.
TUYỂN TẬP CÁC BÀI SÁM VĂN
Tập II
Thích Đồng Bổn sưu tập
---o0o---
II
CÁC BÀI SÁM VĂN
SÁM HỐI - PHÁT
NGUYỆN
70. SÁM HỐI
KHỂ THỦ NGHĨA (III)
Cúi đầu thọ
qui y Tam bảo,
Cùng trung thiên Giáo chủ
Thích Ca,
Tây phương Từ phụ Di Ðà,
Các Phật quá hiện vị lai
ba đời.
Quán Tự Tại, Phổ Hiền, Sư
Lợi,
Với Quan Âm, Thế Chí,
Thánh hiền,
Nguyện cầu phóng hiện oai
quang,
Chiếu soi chỗ tối tiềm
tàng độ sanh.
Ðộ quần sanh ai lân hỷ
xả,
Ðệ tử đồng một dạ chí
thiền,
Ðồng nhau tựu tại Phật
tiền,
Năm thân chấm đất một
nguyền chẳng sai.
Dốc một lòng tiêu tai sám
hối,
Nguyện tiêu trừ những tội
lỗi xưa,
Sanh ra các nguyện có
thừa,
Bởi từ vô thỉ tham và sân
si.
Thân khẩu ý là nơi tạo
khởi,
Con phát nguyện sám hối
tự thân,
Cầu cho chứng cũ bỏ lần,
Thiện căn thêm lớn mấy
phần tươi xanh.
Các phiền não chí thành
tiêu diệt,
Lưới vô minh trừ tuyệt
trong lòng,
Diệu tâm Duyên Giác mở
thông,
Tịch quang cảnh thiệt
đặng trông thấy liền.
Khi thọ mạng gần miền
duyên mãn,
Ðã tiên tri số mạng đến
kỳ,
Thân không bệnh khổ nàn
chi,
Lòng không một chút sự gì
tham mê.
Sáu căn đặng đủ bề vui
vẻ,
Chánh niệm thì toàn thể
phân minh,
Báo thân khi xả an ninh,
Ví như thiền định không
hình kém suy.
Phật Di Ðà, Quan Âm, Thế
Chí,
Với Thánh Hiền các vị rất
đông,
Phóng quang tiếp dẫn qua
sông
Ðem về Cực lạc hưởng
chung phước nhàn.
Có lầu các, tràng phan,
bửu cái,
Cùng vị hương thiên nhạc
tỏ tường,
Nghiêm trang cõi Thánh
Tây phương,
Hiện ra trước mắt rõ ràng
chẳng sai.
Khiến cho kẻ thấy nghe
phấn chí,
Lòng vui mừng phát ý
Bồ-đề,
Con trong khi ấy đặng về,
Theo hầu bên Phật tại đài
Kim Cang.
Ví móng tay khảy ngang
kêu “Cắc”,
Ðã sanh về Cực lạc quốc
bang,
Trong ao thất bửu rõ
ràng,
Hoa sen chín phẩm mình
vàng ngồi trong.
Nở ra thấy kim dung Phật
sắc,
Cùng các ngôi Bồ-tát đâu
đâu,
Nghe xong tiếng pháp
nhiệm mầu,
Vô sanh liền đặng chứng
vào chẳng sai.
Trong khoảnh khắc đặng về
Phật vị,
Ngỏ mong cầu thọ ký cho
tôi,
Sau khi đặng thọ ký rồi,
Tam không tứ trí thảy đều
viên dung.
Lại cùng đặng lục thông
ngũ nhãn
Cùng bá thiên vô hạn đà
ni,
Bao nhiêu công đức cũng
thì,
Thảy đều thành tựu trong
khi ấy rồi.
An dưỡng quốc sau tôi hồi
tỵ,
Nhập Ta bà cho phỉ dạ
mong,
Chia thân ra số rất đông,
Ứng trong thế giới giáp
vòng mười phương.
Lấy thần lực chẳng lường
lao khổ,
Vận chước mầu cứu độ quần
sanh
Làm cho lìa các nhiễm
tình,
Mau mau đem đặng loøng
thanh tịnh về.
Cõi Cực lạc đề huề sanh
đó,
Vào cõi này không có trở
lui,
Ấy là đại nguyện viên
dung
Không cùng thế giới không
cùng chúng sinh.
Nghiệp phiền não cũng gần
vô tận,
Con thề nguyền trọn phận
chẳng chăng,
Nay con lễ Phật nguyện
rằng,
Công con tu luyện thí
sang hữu tình.
Trọn bốn ân chí thành đều
đủ,
Ba cõi đều hưởng thụ vẻ
vang,
Biết bao thế giới mênh
mang,
Chúng sinh chủng trí một
đàng đồng viên.
------------------
-Trích Kinh Diễn Nghĩa,
HT Huệ Ðăng,Tổ đình Thiên Thai xb, Saigon, 1967
71. SÁM QUI MẠNG (III)
Nương minh đức Giác Hoàng
Ðiều Ngự,
Nguyện kinh mầu diệu ngữ
truyền trao,
Ba thừa, bốn quả ngôi
cao,
Dủ lòng từ tế, độ mau con
rày.
Chúng con tự xưa nay
ngang trái,
Nên sa vào khổ hải vô
biên,
Chịu vòng sanh tử liền
liền,
Ra đây vào đó ưa riêng
sắc tài.
Dây buộc trói mỗi ngày
thêm chắc,
Miệng, mũi, tay càng thắt
càng đau,
Ðường tà, biển ái lăn
vào,
Trau tria lỗi quấy lấp
rào tài năng.
Ðường nghiệp ác, càng xăn
lối bước,
Nguyện Phật, Tăng rưới
phước chúng con,
Trải lòng hối quá tội
mòn,
Vớt đưa chỉ dẫn chẳng còn
lầm sai.
Ra biển khổ, Phật đài
thẳng bước,
Hiện đời nay, hưởng phước
thanh nhàn,
Nguyện cầu thỏa mãn rảnh
rang,
Ðời sau càng đặng vẻ vang
trí mầu.
Nơi chánh quốc, thầy sâu
chỉ dạy,
Tuổi thiếu niên ngộ giải
lý thiền,
Sáu căn, ba nghiệp lặng
yên.
Không ưu lợi dục, chỉ
niềm thanh tu.
Gương giới đức trơn tru
chẳng bợn,
Nét từ bi rộng lớn độ
đời,
Duyên khẳm đủ, nạn xa
dời,
Soi gương Bát nhã, dòm
nơi chí thành.
Tu Chánh pháp, học hành
Liễu nghĩa
Chống thuyền Từ, một phía
thẳng xuôi,
Ba kỳ biển kiếp vượt lui,
Dựng cờ Chánh giác, xé
nùi tối nghi.
Hiển Tam bảo, phá tham
si,
Cúng hầu chư Phật, ngại
gì mỏi mê.
Các cửa học, một bề học
suốt,
Rộng nhiều phương, thắp
đuốc đưa đường,
Sáu thần thông, một
nguyện vương,
Trên bờ pháp giới, thẳng
đường độ sanh.
Ðồng Quan Âm, tâm lành
một niệm,
So Phổ Hiền, mấy điểm
chân tu,
Phương này cõi ấy ngao
du,
Hiện thân thuyết pháp
chẳng lu tánh mầu.
Cõi địa ngục, âu sầu quỉ
đói,
Phóng hào quang, biến rọi
pháp thần,
Ðức từ, rộng bủa thâm ân,
Chúng sinh khắp độ, niệm
trần nhẹ phân.
Nghe danh ta, hoặc thân
trông thấy,
Phát Bồ-đề, khổ ấy thoát
qua,
Nước băng, lò lửa tránh
xa,
Hóa thành rừng báu, thơm
hòa nơi nơi.
Cơm khảo phạt, đồng sôi
trái sắt,
Trở thành nhà Cực lạc
thảnh thơi,
Mang lông đền trả nợ đời,
Cũng đều rảnh khỏi vướng
nơi trần phiền.
Cùng những bệnh lây
truyền chất độc,
Ðem thuốc hay lừa lọc vi
trùng,
Những năm đói rét khốn
cùng,
Hóa nhiều phẩm vật, độ
dùng ấm no.
Việc lợi ích, giúp cho
muôn loại,
Cứu bà con, khắp trải ơn
thù,
Xé lưới ái, phá tham ngu,
Vượt ra bốn thú, không lu
tánh lành.
Ðồng hàm thức, vãng sanh
nước Phật,
Quả Bồ-đề, chứng bực
Thượng nhơn.
Hư không mòn hết sạch
trơn,
Nguyện tôi sÂu rộng,
không cơn nào cùng.
Khắp thế giới hòa chung
giống trí,
Thường lặng soi chơn lý
diệu mầu,
Mười phương cõi Phật thâm
sâu,
Mở đường Giải thoát, lánh
câu Luân hồi.
---------------------
-Trích Kinh Kim Quang
Minh Hiệp Bộ, Tỷ-kheo Ni Như Ấn, THPG Tp. HCM xb, 1992
72. SÁM NHỨT TÂM NGHĨA (II)
Một lòng chánh tín nguyện
ra,
Nguyện về Tịnh độ nước A
Di Ðà.
Nguyện Phật phóng hào
quang ra,
Dứt trừ nghiệp chướng
thân ta an hòa.
Lòng thành nguyện Phật độ
ta,
Ta nay chánh tín niệm A
Di Ðà.
Nguyện làm nên đạo chẳng
xa,
Cầu về Tịnh độ ngồi tòa
kim liên.
Phật xưa lời thệ lưu
truyeàn,
Chúng sinh bằng muốn về
miền Lạc bang.
Hết lòng tin tưởng rõ
ràng,
Những đến mười niệm cũng
sanh Lạc thành.
Nhưng mà chẳng đặng vãng
sanh,
Thệ không chứng quả lạc
thành Pháp vương.
Nhơn duyên niệm Phật
không lường,
Ðặng vào biển thệ nguyện
vương Di Ðà.
Nương nhờ đức Phật độ ta,
Thiện căn thêm lớn phước
ta vô cùng.
Nguyện cho đến lúc lâm
chung,
Ngày giờ biết hết hình
dung như thường.
Thân không bệnh khổ vấn
vương,
Lòng không tham mến sự
thường thế gian.
Ý không điên đảo trớ
trang,
Như khi thiền định an
nhàn thảnh thơi.
Rõ ràng thấy đức Như lai,
Các vị Thánh chúng cầm
đài Kim cang.
Không lường hiện thoại
phóng quang,
Rước ta về đến Tây phương
tức thì.
Hoa sen liền nở một khi,
Ðoan nghiêm tướng hảo
liễu tri pháp mầu.
Mở mang Phật huệ thẩm
sâu,
Nhứt thừa thọ ký lại cầu
vô sanh.
Bồ-đề phát nguyện viên
thành,
Chúng sinh độ hết Tây
phương đồng về.
*
* *
--------------
-Trích Kinh Diễn Nghĩa,
HT Huệ Ðăng, Tổ đình Thiên Thai xb, Saigon, 1967
73. QUI MẠNG
DIỄN NGHĨA (IV)
Mười phương
Ðiều Ngự nguyện về nương,
Trong sạch
pháp mầu thệ xiển dương,
Bốn quả, ba
thừa Tăng giải thoát,
Từ bi thâu
nạp rải lòng thương.
Kiếp lại
kiếp trái thường chơn tánh,
Theo đường
mê nặng gánh trần ai,
Xuống lên
sanh tử bao nài,
Nhiễm mùi
thanh sắc càng ngày càng sâu.
Nào triền sử()
từ lâu thắt chặt,
Chứa đã
thành dày đặc lậu nhân,()
Sáu căn hiệp
với sáu trần,
Dối gây tội
cấu chất ngần trời cao.
Nơi khổ hải
dấn vào lặn hụp,
Chốn tà đồ
mãi giục chân bon,
Ðam mê nhân
ngã bằng non,
Ði theo
đường vạy, bỏ con đường bằng.
Bao kiếp
trước dùng dằng dây nghiệp,
Nhiều đời
qua oan kiếp còn giâm,
Ngửa mong
Tam bảo từ tâm,
Một lòng sám
hối lỗi lầm sạch trơn.
Nguyền xin
đấng Năng Nhơn cứu vớt,
Mỏi mòn
trông bạn tốt dìu nhau,
Vượt ra
phiền não vực sâu,
Ðến nơi ngàn
giác nhiệm mầu bờ kia.
Kiếp hiện
tại phước lành, mạng vị,
Ðời lai sanh
giống trí, mạ linh,
Những mong xương thịnh
cho mình,
Những mong tươi đẹp thêm
xinh sắc màu.
Sanh vào chốn trung châu
quốc thổ,
Lớn lên cùng hội ngộ minh
sư,
Do lòng chánh tín chơn
như,
Xuất gia nhập đạo đồng
chơn buổi đầu.
Sáu căn đủ làu làu thông
lợi,
Ba nghiệp đầy vời vợi
thuần lương,
Duyên đời há để nhiễm
vương,
Siêng tu phạm hạnh, giữ
thường giới căn.
Nghiệp trần cấu đón ngăn
chớ phạm,
Gìn uy nghi chẳng dám lần
sai,
Côn trùng nhỏ nhít cựa
bay,
Hộ sanh nào để ý này tổn
thương.
Kìa tám nạn(3)
chưa tường vướng víu,
Nọ bốn duyên ()
chẳng thiếu chi đâu,
Hiển bày Bát Nhã trí mầu,
Bồ-đề tâm ấy vững lâu
chẳng lùi.
Nương chánh pháp hằng vui
tu tập,
Hiểu Ðại thừa chẳng chấp
tà tôn,
Mở bày Lục độ hạnh môn,
Vượt ra kiếp số mênh mông
ba kỳ.
Dựng cờ pháp lần đi mọi
chỗ,
Xé lưới nghi kiên cố điệp
trùng,
Uy linh hàng phục ma
hung,
Nối hưng Tam bảo tận cùng
ngàn sau.
Mười phương Phật vâng thờ
không mỏi,
Ngàn pháp môn học hỏi làu
thông,
Rộng tu phước huệ viên
dung,
Lợi người cứu vật khắp
cùng trần sa.
Thần thông nọ được qua
sáu phép,
Phật quả kia viên kịp một
đời,
Rồi sau pháp giới chẳng
rời,
Khắp vào sanh tử độ người
trầm luân.
Lòng từ đức Quan Âm bi
thiết,
Hạnh Phổ Hiền nào biết
mỏi mê,
Cõi này phương khác chi
nề,
Tuyên dương chánh pháp
tùy loài hiện thân.
Chốn địa ngục khổ phần
vĩnh kiếp,
Trong đường ma quỉ nghiệp
còn vương,
Phóng quang chiếu sáng
đôi đường,
Hoặc là thần biến tùy
phương hiện hình.
Người thấy tướng tâm linh
diệu vợi,
Kẻ nghe danh phơi phới
mừng vui,
Bồ-đề tâm phát chẳng lùi,
Vượt ra khổ ải, luân hồi
hằng không.
Nơi ngục giá, lửa hồng
hăng hắc,
Biến thành rừng thơm ngát
mùi hương,
Uống đồng nuốt sắt thảm
thương,
Hóa ra Lạc quốc, Thiên
đường tịnh chơn.
Giống chở nặng, ngậm hờn
nhiều nỗi,
Loài mang lông, đầu đội
sừng dài,
Hết điều khổ lụy bi ai,
Hưởng điều lợi lạc, ngày
ngày lo chi.
Ðời tật dịch con thì hiện
thuốc,
Cứu bệnh nghèo đều được
tiêu tan,
Trời sanh nhiều nổi cơ
hàn,
Hóa ra lúa bắp độ an cảnh
nghèo.
Ðiều lợi ích bao nhiêu
chăng những,
Không việc nào chẳng
khứng ra ân,
Kế là nhiều kiếp oan
thân,
Bà con quyến thuộc kẻ gần
người xa.
Dứt dây nghiệp ái hà
nhiều mối,
Biển tứ sanh()
chìm nổi đưa qua,
Hàm linh hết thảy đều là,
Ðồng thành quả Phật ngự
tòa Pháp vương.
Nay xin dâng tấm lòng
son,
Hư không có hết nguyện
con chẳng cùng.
Hữu vô tình thức nguyền
chung,
Ðồng viên trí Phật đồng
cùng an vui.
--------------------
Trích Phật Tổ Ngũ kinh –
HT. Thích Hoàn Quan soạn dịch
THPG TP HCM 1992
(3)Tán nạn: Tức là tám
chỗ không gặp Phật pháp. Tám chỗ ấy là:
1) Ðịa
ngục 2) Súc sanh
3) Ngạ
quỉ 4) Ðui, điếc. câm, ngọng
5) Thế trí biện
thông 6)Sanh trước hoặc sanh sau Phật
7) Bắc Cu Lô
Châu 8) Vô tưởng thiên
(4) Bốn duyên: Có hai thuyết.
1) Thấy nghe duyên, nghe pháp duyên, hộ pháp
duyên, phát tâm duyên.
Bốn duyên này giúp cho tâm Bồ đề được tăng
trưởng.
2) Aùo mặc, cơm ăn. Ðồ nằm, thuốc thang.
(5) Tứ sanh : Bốn loài sanh : noãn sanh, thai sanh,
thấp sanh và hóa sanh.
74. SÁM HỐI VĂN
(Sám hối nguyện V)
Chúng con trì niệm,
Danh hiệu chân thật,
Ðầy đủ công đức,
Của Phật Di Ðà.
Xin Phật từ bi,
Nhiếp thọ chúng con,
Chứng minh chúng con,
Sám hối phát nguyện:
Bao nhiêu ác nghiệp,
Chúng con đã làm,
Ðều bởi vô thỉ,
Những tham sân si,
Ðộng thân miệng ý,
Mà phát sinh ra.
Ngày nay chúng con,
Xin sám hối cả.
Nguyện cầu chúng con,
Trong lúc gần chết,
Khỏi có tất cả,
Mọi thứ trở ngại,
Trực tiếp nhìn thấy,
Ðức Phật Di Ðà,
Tức khắc vãng sinh,
Thế giới Cực lạc.
Bao nhiêu thiện căn,
Do chúng con làm,
Bao gồm pháp hạnh,
Sám hối hôm nay,
Ðều đem hồi hướng,
Hết thảy chúng sinh,
Nguyện cầu pháp giới,
Hết thảy chúng sinh,
Cùng được vãng sanh,
Thế giới Cực lạc.
-----------------
-Trích Lương Hoàng Sám,
HT Trí Quang dịch – XB, Sài Gòn, 1972
75. SÁM NHƠN LÀNH
(Sám hồi tÂm II)
Nhơn lành nghiệp luyện
trắng trong,
Quả lành cảm ứng bên
thành Lạc bang.
Hóa Phật dẫn lên đài
vàng,
Thánh Hiền nghinh tiếp về
an dưỡng thành.
Vượt ra ba cõi thinh
thinh,
Cao hơn bốn quả vô sinh
cõi trời.
Tiêu tan các nghiệp tình
đời,
Lòng không sáng suốt
thảnh thơi nhẹ nhàng.
Hóa thân vào búp sen
vàng,
Thần thông khí sản chơi
sang cõi mầu!
Trước tòa sen báu cúi
đầu,
A Di Ðà Phật con hầu về
đây.
Quan Âm, Thế Chí vui
thay,
Thắng duyên pháp lữ tỏ
bày khuyên răn.
Ðông đầy các bực Thánh
Tăng,
Thảy đều nhóm hợp đồng
đăng bửu trì.
Hoa sen chín phẩm phương
phi,
Ðều nói bổn hạnh trước
khi tu hành.
Năm mùi hương báu thơm
thanh,
Ba đức sáng rỡ pháp thân
chói lòa.
Xảy liền gió diệu phất
qua,
Rung các báu lạ tiếng ra
pháp mầu.
Nhộn nhàng hoa rưới lưới
châu,
Thấy hào quang tỏa chói
lòa sáng trưng.
Ráng mây bồng đỡ dưới
chân,
Nhẹ nhàng y kích mấy từng
hoa thơm.
Ban mai dưng các Thế Tôn,
Ðặng nghe pháp ấn chơn
ngôn trở về.
Ban chiều cỡi báu dựa kề,
Nghe bài ngọc kệ nhiều bề
tiêu diêu.
Hỡi còn tội cấu bao
nhiêu,
Hơi sen nhuần nhã thảy
đều tiêu tan.
Các phương Phật tử mới
sang,
Quả vị bất thối chứng
hàng vô sanh.
Xẩy lìa cõi khổ phàm
tình,
Rõ ràng quả Phật gần mình
chẳng xa.
Ngao du rừng ngọc ngâm
nga,
Tắm gội nước đức thân ta
đượm nhuần.
Lầu đài trăm báu sáng
trưng,
Hàng cây thất bửu mấy
từng phủ che.
Thảnh thơi trong cõi
trường xuân,
Ðất vàng bằng phẳng như
vừng bàn tay.
Tự nhiên ăn mặc hiện bày,
Thanh thao thiên nhạc
ngày ngày trổi xây.
Các vật thọ dụng hiện
đầy,
Muôn phần khoái lạc khác
rày nhân gian.
Cõi trời thua sút muôn
ngàn,
Hằng sa cõi Phật tiếng
vàng ngợi khen.
Pháp thân sáng rỡ hào
quang,
Bước lên cõi Thánh trải
đường hoa hương.
Kim cang thọ mạng không
lường,
Mở lòng bi nguyện mười
phương đều nhờ.
Vượt ra sanh tử cõi bờ,
Nào hay quả chưùng trong
tòa Pháp vương.
Làu làu chơn tánh thường
quang,
Do lòng niệm Phật duyên
cường đức cao.
Trùng trùng phước thọ
xiết bao,
Tịnh nhơn cảm báo thao
thao nghiệp lành.
Vậy hay Phật nguyện độ
sanh,
Chúng sinh cảm Phật tín
hành nguyện châu.
Ngày nay chứng đặng quả
mầu,
Chánh y rực rỡ chẳng cầu
mà nên.
Liên trì thất bửu bốn
bên,
Hoặc khi thiền tụng bước
lên điện vàng.
Hoặc khi tán bộ kinh
hành,
Nhẹ nhàng gót ngọc mấy
hàng hoa đua.
Thiền duyệt pháp hỉ trân
tu,
Yến diên ngọc thực phỉ
phu tấm lòng.
Thiên y mặc áo trắng
trong,
Từ bi hỉ xả sáng trưng
nhẹ nhàng.
Càng thêm công đức thênh
thang,
Càng thêm bi trí muôn
ngàn vơi vơi.
Thung dung đạo đức mấy
lời,
Càng thêm thánh trí một
trời quang minh.
Bước vào trong cõi vô
sinh,
Quả chứng bất thối toàn
hình kim thân.
Từ nay cõi thánh bước
lần,
Bồ-đề thêm lớn muôn phần
cao xa.
Ðã vào trong pháp vương
gia,
Như lai thọ ký nghe qua
Ðại thừa.
Rày mừng bổ xứ cao thăng,
Mấy lời huyền diệu lòng
hằng lặng trang.
Tam muội chánh định rõ
ràng,
Ðủ trong sáu phép vẹn
toàn thần thông.
Cúng dường các đức Thế
Tôn,
Mười phương qua lại cũng
không ngại gì.
Hóa thân vô số câu chi,
Hằng sa thế giới tổng trì
định tâm.
Một bình pháp thủy tay
cầm,
Ba ngàn thế giới rưới
đồng thanh lương.
Chúng sinh ra khỏi lửa
vườn,
Tự tha lưỡng lợi một
đường tiêu diêu.
Cùng là hạnh nguyện bao
nhiêu?
Trăm ngàn tam muội thảy
đều do tâm.
Ðạo mầu vô thượng thậm
thâm,
Rõ ràng công đức thảy
đồng về ta!
----------------
-Trích Kinh Diễn Nghĩa,
HT Huệ Ðăng, Tổ đình Thiên Thai xb, Saigon, 1967
76. SÁM PHỤNG HÀNH PHẬT SỰ
(Sám phát nguyện 6)
Cúi đầu trước mười phương
chư Phật,
Chúng con nguyền chân
thật kính tin,
Phát lời thệ nguyện độ
sinh,
Y theo giáo pháp luật
kinh dạy bày.
Chúng con chút duyên may
buổi trước,
Nay dự vào ơn phước Phật
gia,
Cúng dường thừa sự Thích
Ca,
Bổn sư Từ phụ đức cha
trọn lành.
Ðã nhiều kiếp hy sinh hóa
đạo,
Ðem phép mầu chỉ giáo
quần sanh,
Dứt niềm nhân nghĩa đua
tranh,
Thẳng đường Bát chánh lên
thành Chân như.
Trên nẻo ấy minh sư dắt
dẫn,
Tránh khỏi vòng lận đận
đắn đo,
Mặc dầu đường lối cam go,
Phụng hành Phật sự phước
to ngại gì.
Miễn trừ sạch sân si
nghiệp chướng,
Xa khỏi điều tứ tướng đắm
mê,
Sen vàng cảnh Phật đẹp
xuê,
Hào quang tỏa sáng đường
về lẹ thay!
Chúng con nguyện từ nay
sám hối,
Ác nghiệp đành thay đổi
duyên may,
Rửa lòng trần cấu đắng
cay,
Mùi hương Phật sự thơm
bay ngạt ngào.
Ðồng cất tiếng vang cao
kính tụng,
Khắp nguyện cho dân chúng
an nhàn,
Phước lành ban rải nhân
gian,
Niệm lành tràng nhảy muôn
ngàn thiện duyên.
Ðồng một nguyện vui miền
phước địa,
Ðồng một lòng về phía
chánh nhơn,
Ðạo tràng dựng lập không
sờn,
Tô bồi Phật sự lòng đơn
nhiệt thành.
Tiếng đây đó nào sanh
thối khiếp,
Chỉ một bề thâu nhiếp
vọng tâm,
Quay về cảnh giới thậm
thâm,
Rõ đường chánh giác u
trầm thoát ly.
Lòng thành Phật chứng tri
hộ niệm,
Chúng con nguyện thúc
liễm cùng nhau,
Nẻo lành nhẹ bước mau
mau,
Cõi lành về đến trước sau
một đoàn.
Kìa thiên thượng nhân
gian qua lại,
Giống Bồ-đề gieo rải sum
suê,
Liên đài Phật rước con
về,
Chúng sinh hết nghiệp, đề
huề vui theo.
-----------------
-Trích Tam Bảo Tôn Kinh,
Thích Ca Tự xb, Sài Gòn, 1974
77. SÁM KHẤN NGUYỆN
(Sám phát nguyện VII)
Kính lạy mười phương
Phật,
Kính lạy mười phương
Pháp,
Kính lạy mười phương
Tăng,
Xin chứng giám lòng con,
Với tất cả tâm thành,
Dâng lên lời khấn nguyện.
Xin cho con mãi mãi,
Lòng tôn kính vô biên,
Hơn núi biển mênh mông,
Dâng lên mười phương
Phật.
Xin cho con mãi mãi,
Lòng thương yêu không
cùng,
Trải thế giới tam thiên,
Ðến chúng sanh vô tận.
Xin cho khắp muôn loài,
Sống yên lành bên nhau,
Không ganh ghét oán thù,
Không chiến tranh giết
chóc.
Xin cho kẻ bất thiện,
Biết tin có
luân hồi,
Có nghiệp
báo trả vay,
Ðể hồi đầu
hướng thiện.
Xin kẻ mù
được sáng,
Kẻ điếc lại
được nghe,
Kẻ nghèo
được ấm no,
Kẻ ốm đau
bình phục.
Xin cho loài cầm thú,
Thoát được nghiệp ngu si,
Tái sinh vào cõi người,
Biết tu theo
Phật pháp.
Các vong
linh vất vưởng,
Trong cõi
giới u huyền,
Thoát nghiệp
đói triền miên,
Quy y và
siêu thoát.
Xin cho nơi
đia ngục,
Chúng sinh
đang đọa đài,
Khởi được
tâm từ bi,
Ðể xa lìa
cảnh khổ.
Cúi xin mười
phương Phật,
Chư Bồ tát
Thánh hiền,
Ðem chánh
pháp thiêng liêng,
Sáng soi
nghìn theá giới.
Cho chúng con mãi mãi,
Dù sinh về nơi đâu,
Ðều gặp pháp nhiệm mầu,
Ðể nương theo tu tập.
Cho con biết khiêm hạ,
Biết tôn trọng mọi người,
Tự thấy mình nhỏ thôi,
Việc tu còn
kém cỏi.
Cho tay con rộng mở,
Biết san sẻ cúng dường,
Biết giúp đỡ yêu thương,
Ðến những người khốn khó.
Xin cho con bình thản,
Trước nghịch cảnh cuộc
đời,
Dù bị mắng bằng lời,
Hay bằng điều mưu hại.
Xin tâm con sung sướng,
Khi thấy người thành
công,
Hoặc gây tạo phước lành,
Như chính con làm được.
Cho con biết im lặng,
Không nói lỗi của người,
Chỉ lặng lẽ dùng lời,
Cầu cho người hết lỗi.
Xin vòng dây tham ái,
Rời khỏi cuộc đời con,
Ðể cho trái tim con,
Biết yêu thương tất cả.
Cúi laïy mười phương
Phật,
Ðau khổ đã nhiều rồi,
Vô lượng kiếp luân hồi,
Ðắng cay và mỏi mệt.
Nay con dâng lời nguyện,
Giải thoát, quyết tìm về,
Giác ngộ, quyết lìa mê,
Ðộ sinh dền ơn Phật.
Xin cho con giữ vững,
Ðược chí nguyện tu hành,
Không một phút buông lơi,
Không một giờ xao lãng.
Xin vẹn toàn giới hạnh,
Với thiền định lắng sâu,
Với trí tuệ nhiệm mầu,
Xóa tan dần chấp ngã.
Xin cho con tỉnh táo,
Không kiêu mạn tự hào,
Dù tu tiến
đến đâu,
Vẫn tự tìm
chỗ dở.
Nguyện cho
con đi mãi,
Không dừng
lại giữa đường,
Ðến tuyệt
đối vô biên,
Tâm đồng tâm
chư Phật.
Rồi trong muôn vạn nẻo,
Cửa sinh tử luân hồi,
Com mãi mãi không thôi,
Ðộ sinh không ngừng nghỉ.
Cúi lạy mười phương Phật,
Xin chứng giám lòng con,
Lời khấn nguyện sắt son,
Dâng lên ngôi Tam bảo.
Nam mô Bổn sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
---------------------
- Nguyên tựa là “Lời Khấn
Nguyện”. Chưa rõ tác giả, sưu tập từ bản in phổ biến nội bộ, tìm thấy ở
Quan Âm Các- chùa Xá Lợi, Sài Gòn, 2000
78. SÁM HỒI TÂM TAM BẢO
(Sám hồi tâm 3)
Chữ Tâm là chân như Tam
bảo,
Phật, Pháp, Tăng chỉ tại
lòng ta,
Phật là giác tánh soi xa,
Giữ đường sáng suốt vượt
qua cõi trần.
Nghĩa chữ Pháp: giữ phần
chánh kiến,
Dứt kiêu căng bỏ chuyện
thị phi,
Tăng là thủ tịnh tinh vi,
Sáu căn trong sạch, dung
nghi thuận hòa.
Vận Tam bảo ấy ra đối
trị,
Dứt sáu trần chiùnh thị
chân tu,
Còn như bỉnh tức công
phu,
Luyện tinh, thần, khí:
rùa mù cây trôi !
Tánh Tam bảo phân rồi chỉ
rõ,
Người tu hành lấy đó thềm
thang,
Còn câu Tam bảo thế gian,
Chỉ ra thể dụng đôi đàng
phân minh.
Phật bảo là tượng hình ra
đó,
Ðể phụng thờ lòng có chủ
trương,
Pháp là ba tạng chiêu
chương,
Những lời Phật Tổ truyền
phương tu hành.
Tăng bảo là lòng thành
xuất tục,
Chán mùi đời cạo tóc đi
tu,
Cửa thiền tinh tấn công
phu,
Chí tâm vượt đến Vô dư
Niết bàn.
Nghĩa Tam bảo thế gian là
đó,
Nhờ coù thầy đường ngõ
mới thông,
Thầy như lạch nước giòng
sông,
Nếu không luồng lạch,
nước thông bao giờ?
Mắt lờ mờ, tay rờ chân
bước,
Thế vậy mà xông lướt sao
xong!
Qui y trước sửa tấm lòng,
Có thầy chỉ giáo ra vòng
tử sinh.
Có thể dụng mới tròn đạo
lý,
Thấy trăng nhờ người chỉ
cho ta,
Chữ Qui: phân bạch ấy là,
Trở nên hắc ám về nhà
quang minh.
Nghĩa chữ Y nên hình mặc
áo,
Ðấng làm người thánh giáo
phải tuân,
Trau dồi đạo đức sáng
trưng,
Nước không xao động ló
vừng trăng thanh.
Trong ngũ giới sát sanh
thứ nhất:
Người tu hành thể đức
hiếu sanh,
Vật, người một khí hóa
thành,
Chẳng nên sát hại, ấy
danh hành từ.
Giới thứ nhì: dạy trừ
trộm cắp,
Vật của người chẳng đặng
tham lam,
Công tư của cải bạc vàng,
Chẳng nên mong ý lấy làm
của ta.
Giới thứ ba: cấm tà sắc
dục,
Chớ tư tình lén lút ngoại
duyên,
Trăng hoa lòng chớ đảo
điên,
Tam cương cũng phải răn
khuyên từ từ.
Giới thứ tư: cấm trừ vọng
ngữ,
Chớ buông lời hung dữ
điêu ngoa,
Ngược xuôi láo xược lời
ma,
Nói qua nói lại cũng là
hung hăng.
Giới thứ năm: cấm ngăn
uống rượu,
Việc lỗi lầm bởi tửu mà
ra.
Say sưa mê muội lòng ta,
Dữ hơn thuốc độc phá nhà
hư linh.
Lấy năm giới sửa mình là
đạo,
Dụng tam quy kiến tạo
pháp thân,
Từ bi hỉ xả là nhân,
Tinh tấn là quả, giải
phân rõ ràng.
Nghĩa chữ đạo như đường
đi đó,
Song đươøng đi biết có
trước sau,
Dẫu mà ngàn dặm đâu đâu,
Mối đường bắt đặng ngõ
hầu chẳng xa.
Chớ bôn ba nhận ma tác
Phật,
Uổng công trình chôn lấp
tánh linh.
Than ôi! Biển khổ mông
mênh,
Người mù cầm lái đưa mình
sao xuôi!
Ðứa mù dắt lũ đui theo
dõi,
Sa lửa hầm
còn hỏi chi chi!
Phải tìm đến
bậc trí tri,
Ðạo mầu mới
tỏ đường đi mới tường.
Bát Chánh
Ðạo mối đường đã trổ,
Tứ Diệu Ðề
là chỗ nghỉ ngơi,
Ðèn lòng soi
sáng khắp nơi,
Thinh thinh
trí huệ một trời quang minh.
Ðọc tâm kinh
cho tinh cho suốt,
Dẫu mà đường
chưa thuộc cũng thông,
Vậy hay sắc
tức thị không,
Chẳng nên
chấp sắc mà không cũng đừng.
Ðạo vô cùng
chấp trung là đạo,
Lý nhiệm mầu
uẩn áo rất sâu,
Ðạo mầu khắp
hết đâu đâu,
Cứ trong sắc
tướng tìm cầu mới ra.
Tuy sắc
tướng nhưng mà vô tướng,
Vô tướng từ
hữu tướng mà ra,
Hữu vô chung
ở một nhà,
Chẳng nên
chấp hữu cùng là chấp vô.
Trong hữu
tướng lý vô ẩn đó,
Vô tướng mà
tướng có ẩn trong,
Hữu vô bước
khỏi hai vòng,
Mới biết đạo
lý không trong không ngoài.
Thỏ vểnh tai
gọi hai sừng đó,
Chấp trước
mà nói có nói không.
Thử coi ba
thú qua sông,
Ba xe ngoài
ngõ thiển thâm lẽ nào.
Ngoài vườn
lửa ào áo cháy dậy,
Bầy trẻ thơ
chơi nhảy trong nhà,
Khuyên răn
hắn cũng chẳng ra,
Mở lời
phương tiện thuyết ba xe ngoài.
Ðại biện tài
trừ hai còn một,
Tột bực rồi
thời một cũng không.
Cho hay sự
lý viên dung,
Cứ theo thể
dụng thích trung thời nhằm.
Nước dợn
lắng bóng trăng nhấp nháng,
Trăng lu lờ
vì áng đám mây.
Làm cho nước
đứng mây tan,
Tự nhiên
sáng suốt thiền quang nhiệm mầu.
Ðạo không
cầu do đâu mà được,
Coi giấy xưa
chấp trước hữu vô.
Làng màng
dưới gốc cây khô,
Mà trông có
trái gẫm âu nực cười.
Trong mắt
người có ngươi mới tỏ,
Sách không
thấy nói ngỏ làm sao?
Xưa nay giáo
pháp truyền trao,
Không thầy
há dễ mặt nào nên thân!
Khổng thánh
nhân ân cần Lão Tử,
Huỳnh đế còn
sư sự Quảng Thành,
Thiện Tài
ngũ thập tam tham,
Thiếu Lâm
đoạn tý Thần Quang lưu truyền.
Coi lịch sử
tiên Hiền cổ Thánh,
Biết bao
nhiêu khổ hạnh tham cầu,
Ðạo tuy rộng
lớn cao sâu,
Nhỏ hơn mảy
bụi dễ hầu biết sao?
Muốn cho
khỏi ra vào tam giới,
Phải nhớ câu
“tự tại bất thành”,
Nhân tay mới
thấy trăng thanh,
Chớ chấp văn
tự tu hành uổng công.
Nên cổ đức
có ông Tông Bổn,
Vịnh sơn cư
có bốn câu rằng:
“Sơn cư
phong cảnh tự thiên nhiên,
Ðại đạo chi
chiêu tại mục tiền.
Bất thức tổ
tông thâm mật chỉ,
Ðồ lao niệm
Phật dữ tham thiền”.
Ấy là cặn kẽ
bảo khuyên,
Phải cầu
giáo ngoại biệt truyền diệu tâm,
Chớ chấp
trước thinh âm sắc tướng,
Cảnh ngoại
cầu vọng tưởng đảo điên.
Kính lời
khuyên khách hữu duyên
Biết nghe
chí đạo chớ phiền lời ngay.
------------------
-Trích Tam
Bảo Tôn Kinh, Thích Ca Tự xb, Sàigòn, 1974
- Kinh Nhựt
Tụng, chùa Ðại Giác ấn hành, Sàigòn, 1974
- Bài do Tổ
Huệ Ðăng chùa Thiên Thai soạn – nối tiếp trong bài sám Thảo Lư.
79. VĂN SÁM HỐI
(Sám hối nguyện 6)
Cúi đầu lạy trước Bửu
đài,
Con xin sám hối từ rày ăn
năn,
Xưa nay lỡ phạm điều răn,
Do thân, khẩu, ý bị màn
vô minh,
Gây ra nghiệp dữ cho
mình,
Sát sanh hại vật chẳng
tình xót thương,
Giết ăn hoặc bán không
lường,
Vì lòng tham lợi quên
đường thiện nhân;
Oan oan tương báo cõi
trần,
Trầm luân biển tối chịu
phần khổ lao!
Xét ra nhân vật khác nào,
Hại nhơn nhơn hại mắc vào
trả vay.
Lại thêm trộm sản cướp
tài,
Công người cực nhọc hằng
ngày làm ra,
Lòng tham tính bảy lo ba,
Mưu kia kế nọ lấy mà nuôi
thân;
Hoặc nuôi quyến thuộc xa
gần,
Làm cho người phải lắm
lần than van.
Tà dâm tội nặng muôn
ngàn,
Liệu toan chươùc sách làm
đàng chẳng ngay,
Vợ con người phải lầm
tay,
Mất trinh thất tiết phải
tai tiếng đời,
Xấu hổ cha mẹ nhiều lời,
Xa lìa chồng vợ rã rời
lứa đôi.
Vọng ngôn giả dối ngoài
môi,
Chuyện không nói có, có
rồi nói không,
Dụng lời đâm thọc hai
lòng,
Phân chia quyến thuộc, vợ
chồng anh em,
Mắng nhiếc chưởi rủa pha
gièm,
Xóm làng, cô, bác, chị em
không chừa,
Nói lời vô ích dây dưa,
Phí giờ quí báu hết trưa
đến chiều.
Uống rượu sanh hại rất
nhiều,
Ham ăn meâ ngủ nói liều
chẳng kiêng,
Say sưa ngã gió đi xiên,
Nằm bờ té bụi như điên
khác nào !
Loạn tâm cuồng trí mòn
hao,
Nhiều người vì rượu biết
bao hư nhà.
Xan tham những của người
ta,
Mong sang đoạt được lòng
tà mới ưng;
Nết sân nóng giận không
chừng,
Toan làm hại chúng bâng
khuâng trong lòng;
Si mê tin
chạ chẳng phòng,
Nghe đâu
theo đó không thông chánh tà;
Chẳng tin
Phật pháp cao xa,
Thậm thâm vi
diệu bao la trên đời;
Nếu con cố ý
phạm lời,
Hoặc là vô ý
lỗi thời điều răn;
Hoặc xúi kẻ
khác bạo tàn,
Hoặc nghe
thấy ác lòng hằng vui theo;
Phạm nhằm
ngũ giới thập điều,
Vì chưng
thân, khẩu, ý, nhiều lầm sai;
Lỗi từ kiếp
trước lâu dài,
Ðến kiếp
hiện tại miệt mài lắm phen;
Hoặc vì tà
kiến đã quen,
Khinh khi
Tam bảo lòng bèn chẳng tin;
Cho rằng
người chết hết sinh,
Phạm vào
đoạn kiến tội tình nặng thay;
Hoặc phạm
thường kiến tội dày,
Sống sao đến
thác sanh lai như thường;
Tội nhiều kể
cũng không lường,
Vì con ngu
dốt không tường phân minh;
Dễ duôi Tam
bảo hại mình,
Bởi chưng
không thấu vô minh nghiệp tà.
Cho nên chơn
tánh mới là,
Tối tăm
chẳng rõ sai ngoa thuở đầu,
Hóa nên khờ
dại đã lâu,
Ðể cho hoàn
cảnh mặc dầu kéo xoay;
Khác nào bèo
bị gió quây,
Linh đinh
giữa biển dật dờ bờ sông,
Xét con tội
nặng chập chồng,
Kiếp xưa cho
đến hiện trong kiếp này;
Con xin sám
hối từ đây,
Nguyện cầu
Tam bảo đức dày độ cho,
Tội xưa
chẳng hạn nhỏ to,
Con nguyền
dứt cả chẳng cho thêm vào;
Tâm lành dốc
chí nâng cao,
Cải tà qui
chánh chú vào Phật ngôn;
Cho con khỏi
chốn mê hồn,
Ðến nơi cõi
Phật Thế Tôn gần kề;
Thoát vòng
khổ não tối mê,
Hưởng miền
Cực lạc mọi bề thảnh thơi.
Ngày nay dứt
bỏ việc đời,
Căn lành
gieo giống chẳng rời công phu,
Mặc ai danh
lợi bôn xu,
Con nguyền
giữ hạnh người tu thoát trần;
Trước là độ
lấy bản thân,
Sau giúp
quyến thuộc được phần tiêu diêu.
Sám hối tội
lỗi đủ điều,
Duyên lành
đâu cũng ít nhiều kết xây,
Con xin hồi
hướng quả này,
Thấu đến
quyến thuộc nơi đây cho tường;
Cũng là thân
thích tha phương,
Hoặc đã quá
vãng hoặc thường hiện nay;
Chúng sinh
ba giới bốn loài,
Vô tưởng hữu
tưởng chẳng nài đâu đâu,
Nghe lời
thành thật thỉnh cầu,
Xin mau tựu
hội lãnh thâu quả này.
Bằng ai xa
cách chưa hay,
Cầu xin
Thiên chúng mách ngay với cùng;
Thảy điều
thọ lãnh hưởng chung,
Dứt rồi tội
lỗi thoát vòng nạn tai.
Nguyện nhiều
Tăng chúng đức tài,
Ðạt thành
thánh quả hoằng khai đạo lành;
Nguyện cho
Phật pháp thạnh hành,
Năm ngàn năm
chẳn, phước lành thế gian.
-----------------
- Trích
Nhật Hành của Người Tại Gia Tu Phật, BIKKHU VANSARAKKHITA (Tỷ-kheo Hộ
Tông), THPG Tp. HCM xb, 1991
80. VĂN PHÁT
NGUYỆN THỌ TRÌ NGŨ GIỚI
(Sám phát nguyện 7)
Nay đệ tử thành tâm lập
nguyện,
Giữ năm điều chánh thiện
tu thân.
1
Một là tuân giới Sát tồn
nhân,
Không giết hại vật nhơn
sanh mạng,
Noi gương Phật từ bi vô
hạn,
Thương mọi loài, nguyện
quảng độ sanh.
Lòng trống không ác độc
trừ thanh,
Niệm niệm giữ háo sanh
chớ lãng,
Xét loài vật với người
đồng mạng,
Vốn sanh nơi bình đẳng
nguyên căn.
Muôn vật đều tự có đạo
hằng,
Bẩm linh tánh siêu thăng
tiến hóa,
Luật nhơn quả chỉ rành
phước họa,
Cuộc oan gia vay trả định
phân.
Nguyện chẳng vì khẩu phúc
lợi thân,
Mà tạo nghiệp tổn nhơn
hại vật,
Thân, khẩu, ý tịnh thanh
như Phật,
Rải lòng thương tế vật
lợi nhơn.
Baèng sát sanh đánh đập
hành thân,
Nghe, thấy, giết, lòng
mừng đồng tội,
Ý nghiệp báo, mạng đền
không chối,
Lộn kiếp sanh sừng đội
lông mang.
2
Hai là tuân Thâu đạo điều
răn,
Tâm giữ Nghĩa công bằng
đức cả,
Chừa trộm cắp của người
thiên hạ,
Thấy vật xinh chẳng dạ
tham gian.
Của mười phương Tam bảo
đạo tràng,
Nguyền chẳng dám đoạt
sang giấu cất,
Dốc tu niệm gìn lòng ngay
thật,
Một mảy lông sai thất
không làm.
Chữ thanh liêm công chánh
thươøng tham,
Bỏ lòng dục, mới kham học
đạo,
Noi Tiên Phật thanh bần
gương báu,
Tránh của tiền loạn náo
tâm đơn.
Ý khẩu thân thanh tịnh
qui chơn,
Trừ vọng thức, lục trần
chẳng nhiễm,
Cầu chư Phật Bồ-đề chỉ
điểm,
Nguyện thân tâm thúc liễm
tu hành.
Cuộc sang giàu dạ chẳng
mến tranh,
Diệt phàm tục, siêu sanh
Tịnh độ,
Lòng tham dục ấy là gốc
khổ,
Nay quyết chừa, lánh chỗ
trầm luân.
3
Ba là tuân Dâm giới ân
cần,
Tâm giữ Lễ, dục căn giải
tuyệt,
Nguyện tu niệm trau mình
tinh khiết,
Laùnh tà dâm hao kiệt khí
tinh.
Tổn mạng thân bịnh hoạn
phát sanh,
Trí huệ phải tán khuynh
suy bại,
Trong Tăng chúng nữ nam
hạnh giới,
Giữ biệt phân, chừa cải
dâm tà.
Việc thấy nghe phi lễ
lánh xa,
Ðiều dâm loạn bỏ qua đừng
nói,
Thân trong sạch, tránh
đường tội lỗi,
Dưỡng tinh thần vun nối
huệ căn.
Ý sạch trong, tánh dục
chế dằn,
Tu phạm hạnh, thường tăng
Phật huệ,
Niệm niệm gắng tồn chơn
giác thể,
Noi Phật Tiên nghĩa lễ
chẳng lơi.
Nay nguyện gìn thanh tịnh
trọn đời,
Xuất tam giới, thoát nơi
khổ hải,
Cầu chư Phật dâm tà hóa
giải,
Ðặng vào nơi tịnh giới tu
thân.
4
Bốn giữ điều Vọng ngữ
giới chơn,
Gìn Tín nguyện, tâm đơn
thành thật,
Chừa nói dối làm điều sai
thất,
Lường gạt người, mê hoặc
thiên lương.
Lời xảo gian, trở tráo vô
thường,
Gây nghiệp ác, họa vương
khốn khổ,
Trong Tăng lữ bạn bè lễ
độ,
Tin cậy nhau tại chỗ chơn
thành.
Việc nói sai, đời để nhơ
danh,
Chúng khi thị, chịu đành
nhục nhã,
Người thất tín bày mưu
giả trá,
Heát ai tin, thiên hạ
tránh xa.
Nguyện tu hành, chơn chất
thật thà,
Lòng chẳng dám sai ngoa
dối giả,
Giữ tín đức trọn thành
tấc dạ,
Học đạo chơn, kháng phá
hồng trần.
Vun Bồ-đề chánh giác Pháp
thân,
Theo Tiên Phật, hưởng
phần Cực lạc,
Bằng chuốc việc ngụy tà
gian ác,
Sanh não phiền, đọa lạc
âm ty.
5
Năm nguyện trừ Nha phiến,
tửu đi,
Tồn Trí tánh quang huy
hành đạo,
Hút nha phiến, thân gầy
tâm táo,
Thịt rượu vào, tánh bạo
mê si.
Sanh gian tham hung ác
lỗi nghì,
Gây tai họa thị phi, oan
nghiệt,
Trong chất rượu chứa men
độc nhiệt,
Nha phiến đầy suy liệt vi
trùng.
Hai món này nhiễm vươùng
thân trung,
Hư tánh mạng, tiêu công
đức nghiệp,
Người suy nhược, tinh
thần khủng khiếp,
Loạn trí tâm, khó tiếp
đạo căn.
Nay tu hành nương Phật
Pháp Tăng,
Các độc ấy quyết hằng dứt
bỏ,
Tâm Bát nhã thường gìn
kiên cố,
Thân Bồ-đề bồi bổ hôm
mai.
Chỗ vui chơi nguyện chẳng
vãng lai,
Thân, khẩu, ý, mắt, tai,
mũi sạch,
Noi Phật Thánh, trí tu
thanh bạch,
Bằng loạn mê, khổ ách
đành mang.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật .
---------------------
-Trích Thiền Môn Nhựt
Tụng, HT. Minh Trực, Phật Bửu Tư xb, Sàigòn, 1992
81. VĂN SÁM HỐI
(Sám hối nguyện 7)
Chúng con xin dốc lòng
sám hối,
Ðể giải bày tội lỗi xưa
nay,
Xét con tạo ác đã dày,
Vì ngu, tham, giận, mà
gây thói tà.
Lòng, miệng, mình, sinh
ra mọi tội,
Suy cho cùng đều bởi sáu
căn:
Mắt ưa sắc, lưỡi ham ăn,
Tai say mê tiếng, mùi
thuần mến hương.
Thân thích xúc, lòng
vương mọi pháp,
Hợp cùng nhau tạo ác vô
cùng,
Xấu xa chất chứa đầy
lòng,
Hại người hại vật thật
không thiếu gì.
Lòng: tham, giận, ngu si
điên đảo,
Miệng: điêu ngoa trơû
tráo trăm chiều,
Bỗng dưng thường đặt lên
điều,
Ăn không nói có dệt thêu
hại người.
Hết nguyền rủa lại lời
độc ác,
Chẳng khác gì Càn Thát ma
vương,
Thân còn trộm cắp đủ
đường,
Tham tàn giết hại chẳng
thương muôn loài.
Thói nguyệt hoa đêm ngày
say đắm,
Làm bao điều rối loạn
nhân luân,
Nay con thẹn hổ muôn
phần,
Vì mê nên đã trầm luân
bao đời.
Thân chẳng khác bèo trôi
sóng vỗ,
Chịu đắm chìm bể khổ sông
mê,
Bấy lâu chưa biết đường
về,
Cam lòng theo nghiệp dắt
đi đủ đường.
Chư Phật động lòng thương
con dại,
Muốn cứu con thoát khỏi
luân hồi,
Gắng công cầu đạo không
ngơi,
Trải bao cay đắng chẳng
lui chuyển lòng.
Tổn tính mệnh cũng không
hề tiếc,
Nguyện đời đời độ hết
chúng sinh,
Con nay dốc một lòng
thành,
Cúi xin giải tỏ tội tình
của con.
Bằng tơ tóc chẳng còn dám
giấu,
Sám hối cầu Tam bảo chứng
minh,
Trước cầu sạch tội của
mình,
Sau xin cho cả chúng sinh
mọi loài.
Bao tội lỗi đồng thời
giải thoát,
Dốc lòng thành xin Phật
rộng thương,
Từ nay chẳng dám tưởng
màng,
Gây nên tội ác để mang
sau này.
Việc phúc thiện đêm ngày
xin gắng,
Ðạo Boà-đề nguyện chứng
không lui,
Ðược rồi xin độ muôn
loài,
Ðều cùng thành Phật đời
đời yên vui.
Xin cho con được như lời.
*
Sám hối phát nguyện đã
rồi
Con xin lễ Phật cùng mười
phương Tăng.
---------------
-Trích Nghi Thức Tụng
Niệm bằng Chữ Việt. Sa Môn Trí Hải soạn, chùa Bồ Ðề ấn hành, Sàigòn, 1971
82. VĂN CẢNH SÁCH BUỔI SÁNG
(Sách tấn tu tập I)
Xin đại chúng lặng nghe
cho kỹ,
Phật dạy rằng rất quý là
thân,
Vì bao đời tích thiện
nhân,
Nên nay mới lại được sinh
làm người.
Phật pháp chính là nơi
khó gặp,
Thầy bạn hiền cũng rất
hiếm hoi,
Nay ta may gặp đủ rồi,
Không mau tu tỉnh đợi
thời nào ư?
Vậy nên kíp bài trừ tính
xấu,
Bao điều hay khuyên bảo
lẫn nhau,
Phải nên suy trước nghĩ
sau,
Chớ theo cảnh dối tìm vào
bến mê.
Ðể thân lại quay về bể
khổ,
Kiếp bọt bèo sóng vỗ tả
tơi,
Ðắm chìm chưa biết bao
đời,
Vào sinh, ra tử, đứng
ngồi lao đao.
Lúc đó muốn tu nào dễ
được,
Ðường đã nhầm càng bước
càng xa,
Chi bằng ta hãy vì ta,
Bây giờ tu học thật là dễ
thay.
Học ngay pháp xưa nay
Phật học,
Việc Phật làm cũng dốc
lòng theo,
Chí thaønh làm được bao
nhiêu,
Quả sau kết bởi nhân gieo
tự rày.
Việc phúc thiện đêm ngày
nên gắng,
Ðiều hại người, chớ tưởng
màng chi,
Thẳng dong đường chính
bước đi,
Ngàn kia xa cũng có khi
tới gần.
Bấy giờ được pháp thân tự
tại,
Cả hai đường phúc tuệ vẹn
hai,
Lại ra độ khắp muôn loài,
Theo như chư Phật đời đời
yên vui.
Dốc lòng niệm đức Như
lai.
-----------------
-Trích Nghi Thức Tụng
Niệm bằng chữ Việt, Sa Môn Trí Hải soạn, chùa Bồ Ðề ấn hành, Sài gòn, 1971
83. VĂN CẢNH SÁCH BUỔI TỐI
(Sách tấn tu tập II)
Xin đại chúng cùng nghe
cho rõ,
Phật dạy rằng từ cổ tới
nay,
Cõi đời thay đổi đổi
thay,
Biến thiên từng phút từng
giây chẳng ngừng.
Ngẫm ngay cảnh tưng bừng
trước mắt,
Ngoảnh cổ đi đã mất hết
rồi,
Khác nào như đám mây
trôi,
Thiên hình vạn trạng hợp
rồi lại tan.
Muôn loài ở thế gian là
khổ,
Sinh, ốm, già, chết, đủ
đắng cay,
Ái ân ly biệt thảm thay,
Cầu chi chẳng được lòng
này xót xa.
Ở với kẻ vẫn là thù oán,
Chịu những điều chẳng
muốn xưa nay,
Khổ đau càng chất càng
đầy,
Ai người trong cảnh mới
hay nỗi niềm.
Một thân chịu muôn nghìn
đau khổ,
Kết cục rồi còn có thấy
chi,
Họa may đám cỏ xanh rì,
Gọi là chút đỉnh làm ghi
ít ngày.
Thế mới biết thân này là
giả,
Có chi mà tranh ngã,
tranh nhân,
Chẳng qua cùng ở cõi
trần,
Cõi đời ô uế dễ thân sạch
nào.
Suy cho kỹ gót đầu sẽ
thấy,
Cõi đời này tin cậy được
không,
Vậy còn chi nữa mà mong,
Kíp nên niệm Phật để hòng
mai sau.
Sang Cực lạc còn đâu hơn
được,
Ðấy mới là cõi nước yên
vui,
Chúng sinh sung sướng đời
đời,
Muốn sao được vậy tức
thời có ngay.
Ðức Di Ðà hiện nay là
chủ,
Vẫn rộng lòng cứu độ
chúng sinh,
Hễ ai có chút duyên lành,
“Tin” theo “Làm” đúng
“Nguyện” mình sẽ nên.
Trong chín phẩm đài sen
khi tới,
Bạn bè cùng toàn với
thiện nhân,
Ðều cùng chứng được chân
thân,
Tiêu dao tự tại muôn phần
yên vui.
Ngôi bảo tọa chẳng lui
chẳng chuyển,
Cảnh trang nghiêm chẳng
biến chẳng rời,
Sống luôn kiếp kiếp đời
đời,
An nhàn sung sướng thảnh
thơi tháng ngày.
Vết ô uế mảy may chẳng
có,
Tiếng ưu sầu đau khổ đều
không,
Sạch sanh như thể gương
trong,
Cảnh vui khôn dễ tả cùng
được sao.
Khắp mười phương Phật đều
khen ngợi,
Khuyên chúng sinh nguyện
tới cho mau,
Tới nơi như ý sở cầu,
Muốn sao được vậy còn đâu
hơn mà.
Vậy ai đã goïi là người
biết,
Nên dốc lòng chí thiết
cầu sang,
Sang rồi lại mở lòng
thương,
Lại ra độ khắp mười
phương muôn loài.
Ðể cùng được về nơi Cực
lạc,
Hưởng đời đời giải thoát
tiêu dao,
Dốc lòng niệm Phật cùng
nhau.
---------------
-Trích Nghi Thức Tụng
Niệm bằng Chữ Việt, Sa Môn Trí Hải soạn, chùa Bồ Ðề ấn hành, Sài Gòn,
1971
--- o0o ---
Mục Lục Tập II
Phần I
|
Phần II
|
Phần III
|
Phần IV |
Phần V
--- o0o ---
Mục Lục tuyển tập
TẬP I
|
TẬP II
|
TẬP III
|
TẬP IV
|
TẬP V
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 4-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục