Bấy giờ,
Thế Tôn khen cụ thọ Thiện Hiện rằng : Hay thay, hay thay ! Ngươi nay năng
vì các Bồ tát Ma ha tát khéo thuyết pháp yếu. Pháp ngươi đã thuyết đều là
sức oai thần Như Lai, ngươi chẳng tự năng. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tướng pháp chơn như bất khả đắc thâm sanh
tin hiểu, biết tướng tất cả pháp không sai khác, nghe thuyết tướng các
pháp chơn như bất khả đắc như thế, nơi tâm chẳng kinh, chẳng sợ chẳng
hãi, chẳng nghi chẳng hối, chẳng lui chẳng chìm. Bồ tát Ma ha tát này mau
được thành xong sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cụ thọ Xá
Lợi Tử thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên pháp
này mau được thành xong sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ư ? Bấy giờ,
Phật bảo Xá Lợi Tử rằng : Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Nếu Bồ tát
Ma ha tát trọn nên pháp này, mau được thành xong sở cầu Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng : Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn mau thành xong
sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề phải trụ ở đâu ? Nên trụ thế nào ? Phật bảo
: Thiện Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn mau thanh xong sở cầu Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề, phải đối tất cả hữu tình trụ tâm bình đẳng, chẳng nên
trụ tâm chẳng bình đẳng. Phải đối tất cả hữu tình khởi tâm bình đẳng,
chẳng nên khởi tâm chẳng bình đẳng. Phải đối tất cả hữu tình đem tâm bình
đẳng cùng nói, chẳng nên đem tâm chẳng bình đẳng cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm đại từ, chẳng nên khởi tâm giận dữ. Phải đối tất
cả hữu tình đem tâm đại từ cùng nói, chẳng nên đem tâm giận dữ cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm đại bi, chẳng nên khởi tâm não hại. Phải đối tất
cả hữu tình đem tâm đại bi cùng nói, chẳng nên đem tâm não hại cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm đại hỷ, chẳng nên khởi tâm ganh ghét. Phải đối
tất cả hữu tình đem tâm đại hỷ cùng nói, chẳng nên đem tâm ganh ghét cùng
nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm đạixả, chẳng nên khởi tâmlệch đảng. Phải đối tất
cả hữu tình đem tâm đại xả cùng nói, chẳng nên đem tâm lệch đảng cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm khiêm hạ, chẳng nên khởi tâm kiêu mạn. Phải đối
tất cả hữu tình đem tâm khiêm hạ cùng nói, chẳng nên đem tâm kiêu mạn cùng
nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm ngay thẳng, chẳng nên khởi tâm nịnh dối. Phải đối
tất cả hữu tình đem tâm ngay thẳng cùng nói, chẳng nên đem tâm nịnh dối
cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm mềm mại, chẳng nên khởi tâm cứng cỏi. Phải đối
tất cả hữu tình đem tâm mềm mại cùng nói, chẳng nên đem tâm cứng cỏi cùng
nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm lợi ích, chẳng nên khởi tâmchẳng lợi ích. Phải
đối tất cả hữu tình đem tâm lợi ích cùng nói, chẳng nên đem tâm chẳng lợi
ích cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm an vui, chẳng nên khởi tâmchẳng an vui. Phải đối
tất cả hữu tình đem tâm an vui cùng nói, chẳng nên đem tâm chẳng an vui
cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm không ngại, chẳng nên khởi tâm có ngại. Phải đối
tất cả hữu tình đem tâm không ngại cùng nói, chẳng nên đem tâm có ngại
cùng nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm như cha mẹ, như anh em, như chị em, như nam nữ,
như thân tộc; cũng đem tâm này nên cùng kia nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm bạn bè, cũng đem tâm này nên cùng kia nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm như thầy dạy dỗ, như thầy khuôn khổ, như đệ tử,
như đồng học; cũng đem tâm này nên cùng kia nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác,
Bồ tát Ma ha tát, Như Lai ứng Chánh Ðẳng Giác; cũng đem tâm này nên cùng
kia nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm đáng cúng dường cung kính tọn trọng ngơi khen;
cũng đem tâm này nên cùng kia nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm cứu vớt thướng xót phò hộ, cũng đem tâm này nên
cùng kia nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm rốt ráo không, vô sở hữu, bất khả đắc; cũng đem
tâm này nên cùng kia nói. Phải đối
tất cả hữu tình khởi tâm không, vô tướng, vô nguyện; cũng đem tâm này nên
cùng kia nói. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn mau thành xong sở cầu Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề, nên tự lìa hại sanh mạng, cũng khuyên người lìa hại sanh
mạng, hằng chính xưng nêu pháp lìa hại sanh mạng, vui mừng ngợi khen kẻ
lìa hại sanh mạng. Cho đến nên tự lìa tà kiến, cũng khuyên người lìa tà
kiến, hằng chính xưng nêu pháp lìa ta kiến, vui mừng ngợi khen kẻ lìa tà
kiến. Nên tự tu
bốn tĩnh lự, cũng khuyên người tu bốn tĩnh lự, hằng chính xưng nêu pháp tu
bốn tĩnh lự, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn tĩnh lự. Nên tự tu bốn vô lượng,
cũng khuyên người tu bốn vô lượng, hằng chính xưng nêu pháp tu bốn vô
lượng, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn vô lượng. Nên tự tu bốn định vô sắc,
cũng khuyên người tu bốn định vô sắc, hằng chính xưng nêu pháp tu bốn định
vô sắc, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn định vô sắc. Nên tự
viên mãn sáu Ba la mật đa, cũng khuyên người viên mãn sáu Ba la mật đa,
hằng chính xưng nêu pháp viên mãn sáu Ba la mật đa, vui mừng ngợi khen kẻ
viên mãn sáu Ba la mật đa. Nên tự
trụ mười tám không, cũng khuyên người trụ mười tám không, hằng chính xưng
nêu pháp trụ mười tám không, vui mừng ngợi khen kẻ trụ mười tám không. Nên tự
trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới,
cũng khuyên người trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, hằng chính xưng
nêu pháp trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, vui mừng ngợi khen kẻ trụ
chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nên tự
trụ bốn thánh đế, cũng khuyên người trụ bốn thánh đế, hằng chính xưng nêu
pháp trụ bốn thánh đế, vui mừng ngợi khen kẻ trụ bốn thánh đế. Nên tự tu
ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, cũng khuyên người tu ba mươi bảy Bồ đề phần
pháp, hằng chính xưng nêu pháp tu ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, vui mừng
ngợi khen kẻ tu ba mươi bảy Bồ đề phần pháp. Nên tự tu
ba giải thoát môn, cũng khuyên người tu ba giải thoát môn, hằng chính xưng
nêu pháp tu ba giải thoát môn, vui mừng ngợi khen kẻ tu ba giải thoát môn. Nên tự tu
tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ; cũng khuyên
người tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ;
hằng chính xưng nêu pháp tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ; vui mừng ngợi khen kẻ tu tám giải thoát, tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ. Nên tự
viên mãn Bồ tát thập địa, cũng khuyên người viên mãn Bồ tát thập địa, hằng
chính xưng nêu pháp tu viên mãn Bồ tát thập địa, vui mừng ngợi khen kẻ tu
viên mãn Bồ tát thập địa. Nên tự
viên mãn năm nhãn, sáu thần thông; cũng khuyên người viên mãn năm nhãn,
sáu thần thông; hằng chính xưng nêu pháp viên mãn năm nhãn, sáu thần
thông; vui mừng ngợi khen kẻ viên mãn năm nhãn, sáu thần thông. Nên tự
viên mãn đà la ni môn, tam ma địa môn; cũng khuyên người viên mãn đà la ni
môn, tam ma địa môn; hằng chính xưng nêu pháp viên mãn đà la ni môn, tam
ma địa môn; vui mừng ngợi khen kẻ viên mãn đà la ni môn, tam ma địa môn. Nên tự
viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên
người viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hằng
chính xưng nêu pháp viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng, vui mừng ngợi khen kẻ viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Nên tự
viên mãn ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi tùy hảo; cũng khuyên người
viên mãn ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi tùy hảo; hằng chính xưng nêu
pháp viên mãn ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi tùy hảo; vui mừng ngợi
khen kẻ viên mãn ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi tùy hảo. Nên tự
viên mãn pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; cũng khuyên người viên mãn
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; hằng chính xưng nêu pháp viên mãn
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; vui mừng ngợi khen kẻ viên mãn pháp
vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Nên tự
quán thuận nghịch mười hai nhánh duyên khởi, cũng khuyên người quán thuận
nghịch mười hai nhánh duyên khởi, hằng chính xưng nêu pháp quán thuận
nghịch mười hai nhánh duyên khởi, vui mừng ngợi khen kẻ quán thuận nghịch
mười hai nhánh duyên khởi. Nên tự
biết khổ dứt tập chứng diệt tu đạo, cũng khuyên người biết khổ dứt tập
chứng diệt tu đạo, hằng chính xưng nêu pháp biết khổ dứt tập chứng diệt tu
đạo, vui mừng ngợi khen kẻ biết khổ dứt tập chứng diệt tu đạo. Nên tự
khởi trí chứng quả Dự lưu mà chẳng chứng thật tế được quả Dự lưu, cũng
khuyên người khởi trí chứng quả Dự lưu và chứng thật tế được quả Dự lưu,
hằng chính xưng nêu pháp khởi trí chứng quả Dự lưu và chứng thật tế được
quả Dự lưu, vui mừng ngợi khen kẻ khởi trí chứng quả Dự lưu và chứng thật
tế được quả Dự lưu. Nên tự
khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác Bồ đề mà chẳng
chứng thật tế được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác Bồ đề; cũng
khuyên người khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác Bồ
đề và chứng thật tế được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác Bồ đề;
hằng chính xưng nêu pháp khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán,
Ðộc giác Bồ đề và chứng thật tế được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc
giác Bồ đề; vui mừng ngợi khen kẻ khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A
la hán, Ðộc giác Bồ đề và chứng thật tế được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, Ðộc giác Bồ đề. Nên tự
vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh, cũng khuyên người vào ngôi Bồ tát
Chánh tánh ly sanh, hằng chính xưng nêu pháp vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly
sanh, vui mừng ngợi khen kẻ vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nên tự
nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; cũng khuyên người nghiêm tịnh
cõi Phật, thành thục hữu tình; hằng chính xưng nêu pháp nghiêm tịnh cõi
Phật, thành thục hữu tình; vui mừng ngợi khen kẻ nghiêm tịnh cõi Phật,
thành thục hữu tình. Nên tự
khởi Bồ tát thần thông, cũng khuyên người khởi Bồ tát thần thông, hằng
chính xưng nêu pháp khởi Bồ tát thần thông, vui mừng ngợi khen kẻ khởi Bồ
tát thần thông. Nên tự
khởi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; cũng khuyên
người khởi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; hằng chính
xưng nêu pháp khởi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí;
vui mừng ngợi khen kẻ khởi nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí. Nên tự
dứt tất cả phiền não tập khí nối nhau, cũng khuyên người dứt tất cả phiền
não tập khí nối nhau, hằng chính xưng nêu pháp dứt tất cả phiền não tập
khí nối nhau, vui mừng ngợi khen kẻ dứt tất cả phiền não tập khí nối nhau. Nên tự
nhiếp thọ viên mãn thọ lượng, cũng khuyên người nhiếp thọ viên mãn thọ
lượng, hằng chính xưng nêu pháp nhiếp thọ viên mãn thọ lượng, vui mừng
ngợi khen kẻ nhiếp thọ viên mãn thọ lượng. Nên tự
quay xe pháp, cũng khuyên người quay xe pháp, hằng chính xưng nêu pháp
quay xe pháp, vui mừng ngợi khen kẻ quay xe pháp. Nên tự
nhiếp hộ Chánh pháp khiến trụ, cũng khuyên người nhiếp hộ Chánh pháp khiến
trụ, hằng chính xưng nêu pháp nhiếp hộ Chánh pháp khiến trụ, vui mừng ngợi
khen kẻ nhiếp hộ Chánh pháp khiến trụ. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn mau thành xong sở cầu Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề, đối pháp như thế đem vô sở đắc mà làm phương tiện, nên trụ như
vậy. Thiện
Hiện ! Các Bồ tát Ma ha tát nên học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương
tiện khéo léo. Nếu học như thế mới năng an trụ pháp chỗ đáng trụ. Nếu học
như thế, an trụ như thế, thời đối sắc được không chướng ngại, đối thọ
tưởng hành thức được không chướng ngại. Cho đến đối việc quay xe pháp được
không chướng ngại, đối Chánh pháp trụ được không chướng ngại. Sở dĩ vì sao
? Thiện
Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này từ trước đến nay chẳng nhiếp thọ sắc, chẳng
nhiếp thọ thọ tưởng hành thức. Cho đến chẳng nhiếp thọ quay xe pháp, chẳng
nhiếp thọ Chánh pháp trụ. Vì cớ sao ? Thiện
Hiện ! Vì sắc chẳng thế nhiếp thọ vậy, nếu sắc chẳng thể nhiếp thọ thời
chẳng phải sắc. Vì thọ tưởng hành thức chẳng thể nhiếp thọ vậy, nếu thọ
tưởng hành thức chẳng thể nhiếp thọ, thời chẳng phải thọ tưởng hành thức.
Cho đến vì quay xe pháp chẳng thể nhiếp thọ vậy, nếu quay xe pháp chẳng
thể nhiếp thọ, thời chẳng phải quay xe pháp. Vì Chánh pháp trụ chẳng thể
nhiếp thọ vậy, nếu Chánh pháp trụ chẳng thể nhiếp thọ, thời chẳng phải
Chánh pháp trụ. Khi
thuyết Bồ tát chỗ trụ pháp này, hai ngàn Bồ tát được Vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng tôi phải do hành
trạngtướng nào biết là Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển ? Phật bảo :
Thiện Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng như thật biết các bậc dị sanh, các
bậc Thanh văn, các bậc Ðộc giác, các bậc Bồ tát, các bậc Như Lai. Các bậc
như thế các thuyết có khác, mà đối trong các pháp chơn như không biến
khác, không phân biệt, đều không hai không hai phần. Bồ tát Ma ha
tát này tuy thật ngộ vào các pháp chơn như, mà đối chơn như không sở phân
biệt, vì đem vô sở đắc làm phương tiện vậy. Bồ tát Ma ha tát này đã thật
ngộ vào các pháp chơn như, tuy nghe chơn như cùng tất cả pháp không hai
không riêng mà không trệ ngại. Sở dĩ vì sao ? Vì chơn như
cùng các pháp chẳng thể nói một, chẳng thể nói khác, chẳng thể nói câu và
chẳng câu vậy. Pháp giới cho đến bất tư nghì giới cũng lại như thế. Bồ tát
Ma ha tát này trọn chẳng vội vã mà thốt ra lời, những lời nói ra đều dẫn
nghĩa lợi, nếu không nghĩa lợi trọn chẳng phát lời. Bồ tát Ma ha tát này
trọn chẳng xem tốt xấu hay dở của kẻ khác, bình đẳng thương xót mà vì
thuyết pháp. Bồ tát Ma ha tát này chẳng xem chủng tánh tốt xấu của Pháp
sư, chỉ cầu pháp sở thuyết nhiệm mầu mà thôi. Thiện Hiện !
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển đủ các hành trạng tướng như thế thảy, nên
do các hành trạng tướng như thế biết là Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Bấy giờ, Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng : Những gì gọi là các hành trạng tướng ? Phật nói :
Thiện Hiện ! Các pháp không hành, không trạng, không tướng; phải biết đấy
là hàng trạng tướng. Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng : Nếu tất cả pháp không hành trạng tướng, Bồ tát
Ma ha tát này đối pháp nào chuyển nên gọi Bất thối chuyển ? Phật nói :
Thiện Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này đối sắc chuyển nên gọi Bất thối chuyển,
đối thọ tưởng hành thức chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối nhãn xứ chuyển
nên gọi Bất thối chuyển, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chuyển nên gọi Bất
thối chuyển. Ðối sắc xứ chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối thanh hương vị
xúc pháp xứ chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối nhãn giới chuyển nên gọi
Bất thối chuyển, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chuyển nên gọi Bất thối
chuyển. Ðối sắc giới
chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối thanh hương vị xúc pháp giới chuyển
nên gọi Bất thối chuyển. Ðối nhãn thức giới chuyển nên gọi Bất thối
chuyển, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chuyển nên gọi Bất thối chuyển.
Ðối nhãn xúc chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc
chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ
chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh
ra các thọ chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối bố
thí Ba la mật đa chuyển nên gọi Bất thối chuyển; đối tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chuyển nên gọi Bất thối chuyển.
Ðối nội không chuyển nên gọi Bất thối chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối chơn
như chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối pháp giới cho đến bất tư nghì giới
chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối khổ thánh đế chuyển nên gọi Bất thối
chuyển đối tập diệt đạo thánh đế chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối bốn
niệm trụ chuyển nên gọi Bất thối chuyển, cho đến đối tám thánh đạo chi
chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối bốn tĩnh lự chuyển nên gọi Bất thối
chuyển; đối bốn vô lượng, bốn vô sắc định chuyển nên gọi Bất thối chuyển.
Ðối tám giải thoát chuyển nên gọi Bất thối chuyển; đối tám thắng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối không
giải thoát môn chuyển nên gọi Bất thối chuyển; đối vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối Tam thừa thập địa
chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối Bồ tát thập địa chuyển nên gọi Bất
thối chuyển. Ðối đà la ni môn chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối tam ma
địa môn chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối năm
nhãn chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối sáu thần thông chuyển nên gọi Bất
thối chuyển. Ðối Phật mười lực chuyển nên gọi Bất thối chuyển, cho đến
đối mười tám pháp Phật bất cộng chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối ba
mươi hai tướng Ðại sĩ chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối tám mươi tùy hảo
chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối pháp vô vong thất chuyển nên gọi Bất
thối chuyển, đối tánh hằng trụ xả chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối nhất
thiết trí chuyển nên gọi Bất thối chuyển; đối đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối dị
sanh địa chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối Thanh văn địa, Ðộc giác địa,
Bồ tát địa, Như Lai địa chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Ðối tất cả hạnh Bồ
tát Ma ha tát chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Vì cớ sao ? Thiện
Hiện ! Tự tánh sắc vô sở hữu, tự tánh thọ tưởng hành thức vô sở hữu. Như
vậy cho đến tự tánh tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát vô sở hữu, tự tánh chư
Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vô sở hữu. Bồ tát Ma ha tát naỳ đối trong
chẳng trụ, nên gọi là chuyển. Do chẳng chuyển nên gọi danh Bồ tát Ma ha
tát Bất thối chuyển. Nếu Bồ tát Ma ha tát năng biết như thế, đấy gọi Bồ
tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển trọn chẳng muốn xem
hình tướng nói năng của ngoại đạo, Sa môn, Bà la môn thảy. Các sa môn, Bà
la môn thảy kia, với chỗ biết pháp thật trí thật kiến, hoặc năng thi thiết
chánh kiến pháp môn, không thể có được. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển đối Phật đã khéo
thuyết Luật Tạng chẳng sanh nghi hoặc. Ðối việc thế gian không giới cấm
thủ, chẳng đọa ác kiến, chẳng chấp nhận các việc cát tướng của thế tục lấy
làm thanh tịnh. Trọn chẳng lễ kính các thiên thần kia như các gian ngoại
đạo đã thờ; quyết định chẳng đem các thứ tràng hoa, hương xoa hương bột
thảy, áo mặc chuỗi anh lạc, bảo tràng phan lọng, kỹ nhạc đèn sáng, cùng
dường thiên thần và các ngoại đạo. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển chẳng đọa trong địa
ngục, bàng sanh, quỷ giới, a tố lạc. Cũng chẳng sanh dòng họ ti tiện,
nghĩa là hàng thịt, gánh thây chết thảy. Cũng trọn chẳng thọ thân không
nam căn, biến đổi căn, không hình, hai hình và nữ nhân. Cũng lại chẳng thọ
thân mù điếc, câm ngọng, cùi cụt, hủi lác, khòm lùn thảy. Cũng trọn chẳng
sanh chỗ không thì giờ rảnh. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển trọn thường vui muốn
thọ hành mười htiện nghiệp đạo. Tự lìa hại sanh mạng, cũng khuyên người
lìa hại sanh mạng, hằng chính xưng nêu pháp lìa hại sanh mạng, vui mừng
ngợi khen kẻ lìa hại sanh mạng. Cho đến tự lìa tà kiến, cũng khuyên người
lìa tà kiến, hằng chính xưng nêu pháp lìa tà kiến, vui mừng ngơi khen kẻ
lìa tà kiến. Bồ tát Ma ha tát này, cho đến trong mộng cũng chẳng hiện khởi
mười ác nghiệp đạo, huống ở khi giác. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát nên các hành trạng tướng như thế, biết là Bồ
tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển khắp vì nhiêu ích tất
cả hữu tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, hằng tu bố thí cho đến bát
nhã ba la mật đa thường không gián đoạn. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển, các đã thọ trì suy
nghĩ đọc tụng : Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên
khởi, Bổn sanh, Bổn sự, Phương quảng, Hy pháp, Thí dụ, Luận nghị, tất cà
đều khiến rốt ráo thông lợi. Ðem pháp như thế thường ưa bố thí tất cả hữu
tình. Hằng khởi
nghĩ này : Làm sao phải khiến các loại hữu tình cầu nguyện Chánh pháp đều
được đầy đủ, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Lại đem căn lành pháp thí
như thế cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển đối pháp môn thẳm sâu
Phật đã thuyết, trọn chẳng sanh nơi nghi hoặc do dự. Vì cớ sao ? Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy có pháp hoặc có sắc, hoặc thọ
tưởng hành thức khá đối trong ấy nghi hoặc do dự. Như vậy cho đến chẳng
thấy có pháp, hoặc tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, hoặc chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề khá đối trong ấy nghi hoặc do dự. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển trọn nên mềm mại
nghiệp thân ngữ ý, đối các hữu tình tâm không quái ngại. Hằng thường trọn
nên khởi từ, bi, hỷ, xả thảy tương ưng nghiệp thân ngữ ý. Quyết định chẳng
cùng năm che ở chung, chỗ gọi tham dục, giận dữ, mờ ám, ngủ nghỉ, lay
động, ác tác, nghi che. Tất cả tùy miên đều đã đè dẹp. Tất cả tùy phiền
não gút buộcquấn trói đều hẳng chẳng khởi. Ra vào qua lại tâm chẳng mê
lầm, hằng thời an trụ chính nhớ chính biết. Tiến ngưng oai nghi, đi đứng
ngồi nằm, cất bước xuống chân cũng lại như thế. các chỗ bước đi tất xem
nơi đất, ung dung buộc nhớ, xem thẳng mà đi. Vận động nói năng từng không
vội bạo. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển các vật thọ dụng đồ
nằm áo mặc đều thường thơm sạch, không các hôi hám, cũng không dơ bẩn các
loại trùng rận chí thảy. Tâm ưa thanh hoa, thân không tậït bệnh. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển thân tâm thanh tịnh,
chẳng phải như trong thân người thường hằng bị tám vạn hộ trùng ăn xâm. Vì
cớ sao ? Các Bồ
tát Ma ha tát này căn lành tăng thượng vượt khỏi thế gian, sở thọ thân tâm
trong ngoài thanh tịnh, nên không loại trùng ăn xâm nơi thân. Căn lành như
như tăng thêm lần lần, như vậy, như vậy thân tâm càng tịnh. Do nhân duyên
đây, thân tâm các Bồ tát này kiên cố hơn kim cương, chẳng bị nghịch duyên
làm xâm não. Chỗ gọi lạnh nóng, đói khát, muỗi mối, gió nắng, độc trùng,
dao gậy các loại và các ràng buộc chẳng thể xâm não được. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trnạg tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Bấy giờ,
cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bồ tát Ma ha tát Bất
thối chuyển như thế làm sao thường được tịnh thân ngữ ý ? Phật bảo
: Thiện Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này căn lành như như tăng trưởng dần dần,
như vậy, như vậy tịnh thân ngữ ý. Do sức căn lành sở trữ khiến nên cùng
đời vị lai rốt ráo chẳng khởi. Bởi đấy thường được tịnh thân ngữ ý. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này diệu hạnh thân ba ngữ ý ba thường hiện
tại tiền, nên tất cả thời tịnh thân ngữ ý. Do tịnh đây nên vượt khỏi Thanh
văn và bậc Ðộc giác, đã vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, chẳng chứng thật
tế, thường muốn thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Do đây
thường được tịnh thân ngữ ý, trụ ngôi Bồ tát kiên cố bất động. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển chẳng trọng lợi
dưỡng, chẳng theo đuổi danh dự. Với các uống ăn, áo mặc, đồ nằm, phòng
nhà, của cải đều chẳng tham nhiễm. Dù thọ mười hai công đức Ðỗ đa đầu đà
mà với trong ấy đều không ỷ cậy. Rốt ráo chẳng khởi tâm tương ưng với xan
tham, phá giới, giận dữ, lười nhác, tán loạn, ngu si và các thứ phiền não
ràng buộc khác. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển giác huệ cứng bén
năng sâu ngộ vào, lóng nghe Chánh pháp cung kính tín thọ, buộc niệm suy
nghĩ lý thú rốt ráo. Tùy đã lóng nghe pháp thế gian, xuất thế gian, đều
năng phương tiện hội vào lý thú Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Ra gây tác
các sự nghiệp thế gian cũng nương Bát nhã Ba la mật đa hội vào pháp tánh,
chẳng thấy một sự vượt khỏi pháp tánh. Nếu có chẳng cùng tương ưng pháp
tánh, cũng năng phương tiện hội vào lý thú Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu,
bởi đấy chẳng thấy vượt khỏi pháp tánh. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển, nếu có ác ma hiện
tiền hoá làm tám đại địa ngục. Lại ở trong mỗi đại địa ngục hóa làm vô
lượng vô biên Bồ tát đều bị lửa dữ đốt cháy suốt, đều chịu đại khổ chua
cay đau độc. Làm hóa này rồi, bảo các Bồ tát Bất thối chuyển rằng : “ Các
Bồ tát này đều nhận ký Bất thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề nên đọa
trong đại địa ngục như thế, hằng chịu các thứ khổ dữ dội như đấy. Bồ tát
các ngươi đã nhận ký Bất thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng sẽ
đọa trong địa ngục lớn đây chịu các khổ dữ dội. Phật trao ký cho các ngươi
để chịu cực khổ trong đại địa ngục, chứ chẳng phải trao ký Bất thối chuyển
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên các ngươi phải mau nới bỏ tâm đại Bồ
đề, may được thoát khỏi khổ địa ngục lớn, sanh ở trên trời, hoặc sanh
trong người hưởng các giàu vui !”. Khi ấy,
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển thấy nghe việc này, nơi tâm chẳng động,
cũng chẳng sợ nghi, chỉ khởi nghĩ này : “ Bồ tát Ma ha tát nhận ký Bất
thối chuyển, nếu đọa trong địa ngục , bàng sanh, quỷ giới, atố lạc, tất
không có lẽ ấy. Sở dĩ vì sao ? Ngôi Bất thối chuyển Bồ tát quyết định
không nghiệp bất thiện, cũng không thiện nghiệp rước lấy quả khổ vậy. Chư
Phật quyết định không lời dối gạt vậy. Như Lai đã thuyết đều được lợi vui
tất cả hữu tình, do đại từ bi tâm được lưu xuất ra vậy. Việc đã thấy nghe
kia quyết định là ác ma làm ra nói ra “. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển, nếu có ác ma làm
tượng Sa môn đến chỗ Bồ tát nói lời như vầy : “ Ngươi trước đã nghe nên tu
bố thí Ba la mật đa khiến mau viên mãn; nên tu tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa khiến mau viên mãn. Như vậy cho đến
nên chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðã nghe như thế đều là tà thuyết,
nên mau nới bỏ, chớ bảo là chơn. Lại ngươi
trước nghe nên đối tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các đệ tử quá
khứ, vị lai, hiện tại từ sơ phát tâm cho đến pháp trụ. Trong ấy có bao
công đức căn lành, đều sanh tùy hỷ nhóm hợp tất cả, cùng các hữu tình bình
đẳng chung có, hồi cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðã nghe như thế cũng là
tà thuyết nên mau nới bỏ, chớ bảo là chơn. Nếu ngươi bỏ kia chỗ nói tà
pháp, ta sẽ dạy ngươi Phật pháp chơn thật, cho ngươi tu học mau chứng Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ngươi trước đã nghe chẳng phải lời chơn Phật, là
kẻ văn tụng soạn tập để dối gạt. Lời ta nói ra là lời chơn Phật, khiến
ngươi mau chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề “. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe lời như thế tâm động sợ nghi, phải biết
chưa nhận ký Bất thối chuyển. Kia đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề do chưa
quyết định, chưa được gọi Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe lời như thế nơi tâm chẳng động, cũng
chẳng sợ nghi, chỉ theo pháp tánh vô tác vô tướng vô sanh mà trụ. Bồ tát
Ma ha tát này có sở tác điều gì chẳng tin lời người. Chẳng theo người dạy
mà tu bố thí Ba la mật đa; chẳng theo người dạy mà tu tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Cho đến chẳng theo người dạy mà
tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Phải biết Bồ tát Ma ha tát như thế đã đối
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được Bất thối chuyển. Thiện
Hiện ! Như lậu tận A la hán có làm việc gì chẳng tin lời người, hiện chứng
pháp tánh không lầm không nghi, tất cả ác mà chẳng khuynh động được. Như
vậy Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển, tất cả Thanh văn, Ðộc giác, ngoại
đạo, ác ma thảy chẳng năng phá hoại đè dẹp tâm kia khiến đối Bồ đề mà lui
khuất. Thiện
Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này quyết định đã trụ bậc Bất thối chuyển, sở hữu
sự nghiệp đều tự suy kỹ, chẳng chỉ tin người mà liền khởi tác. Cho đến sở
hữu tôn giáo của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, hãy chẳng phớt nhẹ tín thọ
phụng hành, huống tin lời Thanh văn, Ðộc giác, ngoại đạo, ác ma thảy mà
hữu sở tác. Các Bồ tát này thi vi điều gì chỉ tin người mà hành, trọn
không có lẽ ấy. Vì cớ sao
? Thiện Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy có pháp khá tin mà hành. Sở
dĩ vì sao ? Thiện Hiện ! Các Bồ tát này chẳng thấy có sắc khá tin mà hành,
chẳng thấy có thọ tưởng hành thức khá tin mà hành. Cũng chẳng thấy có sắc
chơn như khá tin mà hành, chẳng thấy thọ tưởng hành thức chơn như khá tin
mà hành. Như vậy cho đến chẳng thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
khá tin mà hành, cũng chẳng thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chơn
như khá tin mà hành. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tấc cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển, nếu có ác ma làm
tượng Bí sô đến chỗ Bồ tát xướng lời như vầy : “Sở hành các ngươi là pháp
sanh tử,chẳng phải hành Bồ tát, chẳng do đây được Nhất thiết trí trí. Các
ngươi nay nên tu đạo hết khổ, mau hết các khổ, chứng bát Niết bàn “. Khi ấy ác
ma tức vì Bồ tát thuyết đạo pháp tương tự đạo sanh tử. Chỗ gọi tưởng cốt,
hoặc tưởng xanh bầm, hoặc tưởng mủ thúi, hoặc tưởng sình chướng, hoặc
tưởng trùng ăn, hoặc tưởng khác đỏ; hoặc từ, hoặc bi, hoặc hỷ, hoặc xả,
hoặc bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô sắc. Bảo Bồ tát rằng : “Ðây là chơn đạo chơn
hạnh. Ngươi dùng đạo đây, hạnh đây dẽ được Ðộc giác Bồ đề. Ngươi nhờ đạo
đây hạnh đây, nên mau hết tất cả sanh lão bệnh tử. Dùng làm chi lâu chịu
khổ sanh tử ! Thân khổ hiện tại hãy đáng chán bỏ, huống lại cầu chịu thân
khổ đưông lai. Nên tự nghĩ kỹ, bỏ đã tin trước kia”. Thiện
Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này khi nghe lời kia nơi tâm chẳng động, cũng
chẳng sợ nghi, chỉ khởi nghĩ này : “Nay Bí sô đây ích ta chẳng ít, năng vì
ta thuyết đạo pháp tương tự, khiến ta nhận biết đạo này chẳng chứng quả Dự
lưu cho đến chẳng chứng Ðộc giác Bồ đề được, huống sẽ chứng được Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề “. Bồ tát Ma
ha tát này khởi nghĩ đây rồi, rất sanh vui mừng, lại khởi nghĩ nữa : “Nay
Bí sô đây rất là ích ta, phương tiện vì ta thuyết pháp chướng đạo, khiến
ta nhận biết pháp chướng đạo rồi, đối đạo Tam thừa tự tại tu học. Thiện
Hiện ! Khi ác ma kia biết Bồ tát đây rất sanh vui mừng, lại khởi nói nữa :
“Khốn thay nam tử ! Ngươi nay muốn thấy các Bồ tát Ma ha tát trường thời
siêng hành hạnh vô ích chăng ? Là các chúng Bồ tát Ma ha tát trải số đại
kiếp như các Căng già, đem vô lượng thứ thượng diệu, áo mặc, uống ăn, đồ
nằm, thuốc chữa, của cải, hoa hương các vật, cúng dường cung kính, tôn
trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn Căng già sa thảy. Lại ở chỗ
Phật như Căng già sa thảy, tu hành bố thí Ba la mật đa; tu hành tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Cho đến chỗ Phật như
Căng già sa thảy tu nhất thiết trí; tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí. Chúng Bồ tát Ma ha tát này cũng gần gũi thừa dự Phật như cát sông
Căng già, ở chỗ các Phật thỉnh hỏi đạo Vô thượng Chánh Ðẳng Giác, là hỏi
lời này : “Sao là Bồ tát Ma ha tát an trụ đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ?
Sao là Bồ tát Ma ha tát tu hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa. An
trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất
tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Tu bốn
niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô
sắc định. Tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu không, vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn. Tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vận địa. Tu năm nhãn,
sáu thần thông. Tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu
ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi tùy hảo. Tu pháp vô vong thất, tánh
hằng trụ xả. Tu đà la ni môn, tam ma địa môn. Tu quán
thuận nghịch mười hai nhánh duyên khởi. Nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục
hữu tình. Tu thần thông thù thắng các Bồ tát Ma ha tát. Tu viên mãn thọ
lượng. Học quay xe Ðại pháp, hộ trì Chánh pháp, khiến được trụ lâu. Tu
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Như đã thỉnh hỏi chư
Phật Thế Tôn nhiều như cát Căng già thảy thứ lớp vì thuyết. Chúng Bồ
tát Ma ha tát này, như Phật dạy bảo an trụ học trải vô lượng kiếp, mạnh mẽ
tinh tiến, hãy chẳng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, huống
nay các ngươi sở tu sở học năng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ?” Thiện
Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này dù nghe lời ma kia mà tâm không khác, chẳng
kinh chẳng sợ, không nghi không lầm, càng bội vui mừng, tác nghĩ này rằng
: “Nay Bí sô đây cực nhiêu ích ta, phương tiện vì ta thuyết pháp chướng
đạo, khiến ta biết pháp chướng đạo đây quyết định chẳng chứng được quả Dự
lưu cho đến chẳng chứng Ðộc giác Bồ đề, huống năng chứng được sở cầu Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề”. Thiện
Hiện ! Khi ác ma kia biết tâm Bồ tát Ma ha tát này chẳng thối khuất, không
lầm không nghi, tức ở chỗ đây hóa làm vô lượng hình tượng Bí sô bảo Bồ tát
rằng : “Các Bí sô chúng tôi đây đều ở quá khứ cần cầu Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề, trải vô lượng kiếp tu hành các thứ khổ hạnh khó hành mà chẳng năng
được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nay đều lui chứng quả A la hán,
các lậu đã hết đến khổ ngằn mé. Các ngươi làm sao năng chứng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề !” Thiện
Hiện ! Bồ tát Ma ha tát này thấy nghe đây rồi, tức khởi nghĩ này : “Quyết
định là ác ma hóa làm hình tượng Bí sô như thế rối loạn tâm ta, nhân
thuyết đạo pháp tương tự chướng ngại; chắc chắn không chứng Bồ tát Ma ha
tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa đến ngôi viên mãn, mà chẳng chứng Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề, lại lui đọa Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác “. Bấy giờ,
Bồ tát lại khởi nghĩ nữa : “Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành bố thí cho đến
bát nhã Ba la mật đa đến ngôi viên mãn mà chẳng chứng Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề, tất không có lẽ ấy. Cho đến tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí,
nhất thiết tướng trí đến gôi viên mãn mà chẳng chứng Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề cũng tất không lẽ ấy “. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển hằng khởi nghĩ này :
“Nếu Bồ tát Ma ha tát như chư Phật dạy, tinh siêng tu học, thường chẳng xa
lìa tác ý tương ưng sở nhiếp diệu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng
Nhất thiết trí trí. Thường đem phương tiện khuyên các hữu tình tinh siêng
tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật
đa. Bồ tát Ma ha tát này quyết định chẳng lui sáu ba la mật đa, cho đến
quyết định chẳng lui nhất thiết tướng trí, tất chứng Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề”. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển hẳng khởi nghĩ này :
“Nếu Bồ tát Ma ha tát giác biết ma sự, chẳng theo lời ma sự; giác biết bạn
ác, chẳng theo lời bạn ác; giác biết cảnh giới, chẳng theo cảnh giới
chuyển. Bồ tát Ma ha tát này quyết định chẳng lui sáu Ba la mật đa. Cho
đến quyết định chẳng lui nhất thiết tướng trí, tất chứng Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề”. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển. Lại nữa,
Thiện Hiện ! Tất cả Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển nghe Phật Thế Tôn đã
thuyết pháp yếu, thân tâm vui mừng, cung kính tín thọ, khéo hiểu nghĩa
thú, nơi tâm kiên cố cứng hơn kim cương, chẳng thế lay chuyển chẳng thể
dẫn cướp. Thường siêng tu học sáu Ba la mật đa, tâm không chán mỏi, cũng
khuyên người học sáu ba la mật đa, tâm không chán mỏi. Thiện
Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành trạng tướng như thế, biết là
Bồ tát Ma ha tát Bất thối chuyển.
Nguồn: www.quangduc.com