Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
(Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang
dịch giải
---o0o---
Phẩm 12:
Thiên Vương Hộ Quốc
Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn
nghe bốn vị thiên vương cung kính hiến cúng kinh Ánh sáng hoàng kim và hộ
trì cho người thọ trì kinh ấy, thì tán dương rằng lành thay, bốn thiên
vương, các người đã ở nơi vô số chư vị Như lai quá khứ cung kính hiến
cúng tôn trọng tán dương, gieo trồng thiện căn, làm theo chánh pháp, nói
theo chánh pháp, đem chánh pháp phục vụ thế giới. Đối với chúng sinh,
các người trường kỳ nghĩ cách lợi ích, khởi tâm đại bi, nguyện đem
yên vui lại cho họ. Chính vì lý do này mà làm các người hiện được hưởng
thụ quả báo thù thắng. Nếu có quốc vương nào cung kính hiến cúng kinh
Ánh sáng hoàng kim, thì các người phải siêng năng hộ trì cho [ông và quốc
dân của ông] được yên ổn. Bốn thiên vương các người, và vô số dược
xoa tùy thuộc, hộ trì kinh này, thì thế là hộ trì chánh pháp của chư vị
Như lai quá khứ hiện tại vị lai, nên các người, với chư thiên và dược
xoa, chiến đấu với tô la thì thường đắc thắng. Các người hộ trì
kinh này thì do thần lực của kinh này mà loại trừ được mọi sự khổ
não, giặc thù, đói khát, tật dịch. Do vậy, nếu thấy bốn chúng có ai
thọ trì kinh vua này thì các người cũng nên siêng năng chung sức hộ trì,
loại trừ suy tổn và đem lại yên vui cho họ.
Bốn vị thiên vương, lúc ấy, từ
chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, gối bên phải quì
xuống chấm đất, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong
thì vị lai, nơi đất nước, thành thị, làng xóm, núi rừng, đồng nội,
chỗ nào và lúc nào bản kinh vua Ánh sáng hoàng kim này lưu hành đến, thì
quốc vương chỗ ấy và lúc ấy nên hết lòng lắng nghe, tán dương, hiến
cúng, lại cung phụng cho những người trong bốn chúng thọ trì kinh này,
thâm tâm hộ trì cho họ tách rời suy não. Vì lý do này, chúng con hộ trì
cho quốc vương ấy, và cho quốc dân của ông, ai cũng yên ổn, rời xa lo
buồn, thọ lượng tăng thêm, uy đức toàn hảo. Bạch đức Thế tôn, nếu
quốc vương ấy thấy những người trong bốn chúng thọ trì kinh này mà
cung kính hộ vệ như cha như mẹ, cung cấp những thứ nhu cầu, thì bốn
thiên vương chúng con thường hộ vệ cho, làm cho ai cũng tôn kính. Chúng
con và vô số các thần dược xoa, kinh vua này ở đâu cũng ẩn mình hộ vệ,
không để bị cản trở. Chúng con cũng hộ vệ cho những thính giả, và quốc
vương lắng nghe kinh này, loại trừ suy tổn và đem lại yên ổn cho họ,
giặc thù từ xứ khác cũng được làm cho thoái tán. Thế nên nếu có quốc
vương nào khi lắng nghe kinh này mà lân bang thù địch, động binh xâm lăng
phá hoại thì, bạch đức Thế tôn, do thần lực của kinh này mà chúng con
sẽ cùng vô số dược xoa tùy thuộc, ai cũng ẩn mình hỗ trợ, làm cho
lân bang thù địch kia phải tự đầu hàng, không dám bước đến cương giới
của quốc gia ấy, có đâu dám sử dụng vũ khí mà sát phạt (55) .
Đức Thế tôn dạy bốn vị thiên
vương rằng tốt lắm, các người có thể hộ vệ như vậy đối với kinh
này. Vô số kiếp quá khứ, Như lai đã tu đủ loại khổ hạnh, được vô
thượng bồ đề, chứng nhất thế chủng trí, nên ngày nay mới tuyên thuyết
kinh này. Nếu có quốc vương nào thọ trì kinh này, cung kính hiến cúng,
thì [uy lực kinh này] sẽ làm cho quốc vương ấy hết suy tổn, được yên
ổn, lại làm cho tất cả đất nước của quốc vương ấy đến nỗi giặc
thù cũng phải thoái tán. Uy lực kinh này cũng làm cho tất cả quốc vương
trong đại lục Thiệm bộ không có suy tổn, chinh chiến. Mà, các người nên
biết, đại lục Thiệm bộ có tám mươi bốn ngàn quốc gia và quốc vương,
quốc vương nào cũng thích thú, tự do, tài sản sung túc, hưởng thụ đầy
đủ, không xâm lăng chiếm đoạt lẫn nhau. Ai cũng tùy phước nhân đời
trước mà thụ hưởng phước quả đời này, không ai nghĩ xấu, ham chiếm
nước khác. Ai cũng giảm thiểu ham muốn, muốn lợi kẻ khác, không gây
cái khổ chinh chiến, đày ải. Dân chúng của các quốc vương ấy thì thương
nhau, trên dưới hòa thuận như nước với sữa, mến trọng lẫn nhau, hoan
hỷ thư nhàn, hiền lành khiêm tốn, tăng tiến thiện căn. Do vậy mà đại
lục Thiệm bộ này yên vui, sung túc, dân chúng đông đảo, đất đai màu mỡ,
lạnh nóng điều hòa, thời tiết thích hợp, nhật nguyệt tinh tú vận
hành bình thường, gió mưa đúng lúc, không có tai ương, tài sản phong
phú, tâm tính hào phóng, thường hành huệ thí, đủ mười thiện nghiệp,
và chết thì đa số sinh chư thiên, thiên chúng tăng lên. Bốn thiên vương,
trong thì vị lai, có quốc vương nào lắng nghe kinh này, cung kính hiến
cúng và thọ trì kinh này, thì được bốn chúng ca tụng, lại lợi ích cho
chính các người và tùy thuộc của các người là vô số dược xoa. Vì vậy
mà các quốc vương thường nên lắng nghe bản kinh vua này. Chính cái nước
chánh pháp cái vị cam lộ này tăng thêm sức mạnh và tư thế cho thân tâm
các người, làm cho các người tinh tiến mạnh mẽ, đầy đủ phước đức
uy quang. Các quốc vương ấy nếu hết lòng lắng nghe kinh này thì thế là
đã đem sự hiến cúng lớn lao và hiếm có mà hiến cúng cho ta, Thích ca như
lai. Hiến cúng Như lai là hiến cúng vô số chư vị Như lai trong quá khứ
hiện tại vị lai. Hiến cúng tam thế Như lai thì được cái khối công đức
bất khả tư nghị. Vì lý do ấy, các người nên hộ trì [cho các quốc vương
ấy], cho hoàng gia của họ, cho thần trấn hoàng cung, ai cũng khỏi suy tổn,
được an lạc, thiện căn khó lường. Quốc dân của các quốc vương ấy
cũng hưởng thụ đủ loại lạc thú ngũ dục, mọi sự xấu ác tiêu tan tất
cả.
Bốn thiên vương lại thưa, bạch
đức Thế tôn, trong thì vị lại, có quốc vương nào ưa thích lắng nghe
kinh vua Ánh sáng hoàng kim để cầu mong bản thân và hoàng gia được sự yên
vui bậc nhất; để làm cho ngôi vua hiện tại được thịnh đạt; để thu
hoạch cái khối phước đức vô lượng; để làm cho quốc dân và quốc
gia của mình không bị thù địch, không lo buồn, không tai họa, thì, bạch
đức Thế tôn, quốc vương ấy không nên phóng túng, nghĩ tưởng mông
lung, mà phải cung kính, chân thành, thiết tha, muốn được lắng nghe tiếp
nhận bản kinh vua tối thượng này. Muốn vậy thì trước hết quốc
vương ấy phải trang hoàng một cung điện nào trong hoàng cung mà dễ thấy
nhất và ông quí nhất, bằng cách đem nước thơm rưới đất, rải những
bông hoa danh tiếng, đặt để pháp tòa sư tử đẹp nhất, trang khảm bằng
ngọc quí, treo bảo cái tràng phan lên trên, rồi đốt hương liệu vô giá,
tấu lên các loại âm nhạc. Bản thân quốc vương thì tắm rửa sạch sẽ,
xoa hương thơm vào mình, mặc áo sạch và mới, đeo những chuỗi ngọc,
nhưng ngồi trên cái ghế thấp nhỏ, không tự tôn, bỏ ngôi cao, rời ngạo
mạn, đoan tâm chính niệm để chờ lắng nghe kinh vua này. Lại nữa, đối
với vị pháp sư sẽ đến thì nghĩ tưởng là bậc đại sư; đối với thân
quyến thì sinh từ tâm, nhìn nhau vui vẻ, mặt hiền hòa, nói dịu ngọt, đối
với bản thân thì tràn ngập một nỗi vui mừng lớn lao, nghĩ rằng tôi
được lợi ích vĩ đại, ấy là được hiến cúng long trọng đối với bản
kinh vua chúa. Quốc vương chuẩn bị như vậy rồi, thấy vị pháp sư đến
thì lòng thành kính, khao khát, ngưỡng mộ.
Đức Thế tôn dạy bốn thiên vương,
quốc vương ấy không nên không đi rước vị pháp sư. Quốc vương ấy phải
mặc đồ sạch sẽ, trang sức bằng những chuỗi ngọc, đích thân cầm lọng
dù màu trắng và hương hoa, nghiêm chỉnh quân cách, dàn nhiều nhạc cụ,
đi bộ mà ra khỏi cửa hoàng thành đón rước vị pháp sư, vận dụng tâm
tưởng, hết lòng tôn kính mà làm cái việc cầu chúc cát tường. Bốn thiên
vương, tại sao quốc vương phải đích thân làm việc tôn kính hiến cúng
như vậy? Vì quốc vương lúc ấy cất chân lên, đặt chân xuống, mỗi bước
đã là tôn kính hiến cúng vô lượng chư vị Như lai, đã là vượt qua ngần
ấy nỗi khổ sinh tử, đã là tương lai được làm ngần ấy ngôi vị
luân vương. Lại tùy mỗi bước mà hiện tại phước đức tăng trưởng,
vương vị tự tại, cảm ứng khó lường, quần chúng kính trọng; mà tương
lai vô số kiếp được cung điện thất bảo trong nhân loại và trên chư
thiên, sinh ra ở đâu cũng làm vua chúa, thọ lượng tăng thêm, nói năng thông
suốt, người trời tin chịu, không e sợ gì, được tiếng khen lớn, ai
cũng ngưỡng mộ, ở trong nhân thiên mà hưởng thụ hạnh phúc tuyệt diệu,
được đại thế lực, có đại oai đức, thân tướng kỳ vĩ, uy nghiêm tột
bậc, gặp được các đấng Nhân thiên sư, gặp được các bậc Thiêển
tri thức, hoàn hảo cái khối phước đức vô lượng. Bốn thiên vương nên
biết, quốc vương ấy thấy những lợi ích như vậy nên phải đích thân
đi rước pháp sư từ một du thiện na cho đến hàng trăm hàng ngàn du thiện
na. Hãy nghĩ tưởng vị pháp sư ấy là Như lai. Rước về hoàng thành rồi,
nghĩ rằng thế là đức Thích ca thế tôn vào trong hoàng cung của tôi, nhận
cho sự hiến cúng của tôi, nói cho tôi nghe về diệu pháp. Rằng nghe diệu
pháp rồi tôi không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề, được gặp vô
lượng chư vị Thế tôn. Rằng ngày nay tôi đã tấu những nhạc cụ thượng
thặng, và đem những cúng phẩm thù thắng, hiến lên tam thế Thế tôn. Rằng
ngày nay tôi đã bạt nhổ vĩnh viễn cái khổ trong thế giới Diêm vương,
đã gieo trồng hạt giống thiện căn của Phạn vương, Đế thích, Luân vương.
Rằng việc tôi làm ngày nay sẽ làm cho vô số chúng sinh, thoát sinh tử
được niết bàn, tích tụ cái khối phước đức bất khả tư nghị; làm
cho thân quyến và con dân của tôi yên ổn; làm cho đất nước của tôi
thanh bình, không tai họa, kẻ ác và giặc thù không thể quấy phá, xâm lược,
rời xa mọi nỗi lo buồn. Bốn thiên vương, quốc vương ấy nên trân trọng
như vậy đối với diệu pháp, lại nên hiến cúng cung kính tôn trọng tán
dương đối với bốn bộ đệ tử Như lai. Rồi trước hết đem cái thắng
phước của thiện căn này mà hồi hướng cho chính các người, và tùy thuộc
của các người. Thì quốc vương ấy có cái phước đức rất lớn làm yếu
tố, nên hiện tại được đại tự tại, tăng thêm uy quang, sự cát tường
và tướng tốt đẹp đều trang nghiêm, và đối với mọi loại giặc thù
ông có năng lực đem diệu pháp mà chiến thắng.
Lúc ấy bốn thiên vương lại
thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào tôn kính diệu pháp, muốn
nghe kinh vua được như vậy, lại tôn kính hiến cúng bốn bộ thọ trì
kinh vua, [trong đó có vị pháp sư], và muốn làm cho chúng con hoan hỷ, thì
gần một bên pháp tòa, hãy rưới nước thơm, rải bông hoa, đặt ghế bàn
cho bốn thiên vương chúng con. Chúng con sẽ nghe pháp chung với quốc vương.
Quốc vương được thiện căn thì cũng đem một phần cái phước của thiện
căn ấy hồi hướng cho chúng con. Bạch đức Thế tôn, khi quốc vương thỉnh
mời vị pháp sư bước lên pháp tòa, thì cũng có một phần vì chúng con
mà đốt các danh hương hiến cúng kinh vua này. Bạch đức Thế tôn, khói hương
ấy, trong khoảnh khắc, bay lên không gian, bay đến cung điện của chúng
con, và biến thành hương cái ở trong không gian. Chư thiên chúng con liền
nghe được hơi thơm của danh hương, và thấy khói hương có ánh sáng màu
hoàng kim, chiếu rực cung điện của chúng con, chiếu đến cung điện của
Phạn vương, của Đế thích, của Đại biện tài thiên, của Đại cát tường
thiên, của Kiên lao địa thần, của Chánh liễu tri đại tướng, của chư
thần hai mươi tám bộ dược xoa, của Đại tự tại thiên, của Kim cang mật
chủ, của Bảo hiền đại tướng, của quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm
quỉ tử, của long vương hồ Vô nhiệt não, của long vương Đại dương. Bạch
đức Thế tôn, chư thiên chư thần như vậy, nơi cung điện của mình, ai cũng
thấy khói hương ấy trong khoảnh khắc biến thành hương cái, nghe hơi
thơm của khói hương và thấy ánh sáng của khói hương đến khắp tất cả
cung điện của chư thiên chư thần.
Đức Thế tôn bảo bốn thiên vương,
khói hương ấy, với hơi thơm và ánh sáng, không phải chỉ bay đến, biến
thành hương vân hương cái và phóng ánh sáng lớn ở những cung điện [mà
các người thấy được]. Khói hương do chính tay quốc vương tự bưng lò
hương mà đốt lên để hiến cúng kinh vua ấy, trong khoảnh khắc, còn bay
đến khắp đại thiên thế giới này với trăm ức nhật nguyệt, trăm ức
núi Diệu cao, trăm ức bốn đại lục. Tại cung điện của tất cả tám bộ
trong đại thiên thế giới này, khói hương ấy tràn đầy không gian, biến
thành hương vân và hương cái, ánh sáng màu hoàng kim của vân cái này chiếu
khắp cung điện chư thiên [và chư thần]. Tất cả hương vân và hương cái
trong đại thiên thế giới này toàn là do cái lực của uy thần kinh vua
Ánh sáng hoàng kim. Nhưng không phải khói hương do chính tay quốc vương
bưng lò đốt lên hiến cúng kinh vua này chỉ bay đến khắp đại thiên thế
giới này, mà, trong khoảnh khắc, cũng bay đến khắp vô lượng quốc độ
của chư vị Như lai. Ở trên các Ngài, trong không gian, khói hương cũng [kết
thành hương vân và] biến thành hương cái, chiếu ra ánh sáng hoàng kim. Đức
Như lai nào cũng nghe hơi thơm của khói hương nhiệm mầu ấy, cũng nhìn thấy
hương vân hương cái và ánh sáng hoàng kim ấy hiện ra khắp nơi vô lượng
chư vị Như lai, thì chư vị Như lai cùng quan sát, và khác miệng cùng tiếng
mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay bậc đại trượng phu, ông có năng
lực quảng bá bản kinh sâu xa mầu nhiệm! Như thế là ông đã thành tựu
cái khối phước đức bất khả tư nghị. Ai lắng nghe ông giảng kinh này
thì cái lượng công đức có được thật quá nhiều, huống chi sao chép,
tiếp nhận, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc, diễn nói cho người, làm đúng
kinh dạy. Tại sao, vì, thiện nam tử, ai nghe bản kinh Ánh sáng hoàng kim
này thì không còn thoái chuyển nữa đối với vô thượng bồ đề. Chư vị
Như lai trong vô lượng quốc độ còn khác miệng cùng tiếng, ngồi ngay
trên pháp tòa mà tán dương vị pháp sư, rằng lành thay thiện nam tử,
trong đời sau, ông do tinh tiến lực mà tu được vô số khổ hạnh, đầy
đủ hai loại tư lương phước đức và trí tuệ, siêu việt trên hiền
thánh, vượt ra quá ba cõi, làm bậc tối tôn tối thắng, sẽ ngồi dưới
bồ đề thọ vương một cách trang nghiêm thù thắng, năng lực cứu được
chúng sinh có liên hệ với mình (56) ở trong đại thiên thế giới, khéo
léo thắng được ma quân hình nghi đáng sợ, thực hiện cái tuệ giác biết
các pháp một cách hơn hết, trong sáng, rất sâu, không gì trên nữa, rất
chính xác và cùng khắp. Thiện nam tử, ông sẽ ngồi trên kim cang tòa, chuyển
cái pháp luân vô thượng, được chư vị Như lai tán dương, đủ cả mười
hai hành tướng mầu nhiệm, cực kỳ sâu xa. Ông gióng trống pháp vô thượng
rất lớn, thổi loa pháp vô thượng rất mầu, dựng cờ pháp vô thượng rất
cao, đốt đuốc pháp vô thượng rất sáng, mưa nước pháp vô thượng rất
ngọt, cắt đứt vô lượng phiền não kết thắt, làm cho vô lượng chúng
sinh vượt qua biển cả đáng sợ mà không bến bờ, chấm dứt sự luân hồi
bất tận của sinh tử, gặp được vô lượng chư vị Như lai.
Bốn thiên vương lại thưa, bạch
đức Thế tôn, kinh Ánh sáng hoàng kim này, trong hiện tại vị lai, thành tựu
được vô lượng công đức như vậy. Thế nên quốc vương nào được
nghe bản kinh mầu nhiệm này là vì đã gieo trồng thiện căn nơi vô lượng
chư vị Thế tôn. Chúng con sẽ hộ trì cho quốc vương ấy. Lại vì nhìn
thấy vô lượng phước đức, nên bốn thiên vương chúng con, cùng với vô
lượng chư thần tùy thuộc, khi tại cung điện của mình thấy khói hương
biến hiện hương vân hương cái, thì ẩn mình đi, vì để được nghe pháp
nên đến chỗ thuyết pháp là cung điện bậc nhất của hoàng cung quốc vương.
Các vị Phạn vương, Đế thích, Đại biện tài thiên, Đại cát tường
thiên, Kiên lao địa thần, Chánh liễu tri đại tướng, chư thần hai mươi
tám bộ dược xoa, Đại tự tại thiên, Kim cang mật chủ, Bảo hiền đại
tướng, quỉ mẫu Ha lị để và năm trăm quỉ tử, long vương hồ Vô nhiệt
não, long vương Đại dương, vô lượng chư thiên và dược xoa cũng vì để
được nghe pháp nên ẩn mình mà đến chỗ đặt pháp tòa cao để thuyết
pháp là cung điện bậc nhất của quốc vương. Bạch đức Thế tôn, bốn
thiên vương chúng con, với chư thần dược xoa tùy thuộc, sẽ một lòng
cùng quốc vương làm thiện tri thức cho nhau. Vì ông là đại thí chủ
pháp thí, đem cam lộ vị mà sung mãn cho chúng con, nên chúng con sẽ hộ vệ
cho ông, loại trừ tai họa cho ông, làm cho ông được yên ổn, lại làm
cho hoàng cung, quốc gia và quốc dân của ông tiêu tan được mọi thứ tai
biến.
Bốn thiên vương lại cùng nhau chắp
tay mà thưa, bạch đức Thế tôn, nếu quốc vương nào trong quốc gia của
mình có kinh này mà chưa quảng bá bao giờ, muốn rời bỏ, không thích lắng
nghe, không hiến cúng ca tụng, thấy người trong bốn bộ đệ tử Thế tôn
thọ trì kinh này cũng không tôn trọng hiến cúng, làm cho chúng con cùng
thân thuộc, và vô lượng chư thiên, không ai được nghe diệu pháp rất
sâu xa, mất vị cam lộ, mất nước chánh pháp, không còn uy quang và thế lực,
nẻo dữ thêm lên, người trời bớt đi, rơi sông sinh tử, mất đường niết
bàn. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng con, và những dược xoa tùy
thuộc của chúng con, thấy như vậy nên bỏ quốc gia ấy, không có lòng
nào hộ vệ. Chẳng những chúng con bỏ quốc gia của quốc vương ấy, mà
các đại thiện thần có thệ nguyện hộ vệ đất nước cũng bỏ mà đi.
Bỏ đi rồi, quốc gia ấy có đủ loại tai họa. Vị thế quốc gia bị mất
(57) . Quốc dân không có thiện tâm. Chỉ có tù đày, tàn hại, hận thù,
đấu đá, dèm pha, dua nịnh, cô thế oan khuất, tật dịch hoành hành, sao
chổi thường xuất hiện, hai mặt trời cùng xuất hiện (58) , nhật thực
nguyệt thực bất thường, hai cầu vồng đen trắng xuất hiện, sao sa, địa
chấn, lòng giếng phát tiếng, mưa bạo, gió dữ, thời tiết hổn loạn, đói,
mất mùa, kẻ thù và giặc giã thường từ xứ khác đến cướp phá xâm lược,
quốc dân khổ sở, đất nước không có chỗ nào bình yên. Bạch đức Thế
tôn, khi bốn thiên vương chúng con, vô lượng chư thiên thiện thần, cùng
với thiện thần cũ hộ vệ quốc gia ấy, đều xa lánh cả, thì quốc gia
ấy sinh ra lắm sự tai quái dữ dằng như vậy.
Bạch đức Thế tôn, quốc vương nào
muốn quốc gia vui vẻ, muốn quốc dân yên ổn, muốn chiến thắng ngoại
địch cho đất nước thịnh vượng, muốn lưu bố chánh pháp cho nỗi khổ
điều dữ tan biến, thì, bạch đức Thế tôn, quốc vương ấy nên lắng
nghe kinh vua nhiệm mầu này, nên hiến cúng những người thọ trì kinh này.
Làm như vậy thì chúng con với vô lượng chư thiên thiện thần, do cái thiện
căn lực lắng nghe chánh pháp và uống cam lộ vị mà gia tăng thắng ích
cho chúng con, cho tùy thuộc của chúng con, cho chư thiên thiện thần, tại
sao, vì quốc vương ấy hết lòng lắng nghe tiếp nhận kinh này.
Bạch đức Thế tôn, vì chúng sinh
mà Phạn vương thường nói những luận thuyết xuất thế, mà Đế thích
nói những luận thuyết đa dạng, và các tiên nhân ngũ thông cũng nói mọi
thứ luận thuyết. Phạn vương, Đế thích và tiên nhân ngũ thông tuy có
vô số luận thuyết, nhưng đức Thế tôn vì thương nhân loại và chư thiên
mà tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim thì, so với những luận thuyết
trên, phẩm chất hơn đến vô số bội số, không thể nào ví dụ được
nữa. Tại sao? Vì kinh ấy có năng lực làm cho bao nhiêu quốc vương của
đại lục Thiệm bộ đều đem chánh pháp mà phục vụ quốc gia, có năng lực
ban cho chúng sinh mọi sự an lạc, làm cho bản thân các quốc vương, cho hoàng
gia và quốc dân của các quốc vương ấy, đều không bị khổ não, không
bị giặc thù xâm lăng tàn hại, mọi sự dữ dằng đều đi rất xa, đất
nước trừ hết tai họa, hoán cải bằng chánh pháp mà không còn mọi sự
tranh tụng. Do vậy, các quốc vương mỗi người nơi quốc gia của mình
hãy đốt lên ngọn đuốc chánh pháp mà soi sáng vô tận, tăng thêm chư thiên
và tùy thuộc của chư thiên. Bạch đức Thế tôn, bốn thiên vương chúng
con với vô lượng chư thiên thiện thần, bộ chúng dược xoa, với bao nhiêu
chư thiên thiện thần trong đại lục Thiệm bộ, do việc làm của quốc vương
ấy mà được uống cam lộ vị tối thượng, được đại uy đức, thế lực
và ánh sáng có đủ tất cả, và tất cả chúng sinh cũng được yên ổn;
vị lai thì vô số kiếp thường hưởng hạnh phúc; được gặp chư vị Thế
tôn, gieo trồng thiện căn, để rồi chứng được vô thượng bồ đề. Vô
lượng thắng ích như vậy toàn là do đức Thế tôn đem đại từ bi quá hơn
Phạn vương, đem đại trí tuệ quá hơn Đế thích, đem đại khổ hạnh quá
hơn các tiên nhân ngũ thông, đem những sự trải qua vô số kiếp ấy, vì
chúng sinh mà tuyên thuyết bản kinh nhiệm mầu này, làm cho tất cả quốc
vương và dân chúng trong toàn cõi đại lục Thiệm bộ hiểu được, trong
phạm vi thế gian, những phương thức quản trị quốc gia và cải hóa quốc
dân. Nhờ kinh này quảng bá mà nơi nào cũng được yên vui. Cái phước
như vậy toàn là do từ bi lực của đức Thích tôn, vị thầy cao cả của
chúng con, quảng bá rộng rãi kinh này. Bạch đức Thế tôn, vì vậy mà
các quốc vương hãy thọ trì, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương bản
kinh vua nhiệm mầu này. Tại sao, vì bản kinh này đem những phước đức bất
khả tư nghị như vậy mà lợi ích tất cả, nên còn mệnh danh là bản
kinh Chúa tể tối thượng. Bấy giờ đức Thế tôn dạy bốn thiên vương,
các người, và tùy thuộc của các người, cùng với vô lượng chư thiên,
thấy quốc vương nào hết lòng lắng nghe, hiến cúng cung kính tôn trọng
tán dương kinh này, thì hãy hộ trì cho quốc vương ấy hết mọi suy tổn,
và như vậy cũng làm cho các người hưởng thụ yên vui. Trong bốn bộ đệ
tử của Như lai, ai quảng bá được kinh vua này, thì thế là ngay trong
nhân loại và chư thiên, những người ấy làm việc Phật làm một cách rộng
lớn, đem lại thắng ích cho vô số chúng sinh. Những người như vậy, bốn
thiên vương các người hãy thường xuyên hộ vệ, đừng để họ bị việc
khác quấy nhiễu. Hãy làm cho thân tâm của những người như vậy được
yên tĩnh để quảng bá kinh vua này tồn tại liên tục, lợi ích chúng sinh
cho đến cùng tận thì gian vị lai.
Bây giờ Đa văn thiên vương từ chỗ
ngồi đứng dậy mà thưa, bạch đức Thế tôn, con có một minh chú tên là
Ngọc như ý. Người nào ưa thích thọ trì minh chú ấy thì công đức vô lượng.
Con luôn luôn hộ vệ cho người ấy rời khổ được vui, có năng lực hoàn
thành hai loại tư lương phước đức và trí tuệ. Muốn thọ trì minh chú
ấy thì trước hết phải trì tụng minh chú giữ gìn bản thân. Đa văn thiên
vương liền nói minh chú giữ gìn bản thân: Nam mô, Vai sra va na da ma ha ra
ja da, tát da tha, ra, ra, ra, ra, ku nu, ku nu, khu nu, khu nu, sa pa, sa pa, ma ha vi
ka ra ma, ma ha vi ka ra ma, ma ha ra ja, rát sa, rát săn tu, năng, sa ra, sát toa năng,
soa ha. (Namo Vaisravanayamaharajaya tadyatha ra ra ra ra kunu kunu khunu khunu sapa sapa
mahavikarama mahavikarama maharaja raksa raksantu nam sarva sattvanam svaha).
Bạch đức Thế tôn, trì tụng minh
chú này thì phải lấy chỉ trắng mà trì tụng bảy biến, mỗi biến thắt
một gút, rồi buộc vào sau khuỷu tay, thì việc giữ gìn bản thân được
thành tựu. Kế đó, phải tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch sẽ, rồi
đem các hương liệu như an tức, chiên đàn, long não, tô hạp, đa yết la,
huân lục, mỗi phần bằng nhau, trộn chung lại, tự tay bưng lò hương mà
đốt hương liệu ấy để hiến cúng. Rồi ở trong cái phòng yên tĩnh (59)
mà trì tụng mình chú triệu thỉnh con, Đa văn thiên vương. Đa văn thiên vương
liền nói minh chú triệu thỉnh: Nam mô, Vai sra va na da, nam mô, Đa na đa da,
Đa nết va ra da, a ka sá, a pa ri mi ta, đa nết va ra, pa ra ma, ka ru ni ka, sa
va, sát toa hi ta chin ta, ma ma, đa na, va đa pa dê, soa dăm, a ka sa, soa ha. (Namo
Vaisravanya namo Danadaya Danesvaraya akarsa aparimita danesvara parama karunika sarva
sattvahitacinta mama dana vardhaparye svayam akarsa svaha).
Trì tụng minh chú này bảy biến rồi
mới trì tụng minh chú căn bản là minh chú Ngọc như ý. Muốn trì tụng
minh chú Ngọc như ý thì trước hết phải xướng hồng danh mà kính lạy
Tam bảo, rồi lạy con, [với lời này: kính lạy] Đa văn thiên vương, người
có năng lực ban cho tiền tài bảo vật, làm cho sở cầu mãn nguyện, thành
tựu an lạc. Xướng lạy như vậy rồi trì tụng minh chú Ngọc như ý của
con, Đa văn thiên vương, minh chú có năng lực đem cho người sự vui vẻ tùy
ý. Đa văn thiên vương liền đối trước đức Thế tôn mà nói minh chú Ngọc
như ý: Nam mô, rát na tra da da, nam mô, Vai sra ma na da, ma ha ra ja da, tát da
tha, si mi, si mi, su mu, su mu, chăn đa, chăn đa, cha rê, cha rê, sa ra, sa ra, ka
ra, ka ra, ki ri, ki ri, ku ru, ku ru, mu ru, mu ru, chu ru, chu ru, sa đa da, át ma năm,
nít dăm, ăn ta ra, đa tu, soa ha; nam mô, Vai sra ma na da, soa ha, đa na đa da,
soa ha, na mô ra tha, pa ri pu ri ka da, soa ha. (Namo ratnatrayaya namo Vaisramanaya
maharajaya tadyatha simi simi sumu sumu canda canda care care sara sara kara kara kiri
kiri kuru kuru muru muru curu curu sadaya atmanam nityam antara dhatu svaha; namo
Vaisramanaya svaha dhanadaya svaha namoratha paripurikaya svaha).
[Bạch đức Thế tôn], thọ trì
minh chú Ngọc như ý thì trước hết tụng một ngàn biến, sau đó, nơi
trong tịnh thất (60) dùng cù ma (61) bôi đất, làm một đàn tràng nhỏ.
Tùy thời mà đem ẩm thực nhất tâm hiến cúng. Thường xuyên đốt hương
quí, sao cho khói hương không ngớt. Rồi tụng minh chú Ngọc như ý, ngày đêm
tập trung tâm trí vào đó. Tụng sao chỉ tai mình tự nghe, đừng để ai biết.
Thì bấy giờ sẽ có con của con, Đa văn thiên vương, tên là vương tử
Thiền ni si, hiện thân đồng tử, đến chỗ người trì tụng, hỏi người
cần gì mà kêu gọi phụ vương của tôi? Người trì tụng hãy trả lời,
rằng tôi muốn hiến cúng Tam bảo nên cần tiền của, xin thiên vương ban
cho. Vương tử Thiền ni si nghe lời ấy rồi, tức tốc trở về, tâu với
con, rằng thưa phụ vương, nay có thiện nhân muốn chí thành hiến cúng Tam
bảo mà thiếu tiền của, vì vậy mà triệu thỉnh phụ vương. Con bảo,
con đi gấp đi, mỗi ngày đem cho thiện nhân ấy một trăm ca lị sa ba na
(62) . Người thọ trì minh chú thấy như vậy thì biết việc thành được.
Hãy một mình ở trong tịnh thất ấy, đốt hương mà nằm. Đặt một cái
hộp thơm bên giường. Mỗi sáng sớm nhìn vào sẽ được của mình cầu.
Mỗi khi được của thì nội ngày ấy hãy hiến cúng Tam bảo bằng hương
hoa ẩm thực, lại đem cho những người nghèo thiếu. Phải sử dụng như vậy
cho hết, không được cất giữ. Đối với chúng sinh phải sinh tâm từ bi,
không được sinh lòng giận dữ, dối trá, dua nịnh, tác hại. Giận dữ
thì tức khắc mất linh nghiệm. Phải thường xuyên giữ cho tâm chớ có giận
dữ. Lại nữa, thọ trì minh chú Ngọc như ý thì mỗi ngày tưởng nhớ đến
con, Đa văn thiên vương, cùng với con trai con gái thân quyến của con, ca tụng,
tán dương, và thường đem mười thiện nghiệp mà hỗ trợ cho nhau, làm
cho chư thiên chúng con phước lực càng sáng, thiện nghiệp càng lớn, chứng
được bồ đề. Chư thiên chúng con thấy như vậy thì ai cũng rất hoan hỷ,
cùng đến hộ vệ cho người thọ trì minh chú. Người thọ trì minh chú
ấy thọ lượng lâu dài, vĩnh ly ba nẻo đường dữ, thường xuyên tuyệt
hết tai nạn. Người ấy cũng được làm cho được ngọc như ý, được
kho tàng ẩn trong lòng đất, thần lực tự tại, sở nguyện thành cả. Cầu
quan chức, vinh hoa, không có gì không vừa ý. Lại còn hiểu được tiếng
nói của chim muông.
Bạch đức Thế tôn, thọ trì minh
chú Ngọc như ý mà muốn nhìn thấy con tự hiện thân, thì ngày tám hoặc
ngày rằm mỗi tháng, lấy vải trắng vẽ tượng đức Thế tôn, bằng
cách dùng nhựa cây và nhiều màu mà tô vẽ. Người vẽ tượng phải được
truyền thọ cho giới Bát quan trai. Bên trái tượng đức Thế tôn thì vẽ
tượng Cát tường thiên nữ, bên phải tượng đức Thế tôn thì vẽ con,
Đa văn thiên vương. Lại vẽ con trai con gái thân quyến của con. Rồi đặt
để cho đúng phép. Bày ra bông hoa đủ màu, đốt lên hương liệu danh tiếng.
Thắp đèn sáng luôn, ngày đêm không tắt. Aẫm thực thượng hạng và tinh
tế, những thứ quí lạ, đều đem lòng thiết tha mà hiến cúng theo lúc.
Thọ trì minh chú Ngọc như ý thì không được với tâm trí dễ dãi. Và
khi triệu thỉnh con thì tụng minh chú này: Na ma hơ, Sri, kăn na da, bút đa
da, nam mô, Vai sra ma na da, dát sa ra ja da, ma ha ra ja, a đi ra ja da, na ma hơ,
sri dê, ma ha đêv dê, tát da tha, ta ra, ta ra, tu ru, tu ru, ba la, ba la, su sút
đi, ha na, ha na, ma ni ka na ka, va rát vai đu ry da, múc ti ka lăm kri ta, sa ra ra
da, sar va sát toa, hi ta ka ma, Vai sra ma na sri da, đê vi pra đa ya, ê hi, ê hi,
ma vi lăm ba, gu ri na, gu ri na, pra si da, pra si da, đa đa hi, ma ma, a na ka na ma
da, đa sá na, ka ma si da, đa săn năn, ma ma, ma na, pa ri ha ra đa da, soa ha.
(Namah Sri kannaya buddhaya namo Vaisramanaya yaksarajaya maharaja adhirajaya namah sriye
mahadevye tadyatha tara tara turu turu bala bala susuddhi hana hana manikanaka
vajravaidurya muktikalamkrsta sariraya sarvasattva hitakama Vaisramanasriya devipradhaya
ehy ehi mavilamba ghurna ghurna prasya prasya dadhahi mama amakanamaya darsana kamasya
darsanan mama mana pariharadhaya svaha).
Bạch đức Thế tôn, nếu con thấy
người ấy tụng trì minh chú, lại thấy hiến cúng trang trọng như vậy,
thì thương mến và hoan hỷ. Con liền biến thể làm thân thiếu nhi, thân
lão trượng, hay thân Bí sô, tay cầm ngọc như ý và túi vàng mà vào đạo
tràng, thân thì thể hiện tôn kính, miệng thì niệm hồng danh của đức
Thế tôn, rồi nói với người thọ trì minh chú Ngọc như ý, rằng tùy người
cầu gì tôi cũng làm cho như nguyện. Muốn ẩn rừng rú, muốn chế tạo ngọc,
muốn mọi người yêu mến, muốn những thứ bạc vàng, muốn trì minh chú
nào cũng linh nghiệm, muốn thần thông, trường thọ, thắng diệu lạc, không
có gì không vừa ý. Tôi nay chỉ nói mấy việc như vậy. Muốn cầu gì nữa
thì cũng tùy ý thành tựu. Kho báu thì vô tận, phước đức thì vô cùng.
Giả sử mặt trời mặt trăng sa xuống mặt đất, hoặc đại địa có
lúc di chuyển vị trí, lời nói chắc thật của tôi cũng không bao giờ vô
hiệu quả, yên vui thường có, hạnh phúc tùy tâm.
Bạch đức Thế tôn, có ai thọ
trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim mà đọc tụng minh chú Ngọc như ý, thì
không mượn sự mệt nhọc nhiều lắm mà linh nghiệm vẫn mau chóng thành tựu.
Bạch đức Thế tôn, nay con vì bao kẻ nghèo nàn, khốn khó, khổ não, mà
tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý là để cho họ được lợi ích lớn lao,
được giàu vui, tự tại, vô bịnh, cho đến suốt đời vẫn được con hộ
vệ, theo dõi người thọ trì minh chú mà loại trừ cho họ bao nhiêu tai
ách. Con lại làm cho những người quảng bá mà duy trì kinh vua Ánh sáng
hoàng kim, và những người thọ trì minh chú Ngọc như ý, trong chu vi mỗi
phía trăm bước, được ánh sáng chiếu đến. Cả ngàn thần dược xoa của
con cũng thường hộ vệ, tùy ý sai sử, họ làm vừa lòng cả. Con nói
chân thành, không rỗng, không dối, chỉ có đức Thế tôn chứng biết cho
con.
Bấy giờ, khi Đa văn thiên vương nói
về minh chú Ngọc như ý rồi, đức Thế tôn dạy, rằng lành thay thiên vương,
ông có năng lực xé nát mạng lưới nghèo khổ cho chúng sinh, làm cho họ
giàu, vui, nên đã tuyên thuyết minh chú Ngọc như ý. Ông lại làm cho kinh
vua này quảng bá cả thế giới.
Bốn vị thiên vương cùng từ chỗ
ngồi đứng dậy, vắt vạt áo một bên vai, đảnh lễ ngang chân đức Thế
tôn, rồi gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính, đem chỉnh
cú tuyệt diệu mà tán dương đức Thế tôn.
- (1) Khuôn mặt Thế tôn
- như trăng tròn sáng,
- như ngàn mặt trời
- phóng ánh quang minh.
- Mắt trong dài rộng
- như cánh sen xanh.
- Răng thì đều khít
- trắng như tuyết ngọc.
- (2) Đức tính Thế tôn
- vô biên như biển,
- bao phẩm chất quí
- dồn lại ở đây;
- nước đại giác tuệ
- được giữ dẫy đầy,
- ngọc đại thắng định
- sung mãn trong đó.
- (3) Bàn chân chỉ tròn
- bố trí tuyệt đẹp,
- bằng phẳng vững vàng
- như bánh xe êm (63) .
- Các ngón tay chân
- có mạng tuyệt đẹp,
- tựa như mạng chân
- của con nga vương.
- (4) Thân thể Thế tôn
- núi vàng sáng rực,
- trong sạch đặc thù
- không ai sánh bằng,
- lại đầy phước đức
- như núi Diệu cao:
- chúng con kính lạy
- Núi chúa như vậy.
- (5) Tướng hảo vô lượng
- tựa như không gian,
- phóng ra ánh sáng
- hơn ngàn mặt trời;
- coi như huyễn ảo
- bất khả tư nghị:
- chúng con kính lạy
- đấng Không vướng mắc.
Bốn thiên vương tán dương đức
Thế tôn rồi, Ngài cũng nói lại bằng những chỉnh cú sau đây.
- (6) Ánh sáng hoàng kim
- kinh tối thượng này
- là được tuyên thuyết
- bởi đấng Vô thượng.
- Thiên vương các người
- hãy thường hộ vệ;
- hãy có tâm chí
- dũng mãnh bất thoái.
- (7) Kinh này quí báu
- cùng cực sâu xa,
- năng lực làm cho
- chúng sinh yên vui.
- Bởi vì làm cho
- chúng sinh yên vui,
- nên thường lưu hành
- đại lục Thiệm bộ.
- (8) Nhưng làm cho cả
- đại thiên thế giới
- bao loại chúng sinh
- trong thế giới ấy,
- nhất là địa ngục
- ngạ quỉ bàng sinh,
- những nẻo khổ ấy
- đều được loại trừ.
- (9) Những vị quốc vương
- toàn cõi Thiệm bộ,
- cùng với bao nhiêu
- quốc dân của họ,
- cái lực kinh này
- làm cho hoan hỷ,
- và được hộ vệ
- giữ cho thanh bình.
- (10) Tất cả nhân loại
- trong đại lục này
- không bịnh không khổ
- không giặc không cướp;
- nhờ trong quốc gia
- quảng bá kinh này,
- quốc dân yên ổn
- sung túc vui thỏa.
- (11) Những ai lắng nghe
- bản kinh vua này,
- muốn cầu cao sang
- cầu tài cầu lợi,
- cầu cho đất nước
- phong phú thái bình,
- tùy tâm cầu nguyện
- thỏa mãn tất cả.
- (12) Giặc từ xứ khác
- cũng làm lui mất,
- trong quốc gia mình
- thường sống yên ổn;
- chính nhờ cái lực
- của kinh vua này
- mà thoát khổ não
- mà không lo sợ.
- (13) Tựa như cây ngọc
- ở chính trong nhà
- thì sinh tất cả
- công cụ hạnh phúc;
- bản kinh tối thượng
- cũng là như vậy,
- ban cho quốc vương
- bao nhiêu thắng phước.
- (14) Như nước trong sạch
- mà lại mát ngọt,
- thì trừ được hết
- cái nóng đói khát;
- bản kinh tối thượng
- cũng là như vậy,
- ai ưa phước lạc
- làm cho thỏa mãn.
- (15) Như kẻ trong nhà
- có hộp ngọc quí,
- thì sự hưởng dụng
- toàn theo ý muốn;
- bản kinh tối thượng
- cũng là như vậy,
- phước lạc tùy tâm
- không thiếu thốn gì.
- (16) Thiên vương các người
- cùng với chư thiên
- hãy nên hiến cúng
- bản kinh vua này;
- phụng trì kinh này
- theo lời Như lai,
- thì đủ tất cả
- trí tuệ uy thần.
- (17) Hiện tại mười phương
- chư vị Như lai
- cùng nhau hộ trì
- bản kinh vua này;
- thấy ai đọc tụng
- thọ trì kinh này
- thì khen lành thay,
- rất là hiếm có!
- (18) Những ai lắng nghe
- bản kinh vua này,
- thân tâm phấn chấn
- hoan hỷ tràn ngập;
- thường có trăm ngàn
- bộ chúng dược xoa
- ở đâu cũng theo
- mà hộ vệ cho.
- (19) Thế giới hệ này
- bộ chúng chư thiên
- số lượng vô lượng
- không thể nghĩ bàn,
- ai cũng lắng nghe
- bản kinh vua này
- hoan hỷ hộ vệ
- chứ không thoái chuyển.
- (20) Những ai lắng nghe
- bản kinh vua này,
- thì uy đức mạnh
- thì tự tại luôn;
- làm cho tăng thêm
- nhân loại chư thiên,
- làm hết suy bại
- làm thêm ánh sáng.
Bốn thiên vương nghe những lời chỉnh
cú này rồi hoan hỷ phấn chấn, thưa rằng bạch đức Thế tôn, từ xưa
đến nay chúng con chưa từng được nghe pháp âm thậm thâm vi diệu như thế
này, trong lòng vừa mừng vừa tủi, mắt mũi trào nước, cả người chấn
động, chứng được sự thể hiếm có, bất khả tư nghị. Các thiên vương
liền lấy thiên hoa mạn đà và đại mạn đà tung rải trên đức Thế tôn.
Họ hiến cúng một cách thù thắng như vậy rồi, lại thưa, bạch đức Thế
tôn, bốn thiên vương chúng con ai cũng có năm trăm dược xoa tùy thuộc, sẽ
thường xuyên hộ vệ kinh này, và vị pháp sư tuyên thuyết kinh này, đem
ánh sáng trí tuệ mà hỗ trợ. Vị pháp sư ấy có quên chữ nghĩa nào
trong kinh vua này, thì chúng con làm cho vị ấy nhớ lại, không quên. Chúng
con cũng hiến cho vị pháp sự ấy minh chú thù thắng, để vị ấy được
toàn hảo. Lại làm cho bản kinh vua tối thượng này ở đâu thì quảng bá
cho người, không mau chóng ẩn mất.
Khi ở trong đại hội, đức thế tôn
tuyên thuyết pháp thoại này, thì vô lượng chúng sinh được sự hùng biện
đầy trí lớn thông minh, thu thập cái khối phước đức vô số lượng, rời
lo buồn, phát hoan hỷ, khéo hiểu mọi thứ luận thuyết, bước lên trên
đường thoát ly, không còn thoái chuyển mà mau chóng chứng được vô thượng
bồ đề.
Mục
Lục
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|7
|
8
|
9|
10
|
11|
12|
13|
14|
15|
16|
17|
18|
19|
20|
21|
22|
23
| 24
|
25
|
26
|
27|
28|
29|
30|
31|ghi
chú|
--- o0o ---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Source
: www.buddhismtoday.com
-o0o-
Trình
bày: Nhị
Tường
Cập
nhật:
01-02-2002