến mức cao nhất, đạt quả vị Toàn giác.
Đảnh lễ Phật A Súc và Tu Di Đảnh, chúng ta nhớ đến tiền thân hai vị này là vương tử của Đức Đại Thông Trí Thắng Phật, đã có khả năng lãnh trị phương Đông. Mọi vật, mọi loài ở đó đều động, nhưng các Ngài vẫn an nhiên, không gì lay động tác hại được. Trong thế giới thanh tịnh không động loạn ấy, hai vị mới tìm ra được những điều phi thường mà thành Vô thượng Đẳng giác. Đó là điều gợi chúng ta suy nghĩ về hai vị này.
* Từ trí tuệ vô động của Phật A Súc, chúng ta tiến lên, học với Phật Thiện Đức tác động vào cuộc đời, mang an vui giải thoát cho người. Thật vậy, vua A Xà Thế phạm đủ ngũ nghịch thập ác tội, tuy còn sống mà đã thấy cảnh địa ngục hiện ra, cung điện hôi thối. Kỳ Bà Thánh y cũng đành bó tay. Nhưng nhờ căn lành đời trước, Phật quang soi đến tâm, khiến ông hối hận về việc đã thả voi say giết Phật và cũng nương ánh quang này, ông đảnh lễ được Phật Thiện Đức ở phương Đông mà hết tội và chứng Sơ quả.
Thuở nhỏ, tôi nghĩ mình trần lao nghiệp chướng nhiều, e sợ khó tu. Tuy nhiên, đọc kinh Quán Phổ Hiền thấy A Xà Thế nương với Phật Thiện Đức, giải được nghiệp bịnh phong hủi. Từ đó, tôi phát tâm lạy Phật Thiện Đức không biết chán, không cần nghĩ đến tiền nghiệp mà nghiệp tự tiêu. Vì vậy, tôi đặt thêm danh đức Ngài vào Hồng danh Pháp Hoa làm đối tượng kính lễ, mặc dù kinh Pháp Hoa không đề cập đến Ngài.
Tại sao lạy Phật Thiện Đức tội được tiêu ? Theo kinh Nguyên thủy, tội không thể tiêu. Trong khi kinh Quán Phổ Hiền, Phật dạy : “Dù tạo tội nhiều đến đâu chăng nữa, nếu đảnh lễ Phật Thiện Đức thì tất cả đều tiêu tan”. Tôi thắc mắc điều này và cầu Phật thương xót cho tôi nhận ra thâm ý Ngài. Sau cùng, bằng niềm tin sâu sắc ở lời Phật dạy trong kinh Quán Phổ Hiền, tôi hết lòng lạy Phật A Súc và quả thật tội tiêu, phước sanh. Tôi vượt qua khó khăn, có được thành quả như ngày nay.
Theo tôi, nghiệp chướng trần lao tiêu là do phước của chúng ta và quan trọng ở điểm được Phật bảo chứng. Chúng ta có thể hiểu ý này qua thí dụ tương tự như khi phạm nhân được ân xá, bản án được ngưng thi hành, nhờ đó tội nhân không bị hành hình, thoát chết. Cũng vậy, người có nghiệp chướng khổ đau, cảm được Phật Thiện Đức, đức hạnh và tâm từ của Ngài quá lớn, nên chỉ nghĩ về Ngài, thì thay đổi được định mệnh của chúng ta, bao nhiêu nghiệp tự rơi rụng như mùa Xuân, băng tuyết tự tan rã.
Chúng ta lạy Phật Thiện Đức, nương theo đức hạnh của Ngài để hành đạo, tội được tạm ngưng, chúng ta phải lo sám hối. Tu có kết quả thì xoá được nghiệp. Nghĩa là chúng ta lấy công chuộc tội, tạm gác nghiệp qua một bên, không nghĩ đến, lo làm việc công đức cho phước sanh. Đức Phật dạy nếu lấy ác để đối chọi lại với ác thì việc ác luôn luôn tăng trưởng. Chúng ta thường tự nghĩ phải nói cho hơn người, ra tay cho hơn người, nên phải đấu tranh không ngừng. Nhưng trái lại, lấy đức cảm hóa người là ý chính phải ghi nhớ khi lạy Phật Thiện Đức. Người ta nghĩ ác về mình, đối xử tệ với mình, thì theo Phật Thiện Đức, mình phải nghĩ thiện về họ.
Thuở nhỏ, tánh tôi ít chịu nhường ai, nhưng vẫn gặp hoài cảnh khổ. Tuy nhiên, nhờ lạy Phật Thiện Đức, khi bị ai chọc giận, tôi nhớ đến Ngài, lấy đức xóa hết, nên sẵn sàng chịu nhịn, chịu thua. Kết quả chuyển được nghiệp, thay đổi được hoàn cảnh xấu ác thành tốt.
* Kế đến diện kiến Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai ở phương Đông, là Thầy của Diệu Âm Bồ tát. Chúng ta đảnh lễ để học pháp giáo hóa của Ngài trong Thiền định. Ngài không nói, không phô diễn, nhưng tĩnh lặng của Ngài khiến chúng sanh phát tâm Bồ đề, được giải thoát. Diệu Âm Bồ tát thọ lãnh pháp này của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, nên chưa đến Ta bà mà 84.000 hoa sen báu đã xuất hiện ở Kỳ Xà Quật, trên đường Ngài đi qua, hoa rơi, đất rung động. Đức Phật Thích Ca cho biết Ngài điều được Diệu Âm đến Ta bà là ngầm giới thiệu cho chúng ta sự hiện hữu của vị Bồ tát này.
Vì vậy, tha thiết lạy Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai để Ngài nhiếp trì, tăng lực cho chúng ta giáo hóa được chúng sanh dễ dàng như Ngài.
Bồ tát Diệu Âm đã đến Ta bà, nhưng chúng hội không thấy. Thanh Văn, Bồ tát dùng pháp nhãn, huệ nhãn cũng không thấy. Đó là cách hành đạo của Diệu Âm làm được tất cả, nhưng không ai biết và cũng không cần ai biết, lấy tịnh để giáo hóa chúng sanh.
* Lễ Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương là Thầy của Phổ Hiền Bồ tát.
Phổ Hiền Bồ tát không hành đạo âm thầm lặng lẽ như Diệu Âm. Phổ Hiền dùng động để nhiếp hóa chúng sanh. Chúng sanh không thấy quyền uy, không sợ, nên Ngài từ phương Đông đến Ta bà thật hùng dũng với Thiên long bát bộ chúng đi theo. Trí Giả gọi cách thuyết pháp của Phổ Hiền là “phiêu chương”, nghĩa là biểu dương lực lượng, đưa ra những gì người ưa thích, nể phục, mới có thể ảnh hưởng họ. Phổ Hiền đến đâu, thì Trời mưa hoa Mạn đà la, Mạn thù sa, đất rúng nứt. Đất hay tâm địa chỉ cho tâm. Đất rúng nứt và mưa hoa diễn tả tâm người rung động đón nhận an vui, vơi khổ. Chúng ta dễ nhận ý này, vì trên thực tế, nếu có người đến giúp đỡ, dù họ chưa đến, tâm chúng ta đã rung động, họ mới hứa cho, chúng ta đã bớt khổ. Đến với tư cách mang tiền của để cứu trợ, dùng quyền uy để cứu giúp, sau đó thuyết pháp nhất định người phải kính trọng nghe theo.
Phổ Hiền nhờ thần lực của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương mà có được cách giáo hóa chúng sanh uy đức vô song ở thế giới động loạn, hoàn toàn khác với giáo hoá trong thiền định của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai.
Ngài Phổ Hiền nương theo Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương được, vậy chúng ta cũng hướng về vị Phật này để cầu nguyện Ngài nhiếp trì cho chúng ta có chút phần nào uy đức như Phổ Hiền Bồ tát.
Hướng về nguồn sống ở phương Đông lạy 5 vị Phật : A Súc, Tu Di Đảnh, Thiện Đức, Tịnh Hoa Tú Vương Trí, Bảo Oai Đức Thượng Vương, chúng ta có cảm nghĩ thọ nhận được năm điều tốt đẹp phi phàm từ các Ngài truyền đến : giáo hóa chúng ta trở thành vô động, giúp ta đạt được đức hạnh cao tuyệt nhất Ta bà, tịnh hóa được nghiệp chướng sâu dày của ta một cách nhẹ nhàng, tác động cho ta giáo hóa được chúng sanh trong thiền định và thành tựu đầy đủ uy đức. Đảnh lễ để tìm liên hệ ta và các Ngài trong năm dạng thức ấy mới có thể vững bước tiến tu.
2 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG ĐÔNG NAM : SƯ TỬ ÂM PHẬT VÀ SƯ TỬ TƯỚNG PHẬT
Sau khi lạy 5 vị Phật ở phương Đông, chúng ta hướng về phương Đông Nam đảnh lễ Sư Tử Âm Phật và Sư Tử Tướng Phật.
Sư tử là chúa sơn lâm, gầm lên muôn thú đều sợ. Tiếng nói của Đức Phật thường được ví như sư tử hống, tiêu biểu cho tiếng nói của chân lý, dẹp tan ngoại đạo, tà giáo. Thực tế cho thấy pháp Phật giảng dạy khiến các học thuyết đương thời không còn đứng vững và không giáo hóa được người kính tin theo nữa.
Đức Phật gợi ý trong kinh về Sư Tử Âm, Sư Tử Tướng Phật và chúng ta kết hợp hiện tại để thấy được điều đó trong cuộc sống thường nhật. Thật vậy, những vị chân tu với ngôn ngữ nhẹ nhàng, không trấn át người, nhưng không ai dám làm trái ý vì lời nói và việc làm của các Ngài chan hòa tình thương và trí sáng suốt. Tôi từng tiếp xúc với những vị Thiền sư chống gậy trúc, trông rất ung dung nhàn hạ, sống rất giản dị mà mọi người đều cúi rạp xuống, tuân thủ lời các Ngài dạy một cách tuyệt đối. Hoặc có người đau khổ cùng tột, không còn thiết sống, nhưng nhìn thấy dung mạo Thiền sư, lòng vơi ưu sầu, được giải thoát liền.
Kính lễ hai vị Phật này, tạo mối quan hệ giữa ta và các Ngài, thì cảm nhận được sức che chở nào đó trong cuộc sống ta. Và tiến xa hơn, đồng cảm tâm với các Ngài giúp tiếng nói chúng ta có giá trị như Sư Tử Âm Phật và hình tướng đĩnh đạc làm người phải kính phục phát tâm như Sư Tử Tướng Phật.
3 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG NAM : HƯ KHÔNG TRỤ PHẬT VÀ THƯỜNG DIỆT PHẬT
Khi nương được quyền uy của Phật Sư Tử Âm và Sư Tử Tướng, chúng ta có thể sanh tâm ỷ lại, xem thường người khác thì sẽ bị tai hoạ. Vì vậy, phải bước thêm một bước, qua phương Nam đảnh lễ Hư Không Trụ Phật và Thường Diệt Phật.
Tâm Phật lúc nào cũng như hư không, dung chứa được tất cả muôn loài. Chúng ta lạy Phật Hư Không Trụ, cầu gia bị, hay nói khác, luyện tâm giống như Ngài, an trú pháp, dung được tất cả, không còn bất cứ người nào hay việc gì có khả năng gây phiền lụy cho ta. Nhờ trụ hư không hay pháp không, biết tất cả đều tùy duyên sanh diệt, nên chúng ta sẵn sàng tha thứ, buông bỏ tất cả vướng mắc ân cũng như oán. Cuộc đời dù phức tạp đến đâu, chúng ta lạy Phật Thường Diệt, cầu nguyện cho tâm được thanh tịnh như Ngài.
Càng kính lễ Hư Không Trụ Phật và Thường Diệt Phật, lòng chúng ta càng thanh thản. Đó là cách tu lễ Phật để lập hạnh, không phải lạy suông và tụng ngân nga cho hay trên đầu môi chót lưỡi.
4 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG TÂY NAM : ĐẾ TƯỚNG PHẬT VÀ PHẠM TƯỚNG PHẬT
Tiếp theo, lạy Đế Tướng Phật và Phạm Tướng Phật ở phương Đông Nam. Hai vị Phật này tiêu biểu cho quyền uy, đức hạnh, ví như Trời Đế Thích và Đại Phạm Thiên vương. Chúng ta đảnh lễ các Ngài, tạo mối liên hệ trợ lực, biến thế giới động loạn trở thành hoàn toàn bình yên.
5 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG TÂY : A DI ĐÀ PHẬT VÀ ĐỘ NHẤT THIẾT THẾ GIAN KHỔ NÃO PHẬT
Đến phương Tây, chúng ta diện kiến Đức Phật A Di Đà. Ngài vốn có duyên lớn với chúng sanh ở Ta bà. Niệm danh hiệu Ngài, chúng ta nhớ đến phẩm Hóa Thành Dụ. Khi còn là vương tử của Phật Đại Thông Trí Thắng, Ngài giảng kinh Pháp Hoa trong suốt 84.000 kiếp để khai thị cho Thanh Văn, giúp họ thành tựu vô lượng công đức. Nương tinh thần Hóa thành, Ngài kiến tạo thế giới Cực lạc ở phương Tây, làm nơi an dưỡng cho các Bồ tát sau những tháng ngày phục vụ ở Ta bà. Hành giả nào diệt sạch mọi ý niệm ở Ta bà, hướng tâm trọn vẹn về ao thất bảo của Cực lạc thế giới để kết được thai sen, thì chỉ nghe pháp âm của Phật, Bồ tát, không còn nghe tiếng nói chúng sanh, cho đến ngày sen nở. Ở đây không còn bị phiền não quấy rầy, vì được làm bạn với các bậc thượng thiện nhân cho đến khi thành Phật.
Phật A Di Đà kiến tạo được thế giới Cực lạc kỳ diệu vì thánh tài của ngài là vô lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng công đức. Vô lượng quang tiêu biểu cho hiểu biết chính xác cao tột, cộng thêm thọ mạng dài lâu vô cùng và đầy đủ công đức hay có sẵn phương tiện trong tay. Vì vậy, cảnh giới Tây phương của Ngài tất yếu phải vui cùng cực.
Một vị Phật khác cùng ở phương Tây với Phật Di Đà là Độ Nhấùt Thiết Thế Gian Khổ Não Phật. Nghe danh hiệu Ngài, chúng ta biết được công hạnh cứu khổ của Ngài lớn lao vô hạn. Mọi chúng sanh khổ đau, khởi niệm nghĩ tưởng đến Ngài liền được cứu thoát.
Đảnh lễ hai vị Phật ở phương Tây, chúng ta ước mơ một ngày nào đó cũng đạt đến hiểu biết và thọ mạng cùng công đức đầy đủ như Phật Di Đà, giúp được người hết khổ như Đức Phật Độ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não.
6 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG TÂY BẮC : TU DI TƯỚNG PHẬT VÀ ĐA MA LA BẠT CHIÊN ĐÀN HƯƠNG THẦN THÔNG PHẬT
Phật Tu Di Tướng nghĩa là Đức Phật hiện thân đầy đủ phước đức, trí tuệ lớn lao như núi Tu Di. Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông là hương đức hạnh có khả năng bay ngược gió, tác động cho người phát tâm tu hành, an vui giải thoát.
Quy ngưỡng hai vị Phật này, mong sao các Ngài nhiếp trì cho chúng ta tu tạo được đức tướng và đạo hạnh để giáo hóa chúng sanh thành tựu như các Ngài.
7 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG BẮC : VÂN TỰ TẠI PHẬT VÀ VÂN TỰ TẠI VƯƠNG PHẬT
Đến phương Bắc, chúng ta ra mắt Phật Vân Tự Tại và Vân Tự Tại Vương. Hai Ngài hành đạo hoàn toàn tự tại, ung dung như áng mây bay trên bầu trời. Mây lướt nhẹ nhàng qua núi rừng, khắp hư không, không gì ngăn cản được. Ta xuất hiện trên cuộc đời cũng ở dạng đó. Đảnh lễ các Ngài, chúng ta học cách xử thế giống như vậy, không cần lo nghĩ tính toan, đối phó mà mọi việc thành tựu viên mãn.
8 - ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT Ở PHƯƠNG ĐÔNG BẮC : HOẠI NHẤT THIẾT THẾ GIAN BỐ ÚY PHẬT VÀ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Sau cùng ở phương Đông Bắc, có Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy Phật chuyên giải khổ cho người bị oan ức. Nếu không đến được với Ngài, chúng ta còn một vị Phật rất gần gũi, thân thương để kêu cứu. Đó là Đức Thích Ca, giáo chủ cõi Ta bà, vị Đạo sư hiện thân trên cuộc đời chỉ vì thương tưởng đến chúng ta. Thật vậy, từ vô lượng kiếp, Ngài hằng hữu bất tử ở Thường Tịch Quang Tịnh độ, vì thương chúng ta mà thọ sanh thân Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca nghĩa là năng nhân, một con người vạn năng, có tấm lòng từ bi vô hạn, trở lại Ta bà giúp mọi người thoát khỏi khổ não trầm luân sanh tử, trở về bờ giác.
Cầu nguyện hai vị Phật ở phương Đông Bắc hay nói cách khác, giao gánh nặng trần ai lại cho các Ngài, chúng ta mới rảnh rang tu hành, giáo hóa độ sanh ngõ hầu báo đáp công ơn Phật đã cưu mang khổ ách cho chúng ta.
Tóm lại, chúng ta kính lễ 18 vị Phật hiện tại ở tám phương để liên hệ với các Ngài, lấy Phật đức trang nghiêm thân tâm. Từ đó, trong cuộc sống thường nhật sẽ gặp được những bậc chân tu, các thiện tri thức khai ngộ cho chúng ta. Trong mối tương giao vô hình bằng tâm linh, chúng ta nhận sự trợ lực của các đức Phật ở 8 phương cùng với sự giáo dưỡng, giúp đỡ của các vị tri thức, đạo đức đang sinh hoạt trên cuộc đời, chúng ta dễ dàng thành tựu công đức, tiến tu an lành trong Nhà Lửa tam giới.