Tôi nghe như vầy:
Một thời Bà Già Bà ở tại núi Kỳ xà quật, thành Vương xá, cùng với đại chúng Tỳ kheo là năm ngàn người và tám mươi na do tha Bồ tát, đều là những vị Nhất sanh bổ xứ, trong đó Bồ tát ma ha tát A Thị (Dật) Ða là đứng đầu. Vua Tứ thiên, vua Thích thiên, vua Ðại Phạm thiên, là chủ của thế giới Ta bà cùng với chư thiên tăng thượng phước đức, A tu la tăng thượng oai thế, Long vương, Dạ xoa, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và phi nhân... trước sau vây quanh chiêm ngưỡng đức Như Lai.
Khi ấy trong chúng Bồ tát có một vị Bồ tát tên là Ðồng tử Nguyệt quang, quá khứ đã từng cúng dường chư Phật, trồng các căn lành , tự biết được kiếp trước, tin thích Ðại thừa, an trụ Ðại thừa tương ưng với lòng đại bi, từ tòa đứng dậy trạch áo vai mặt, quỳ gối mặt xuống đất, bạch đức Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nay con có điều muốn hỏi, cúi mong ngài cho phép, để con trừ bỏ nghi kết trong lòng.
Ðức Phật bảo:
–Này đồng tử! Tùy ý ngươi muốn hỏi bất cứ điều gì ta sẽ giải thích cho để ngươi được hoan hỷ. Ta là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết tri kiến, đối vơi tất cả pháp có sức lực, không sợ hãi, được tự tại, cùng tương ưng với tri kiến giải thoát, không chướng ngại.
Này đồng tử! Như Lai không có điều gì mà không biết, không có điều gì mà không thấy, không có điều gì mà không chứng, luôn luôn lựa chọn, biết được vô lượng vô biên thế giới.
Này đồng tử! Chư Phật Thế Tôn đối với tất cả các câu hỏi đều có thể tùy thuận giải đáp, đều khiến mọi người được hoan hỷ.
Bấy giờ đồng tử dùng kệ để hỏi rằng:
Các đức Phật làm những hạnh gì?
Vì hay thương đời làm ánh sáng
Hay được trí bất khả tư nghị
Cúi mong cứu độ giải thích cho.
Hạnh gì nói được pháp cao này?
Ngưu vương giữa người trời cung kính
Trí tối thượng không thể đo lường
Mong ngài vì con khéo phân biệt
Vì con thâm tín nên thưa hỏi
Chân thật không có tâm quanh co
Không ai có thể chứng biết con
Chỉ có Nhân tôn mới thấy rõ
Con có tâm thắng lạc rộng lớn
Sư tử họ Thích biết hạnh con
Tâm con không vì ngôn ngữ vậy
Mong ngài vì con nói về đạo
Pháp gì hay đưa chư Phật đến
Mà được tăng trưởng trí vô biên
Ðể đạt đến được tất cả pháp
Mong ngài vì con khéo tuyên no í?
Mong nói pháp hạnh con trưởng dưỡng
Khiến được thành tựu trí minh lợi
Quyết lòng trì giới không hủy phạm
Xa lìa tất cả các sợ hãi
Làm sao với giới mà không bỏ?
Làm sao với huệ mà không giảm?
Làm sao an trụ A lan nhã?
Làm sao để được tăng trí huệ?
Làm sao hay vào thắng diệu pháp?
Thích giữ cấm giới không hối hận?
Làm sao với giới không khuyết tổn?
Làm sao để được ba nghiệp tịnh?
Làm sao biết được tánh hữu vi?
Tâm không nhiễm uế, đến Phật đạo?
Làm sao để được thân nghiệp tịnh?
Làm sao trừ được miệng ý ác?
Làm sao lìa được tâm tạp nhiễm?
Cúi mong Thế Tôn nói cho con.
Bấy giờ, đức Phật bảo đồng tử Nguyệt Quang:
–Nếu Bồ tát Ma ha tát cùng tương ưng với một pháp thì mau được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, như vậy các pháp đều được thành tựu tức khắc. Thế nào là một pháp? Nếu Bồ tát Ma ha tát đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc. Ðó là tương ưng với một pháp mau thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, có thể đạt được sự lợi ích của công đức như vậy.
Khi ấy đức Thế Tôn nói bài kệ:
Nếu ai thọ trì một pháp này
Hay thuận Bồ tát chanh tu hành
Nhờ có công đức của pháp này
Mau được thành tựu đạo vô thượng
Với tất cả xứ, tâm vô ngại
Bồ tát dõng mãnh mới làm được
Không hề khởi tư tưởng yêu ghét
Như vậy sẽ được diệu công đức
Nếu hay tu với tâm bình đẳng
Thì sẽ chứng được quả bình đẳng
Pháp hạnh như vậy cũng bình đẳng
Sẽ được tướng dưới chân bằng phẳng
Người tu bình đẳng lìa tâm sân
Hay trừ tất cả phiền não chướng
Do nhân duyên ấy bàn chân bằng
Nên được màu bông sen dưới chân
Ai hay chỉ hiện ở mười phương
Phước đức sáng ngời khắp cõi Phật
Thì được bước lên Tịch diệt địa
Ðiều phục vô lượng các chúng sanh.
Này đồng tử! Bồ tát Ma ha tát đối với tất cả chúng sanh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc, làm con mắt cho thế gian, chứng được tam muội, gọi là tam muội thể tánh các pháp bình đẳng, không hý luận. Nhờ tam muội ấy thành tựu mười pháp. Nhưng gì là mười? Ðó là:
1. Thân giới
2. Khẩu giới
3. Ý giới
4. Nghiệp thanh tịnh
5. Vượt qua các nhân duyên
6. Hiểu rõ các ấm
7. Ðược cõi nước bình đẳng
8. Trừ các nhập tướng
9. Ðoạn diệt các ái
10. Chứng được vô sanh.
Lại có mười pháp:
1. Nhập các pháp tánh
2. Hiển thị các nhân
3. Không hoại các quả
4. Hiện thấy các pháp
5. Tu tập chánh đạo
6. Cùng Phật đồng sanh
7. Trí huệ sáng suốt lanh lợi
8. Ðạt được trí ưa thích của chúng sanh.
9. Ðạt được Pháp trí
10. Nhập trí huệ vô ngại.
Lại có mười pháp:
1. Khéo biết trí văn tự
2. Ðã vượt qua các sự việc
3. Ðược tứ âm thanh
4. Bình đẳng đối với cõi nước
5. Ðược cõi nước bình đẳng, tâm sanh vui thích.
6. Ðược một phần hỷ
7. Ðược tâm không quanh co
8. Ðiều phục oai nghi
9. Ðược tâm thành thật, ngay thẳng
10. Nhan sắc không sân hận.
Lại có mười pháp:
1. Mặt thường vui vẻ
2. Lời nói hòa nhã
3. Trước tiên luôn thăm hỏi
4. Thường không làm biếng
5. Cung kính bậc tôn trưởng
6. Cúng dường bậc tôn trưởng
7. Ðời sống tri túc
8. Tu điều thiện không chán
9. Thanh tịnh sự tà mạng
10. An trụ nơi thanh vắng.
Lại có mười pháp:
1. Trí an trụ khắp nơi
2. Chánh niệm không quên.
3. Ðược trí ấm phương tiện.
4. Trí giới phương tiện.
5. Trí nhập phương tiện.
6. Chứng các thần thông
7. Diệt các phiền não
8. Ðoạn trừ tập khí
9. Tâm thường dõng mãnh
10. Trụ nơi quán bất tịnh.
Lại có mười pháp:
1. Biết phương tiện để phạm.
2. Diệt các dòng hữu
3. Ðoạn các kiết sử.
4. Ðã độ các hữu.
5. Khéo biết kiếp trước.
6. Không nghi nghiệp quả.
7. Tư duy đối vơi pháp.
8. Mong cầu đa văn.
9. Ðược trí lanh lợi.
10. Ðược bậc điều phục.
Lại có mười pháp:
1. Không ỷ lại sự trì giới.
2. Không vọng tưởng phân biệt.
3. Không có khinh tháo.
4. Trụ nơi bất thối.
5. Xuất sanh pháp lành.
6. Nhàm chán pháp ác
7. Không tạo phiền não.
8. Không xả bỏ sự học.
9. Phân biệt các thiền định.
10. Ðược trí ưa thích của tất cả chúng sanh.
Lại có mười pháp:
1. Khéo phân biệt sanh xứ.
2. Ðược trí cùng tận.
3. Khéo biết trí ngôn ngữ
4. Vứt bỏ duyên tục.
5. Nhàm chán ba cõi.
6. Không khởi tâm hạ liệt.
7. Không đắm trước các pháp.
8. Nhiếp thọ chánh pháp.
9. Thủ hộ chánh pháp.
10. Biết luật phương tiện.
Lại có mười pháp:
1. Diệt trừ các sự tranh cãi.
2. Không chống trái.
3. Không tranh tụng, đánh nhau.
4. Nhẫn bình đẳng.
5. Ðược bậc nhẫn.
6. Tự nhiếp nơi nhẫn.
7. Khéo chọn các pháp
8. Tâm thích giới đầy đủ.
9. Quyết định phương tiện, khéo hỏi và đáp.
10. Trí khéo phân biệt nghĩa của câu.
Lại có mười pháp:
1. Trí phương tiện đối với pháp xuất sanh.
2. Phát sanh trí khéo biết nghĩa và phi nghĩa.
3. Trí về đời trước.
4. Trí về đời sau.
5. Trí hiện tại.
6. Trí ba đời bình đẳng.
7. Trí khéo biết tam luân.
8. Tâm an trụ.
9. Thân an trụ
10. Khéo gìn giữ oai nghi.
Lại có mười pháp:
1. Không hủy hoại oai nghi.
2. Phân biệt oai nghi.
3. Oai nghi đoan nghiêm, tao nhã.
4. Khéo hiểu, nói về nghĩa.
5. Ðược thế trí
6. Thích bố thí, không xan tham
7. Tự tay bố thí.
8. Thường cho không ngừng.
9. Cho tất cả.
10. Có tâm xấu hổ.
Lại có mười pháp:
1. Có tâm biết thẹn.
2. Xả bỏ tâm ác.
3. Không bỏ hạnh đầu đà.
4. Ðối vơi đức tin không hề sai lầm.
5. Thường thực hành hạnh vui.
6. Ðem chỗ mình ngồi dâng cho các bậc tôn trưởng.
7. Bỏ tâm kiêu mạn.
8. Khéo nhiếp tâm.
9. Khéo biết tâm tương ưng.
10. Khéo biết tâm khởi.
Lại có mười pháp:
1. Trí khéo biết nghĩa.
2. Trí khéo biết pháp.
3. Xa lìa vô trí.
4. Khéo nhập vào tâm vi tế.
5. Biết tự tánh của tâm.
6. Khéo biết pháp khứ lai phương tiện.
7. Trí khéo biết tất cả ngôn ngữ.
8. Khéo biết từ ngữ sai biệt không trở ngại.
9. Trí phương tiện quyết định được nghĩa.
10. Xả bỏ sự phi nghĩa.
Lại có mười pháp:
1. Thân cận người lành.
2. Cùng làm việc với họ.
3. Nghe theo lời dạy của họ
4. Xa lìa người ác.
5. Thông suốt việc tu thiện.
6. Không đắm trước thiền vị.
7. Du hý thần thông.
8. Ðạt được trí thế gian.
9. Xa lìa sự phô trương giả danh.
10. Không nhàm chán hữu vi.
Lại có mười pháp:
1. Ðược lợi không mừng.
2. Bị suy thối không buồn
3. Ðược khen không vui.
4. Bị chê không lo.
5. Ðược tôn vinh vẫn không thích.
6. Bị hủy báng vãn không nản.
7. Không khổ.
8. Không vui.
9. Không thân cận người tại gia.
10. Không ở trong tăng chúng.
Lại có mười pháp:
1. Bỏ sự không cung kính.
2. Thực hành sự cung kính.
3. Ðầy đủ lễ nghi.
4. Bỏ tâm không lễ nghi.
5. Không nhiễm ô nhà thế tục.
6. Gìn giữ Phật pháp.
7. Thích im lặng, ít nói.
8. Lời nói, hành động không t hô tháo.
9. Cung người đàm luận, khéo dùng phương tiện.
10. Hàng phục các oán thù.
Lại có mười pháp:
1. Khéo biết thời tiết
2. Ðối với các người phàm phu.
3. Không khởi tâm khinh người nghèo hèn.
4. Có người xin liền cho.
5. Với các người nghèo khổ cứ để họ xin, đừng gây chướng ngại.
6. Không khởi tâm ghen ghét người phá giới.
7. Có ý nghĩ muốn cứu người khác.
8. Khéo biết việc mình làm.
9. Nhiếp thọ chánh pháp.
10. Xả bỏ của cải.
Lại có mười pháp:
1. Không kinh doanh tích tụ.
2. Khen ngợi người trì giới.
3. Chê trách người phạm giới.
4. Cung kính sự phụng trì giới, không có tâm dối láo.
5. Tất cả vật sở hữu đều có thể đem cho.
6. Thành tâm khuyên thỉnh.
7. Nói thế nào làm thế ấy.
8. Tôn thờ người trí.
9. Ðối với các pháp quyết định tu hành, hết lòng ưa thích.
10. Ðược trí thí dụ.
Lại có mười pháp:
1. Phương tiện đối với đời trước.
2. Tu điều thuận trước nhất.
3. Có các phương tiện.
4. Ðoạn trừ các tướng
5. Xả bỏ các tưởng.
6. Khéo biết sự tướng.
7. Hay diễn nói các kinh.
8. Khéo biết phương tiện đối với các sự thuận, nghịch.
9. Quyết định đối với chân lý.
10. Chứng được giải thoát.
Lại có mười pháp:
1. Lời nói chân thật, ngay thẳng.
2. Hiển lộ trí của tự tánh.
3. Lời nói không nghi ngờ
4. Buộc tư tưởng nơi “không”.
5. Tu sự vô tướng.
6. Biết tánh vô nguyện.
7. Ðược bốn vô úy.
8. Kiên cố đối với giới.
9. Nhập vào chánh đạo đầy đủ.
10. Ðạt được trí tuệ.
Lại có mười pháp:
1. Buộc tư tưởng vào một duyên.
2. Ít bận tâm về người thân.
3. Không khởi tấm ô trược.
4. Xả bỏ các kiến.
5. Ðược Ðà la ni.
6. Ðược trí.
7. Ðược sự sáng suốt.
8. An trụ.
9. Trụ trì.
10. Chánh cần.
Này đồng tử, đó gọi là Bồ tát ma ha tát từ Tam muội Vô hý luận, thể tánh bình đẳng của các pháp ấy, thành tựu các công đức lọi như vậy.
Này đồng tử, tam muội như vậy gọi là nhân, gọi là tương ưng, gọi là giáo huấn, gọi là pháp môn, gọi là động tác, gọi là đạo hạnh, gọi là không nghi, gọi là đạo sư, gọi là hành thuận nhẫn, gọi là nhẫn địa, gọi là trừ khử sự không nhẫn, gọi là trí địa, gọi là xa lìa vô tri, gọi là kiến lập nơi trí, gọi là phương tiện địa, gọi là Bồ tát du hành, gọi là thần cận thắng trượng phu, gọi là xa lìa kẻ ác, gọi là Như Lai nói về Phật địa, gọi là người trí tùy hỷ, gọi là kẻ ngu vứt bỏ, gọi là Thanh văn khó biết, gọi là không phải địa vị của ngoại đạo, gọi là nhiếp về Như Lai, gọi là điều hiểu biết của đấng Thập lực, gọi là chư thiên cúng dường, gọi là Phạm vương lễ bái, gọi là Ðế Thích đi theo sau, gọi là rồng, thần cúi lạy, gọi là Dạ xoa tùy hỷ, gọi là Khẩn đà la khen ngợi, gọi là Ma hầu la già xưng dương, gọi là sự tu của Bồ tát, gọi là chỗ mong cầu của bậc trí, gọi là được đạo vô thượng, gọi là chẳng phải thí tài vật, gọi là thuốc trừ bệnh phiền não của chúng sanh, gọi là kho trí, gọi là Biện tài vô tận, gọi là xuất sanh các lời dạy, gọi là trừ các bệnh khổ, gọi là biết ba cõi, gọi là thuyền bè đưa người, gọi là che chở qua bốn dòng nước, gọi là phát sanh danh dự, gọi là Như Lai tán thán, gọi là sự lợi ích của Như Lai, gọi là khen ngợi hào quang của đấng thập lực, gọi là xuất sanh đạo đức của Bồ tát, gọi là lòng từ diệt trừ sự bực tức, gọi là lòng từ bi trừ bỏ não hại, gọi là tâm hoan hỷ tịch tịnh, gọi là người xả bỏ buồn rầu, gọi là hơi thở sống động của người đại thừa, gọi là có thể rống tiếng sư tử, gọi là Phật đạo, gọi là tất cả Pháp ấn, gọi là dẫn đạo Nhất thiết trí, gọi là khu vườn du hý của Bồ tát, gọi là sự phá tan ma quân, gọi là đường an toàn, gọi là thành các nghĩa tốt, gọi là ngăn chận kẻ thù địch, gọi là dùng pháp hàng phục oán thù, gọi là sự vô úy chân thật, gọi là sức mạnh không vọng cầu như thật, gọi là cội gốc của mười tám Bất cộng pháp, gọi là trang nghiêm pháp thân, gọi là oai lực của các hành, gọi là trang nghiêm Phật huệ, gọi là bỏ các trói buộc của ái, gọi là trưởng tử của Phật vui mừng, gọi là trí Phật đầy đủ, gọi là không phải địa vị của Bích chi Phật, gọi là tâm thanh tịnh, gọi là thân thanh tịnh, gọi là thành tựu giải thoát, gọi là không có các tạp dục, gọi là không có các tạp nhuế, gọi là không phải địa vị ngu si, gọi là trí A hàm, gọi là hay khởi các kỹ thuật, gọi là trừ các vô minh, gọi là đầy đủ giải thoát, gọi là sự vui mừng của người thiền định, gọi là con mắt cần thiết để người thấy, gọi là du hý thần thông, gọi là hay hiện thần túc, gọi là Văn trì đà la ni, gọi là nhớ nghĩ, thọ trì không quên, gọi là sự gia bị của chư Phật, gọi là phương tiện của đạo sư, gọi là sự không tương ưng, vi tế khó biết, gọi là xả bỏ văn tự, gọi là biết sâu nghĩa trí, gọi là trí của tri kiến, gọi là trí phân biệt, gọi là trí bất khả ngôn thuyết, gọi là trí có thể điều phục sự sai, gọi là trí chất trực, gọi là trí thiểu dục, gọi là nhiếp trì tinh tấn, gọi là hay gìn giữ không quên, gọi là hay tiêu các khổ, gọi là pháp vô sanh, gọi là một lời diễn thuyết có thể biết được sự sanh diệt trong các loài. Ðó gọi là Tam muội không hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả pháp.
Khi đức Phật nơi pháp môn này, trong hội có tám mươi na do tha người, trời được Vô sanh pháp nhẫn, chín mươi hai na do tha trời, người được nhẫn tùy âm thanh, bảy mươi sáu na do tha người, trời được thuận nhẫn, sáu vạn người, trời được xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, một ngàn Tỳ kheo hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, hai trăm năm mươi Tỳ kheo ni hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, năm trăm Ưu bà tắc được quả A na hàm, tám trăm Ưu bà di được quả Tư dà hàm.
Bấy giờ ba ngàn đại thiên thế giới có sáu thứ chấn động, đó là:
1. Ðộng biến động, đẳng biến động.
2. Dũng biến dũng, đẳng biến dũng.
3. Khởi biến khởi, đẳng biến khởi.
4. Hống biến hống, đẳng biến hống.
5. Chấn biến chấn, đẳng biến chấn.
6. Giác biến giác, đẳng biến giác.
Vọt lên ở Ðông thì mất ở Tây. Vọt lên ở Tây thì mất ở Ðông. Vọt lên ở Nam thì mất ở Bắc. Vọt lên ở Bắc thì mất ở Nam. Vọt lên ở giữa thì mất ở một bên. Vọt lên ở một bên thì mất ở giữa. Nhờ pháp lực nên bỗng nhiên khởi lên ánh sáng chưa từng có, có thể chiếu sáng ở những nơi tăm tối xa xôi, cho đến địa ngục A tỳ, không chỗ nào không rực sáng.
Lúc ấy, khoảng giữa núi Thiết vi của thế giới, chúng sanh tăm tối lại được thấy nhau, thảy đều kinh ngạc nói rằng:
–Tại sao ở đây bỗng nhiên có những người này?
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
Ta nhớ kiếp xưa sáu vạn Phật
Vốn sống ở tại núi Kỳ xà
Khi ta cầu đạo thời quá khứ
Theo các Thế Tôn nghe định này
Lúc đó sáu ức Phật sau cùng
Vì thế gian nên làm ánh sáng
Tên là Phật Ta la Thọ Vương
Ta theo vị ấy hỏi định này
Lúc ấy ta sanh dòng Sát lợi
Là bậc tối tôn giữa các vua
Có đến năm trăm các người con
Ðầy đủ tất cả các tài nghệ
Với họ, ta là Vô thượng tôn
Tạo dựng Già lam đến cả ức
Toàn dùng đại chiên đàn thắng diệu
Xen lẫn vàng bạc và các báu
Lúc ta làm vua, người kính yêu
Tên là vua Tỳ Sa Mô Ðạt
Rông bày các cúng dường lên Phật
Ngót cả vạn tám trăm ức năm
Lúc đó Lưỡng túc tôn tối thắng
Tên là ngài Ta La Thọ Vương
Trong suốt bảy ức sáu vạn năm
Sống ở thế gian hoằng hóa đạo
Có tám mươi ức các Thanh văn
Ba minh, sáu thông thường tại định
Ðã sạch hết lậu, thân cuối cùng
Thánh chúng như vậy không gièm pha
Ta dâng các thứ thật tối thắng
Cúng dường bậc độ các ác thú
Vì muốn lợi ích các người, trời
Cho nên mới cầu tam muội này
Ta và vợ con đồng xuất gia
Này đồng tử! Vì nghĩa này nên nếu có Bồ tát ma ha tát, muốn nói với công đức chân thật của Như Lai, khai thị biện thuyết ý nghĩa của danh hiệu thì không thể cùng tận. Tất cả những điều được Phật nói ra, nay ngươi phải nên đọc tụng thọ trì, nói rộng tam muội như vậy cho người khác nghe.
Này đồng tử! Sao gọi là danh hiệu thật đức của Như Lai? Nếu Bồ tát ma ha tát trụ nơi thanh vắng, hoặc dưới gốc cây, nhàn hạ, ngồi im lặng một mình, phải học như vầy: Ðức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, tích tập công đức thắng diệu của Như Lai, tu các thiện căn mà không hoại mất, dùng đại nhẫn lực, được các tướng tốt, và các vẻ đẹp để tự trang nghiêm thân, là sắc khả ái thuộc loại bậc nhất, người xem không chán, kính tin, ái lạc, với các trí huệ không ai có thể hơn được, năng lực bất khả hoại, hóa độ các chúng sanh, là cha của Bồ tát, vua của Hiền thánh, là Ðạo sư hướng tới Niết bàn, trí huệ vô biên, biện tài vô lượng, Phạm âm thanh nhã, âm thinh lời lẽ thông suốt, tướng tốt hy hữu, người có mắt chiêm ngưỡng, tùy theo chỗ quán sát, muốn không xem nữa nhưng vẫn không được. Ðược thân không ai bằng, không bị dục nhiễm, không bị sắc nhiễm, hơn cả vô sắc giới, xa lìa các khổ, vất bỏ các pháp, giải thoát các cõi, chẳng nhập tương ưng, đoạn trừ các trói buộc, sạch hết khát ái, vượt qua bốn dòng sông, đầy đủ trí huệ, an xử Niết bàn, trụ nơi thật tế.
Này đồng tử! Ðó là ta nói rõ công đức chân thật của Như Lai. Nếu nói rộng về danh nghĩa của nó thì không bao giờ cùng tận tất cả những điều chư Phật nói ra.
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
Này đồng tử! Chính vì nghĩa này nên Bồ tát ma ha tát cần phải chí tâm thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác, phân biệt hiển thị, giáo hóa rộng rãi cho chúng sanh tu tam muội này.
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
Bấy giờ đồng tử Nguyệt Quang bạch đức Phật:
–Thưa Thế Tôn, gọi tam muội ấy thế nào cho đúng?
Ðức Phật bảo:
–Này đồng tử! Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe. Ta sẽ nói cho. Ðó là:
Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
KINH NGUYỆT ÐĂNG TAM MUỘI
Hết quyển 1/10
[Quyển 1]
Nguồn: www.quangduc.com