.
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
- TIỂU
KINH SƯ TỬ HỐNG
- (Culasihanadasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anathapindika (Cấp Cô
Độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo.
– Bạch Thế Tôn,
Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:
– Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây
là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có
Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không
có Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử
như vậy. Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra khi ở đây những Du sĩ ngoại
đạo có thể nói: "Chư Tôn giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà
chư Tôn giả tuyên bố: "Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây
là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn
thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn". Này các Tỷ-kheo, nếu
được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như
sau: "Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn
tuyên bo ho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác nên chúng tôi nói: "Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất,
ở đây là có Sa-môn thứ hai; Sa-môn thứ ba; Sa-môn thứ tư". Thế nào
là bốn? Chư Hiền, chúng tôi có lòng tin bậc Đạo Sư, có lòng tin Pháp,
có sự thành tựu viên mãn các Giới luật, và những pháp hữu củ húng
tôi, những người cư sĩ và những người xuất gia, được chúng tôi thương,
chúng tôi mến. Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được
Thế Tôn tuyên bo ho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nên chúng tôi nói: "Chỉ ở đây là
Sa-môn... Sa-môn thứ tư". Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra, khi ở
đây, những Du sĩ ngoại đạo có thể nói: "Chư Hiền, chúng tôi cũng
có lòng tin bậc Đạo Sư, vị ấy là Đạo Sư củ húng tôi. Chúng tôi có
lòng tin Pháp, Pháp ấy là Pháp củ húng tôi, chúng tôi thành tựu viên mãn
các Giới luật, những Giới luật ấy là Giới luật củ húng tôi. Và những
pháp hữu củ húng tôi, những người cư sĩ và cả những người xuất
gia, được chúng tôi thương, được chúng tôi mến. Chư Hiền, như vậy có
sự sai biệt gì, có sự đặc thù gì, có sự khác biệt gì giữa quý vị
và chúng tôi?". Chư Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như
vậy, cần phải trả lời họ như sau: "Chư Hiền, cứu cánh là một
hay cứu cánh là đa diện?" Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại
đạo phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh là một, cứu cánh không phải
đa diện" - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có tham, hay cho người
không tham?" Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả
lời:- "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không tham, không phải cho người
có tham" - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người
không sân?" Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả
lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không sân, không phải cho người
có sân" - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có si hay cho người
không si? Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu
cánh ấy cho người không si, không phải cho người có si" - "Chư Hiền,
cứu cánh ấy cho người có ái, hay cho người không ái?" Nếu trả lời
đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không
ái, không phải cho người có ái" - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người
có chấp thủ, hay cho người không chấp thủ?" Nếu trả lời đứng đắn...
phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không chấp thủ,
không phải cho người chấp thủ". - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người có trí, hay cho người không có trí?" Nếu trả lời đứng đắn...
phải trả lời: "Cứu cánh ấy cho người có trí, không phải cho người
không có trí". - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người thuận ứng,
nghịch ứng hay cho người không thuận ứng, không nghịch ứng?" Nếu
trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người không thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho người thuận
ứng, nghịch ứng". - "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa hý luận,
thích hý luận hay cho người không ưa hý luận, không thích hý luận?"
Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo cần phải trả lời:
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ưa hý luận, không thích hý
luận, không phải cho người ưa hý luận, thích hý luận".
Chư Tỷ-kheo, có hai loại tri kiến
này: hữu kiến và phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào chấp trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, co hấp hữu kiến; những
vị ấy bị chướng ngại đối với phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến,
co hấp phi hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại bởi hữu kiến.
Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập
khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly củ húng, những vị này là những vị có tham, có sân, có
si, có ái, có chấp thủ, không có trí, có thuận ứng, có nghịch ứng, có
ưa hý luận, có thích hý luận; những vị ấy không giải thoát khỏi sanh,
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy không giải thoát
khỏi đau khổ. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào như thật tuệ
tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự
nguy hiểm, và sự xuất ly củ húng; những vị này là những vị không
tham, không sân, không si, không ái, không chấp thủ, có trí, không có thuận
ứng, không có nghịch ứng, không ưa hý luận, thích hý luận; những vị
ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những
vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
Chư Tỷ-kheo, có bốn chấp thủ. Thế
nào là bốn? Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo,
có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không
chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ; họ hiển thị sự liễu
tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về
giới cấm thủ, về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri ba sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển
thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ,
nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về
ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự xưng liễu
tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả
thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ
nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về
ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như
thật tuệ tri hai sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự
xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri
tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về
kiến thủ; nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu
tri về ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng
liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất
cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến
thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri
về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy
không như thật tuệ tri một sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển
thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ,
sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không
hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, trong pháp luật như
vậy, nếu có tịnh tín đối với Đạo Sư, tịnh tín ấy được xem là
không hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được
xem là không hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự
thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối
với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn toàn.
Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một pháp luật không
khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị, không có hướng thượng, không dẫn
đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Đẳng Giác hiển thị.
Và Như Tỷ-kheo, bậc Như Lai, A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác tự xưng liễu tri tất cả thủ, chân chánh hiển thị sự
liễu tri tất cả thủ. Như Lai hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự
liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về
ngã luận thủ. Chư Tỷ-kheo, trong một pháp luật như vậy, nếu có tịnh
tín đối với bậc Đạo Sư, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu
có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu
có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là
hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, sự thương mến
ấy được xem là hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy,
trong một pháp luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có hướng thượng,
dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh Đẳng Giác hiển thị.
Chư Tỷ-kheo, bốn loại chấp thủ
này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy
gì làm nhân? Bốn loại chấp thủ này lấy ái làm duyên, lấy ái làm tập
khởi, lấy ái làm chủng, lấy ái làm nhân. Chư Tỷ-kheo, ái này lấy gì
làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư
Tỷ-kheo, ái này lấy thọ làm duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ
làm chủng, lấy thọ làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm duyên, lấy
gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân ? Chư Tỷ-kheo, thọ
này lấy xúc làm duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm chủng, lấy
xúc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân?
Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy sáu nhập làm duyên... lấy sáu nhập làm nhân.
Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo,
sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên... lấy danh sắc làm nhân. Chư Tỷ-kheo,
danh sắc này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, danh sắc
này lấy thức làm duyên... lấy thức làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thức này lấy
gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thức này lấy hành làm
duyên... lấy hành làm nhân. Chư Tỷ-kheo, hành này lấy gì làm duyên... lấy
gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, hành này lấy vô minh làm duyên... lấy vô minh
làm nhân. Và Chư Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm
minh sanh khởi, vị ấy do vô minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên
không chấp thủ dục thủ, không chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới
cấm thủ, không chấp thủ ngã luận thủ. Nhờ không chấp thủ nên không
tháo động, nhờ không tháo động, nên tự thân chứng được Niết-bàn; vị
ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục