Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba la Mật
đa không buộc không mở. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba
la mật đa không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba la mật
đa tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Bố
thí Ba la mật đa tánh xa lìa, nên không buộc không mở; tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa tánh xa lìa, nên không buộc không
mở. Bố thí Ba la mật đa tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa tánh vắng lặng,
nên không buộc không mở. Bố thí Ba la mật đa tánh không, nên không buộc
không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa
tánh không, nên không buộc không mở. Bố thí Ba la đa tánh vô tướng, nên
không buộc không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la
mật đa tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Bố thí Ba la mật đa tánh vô
nguyện, nên không buộc không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,
bát nhã Ba la mật đa tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Bố thí Ba la
mật đa tánh vô sanh, nên không buộc không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa tánh vô sanh, nên không buộc không mở.
Bố thí Ba la mật đa tánh vô diệt, nên không buộc không mở; tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa tánh vô diệt, nên không
buộc mở. Bố thí Ba la mật đa tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; tịnh
giới, an nhẫn tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa tánh vô nhiễm, nên
không buộc không mở. Bố thí Ba la mật đa tánh vô tịnh, nên không buộc
không mở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa
tánh vô tịnh, nên không buộc không mở. Bạch Thế Tôn! Năm nhãn không
buộc không mở, sáu thần thông không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế
Tôn! Năm nhãn tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; sáu thần thông tánh
vô sở hữu, nên không buộc không mở. Năm nhãn tánh xa lìa, nên không buộc
không mở; sáu thần thông tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Năm nhãn
tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; sáu thần thông tánh vắng lặng,
nên không buộc không mở. Năm nhãn tánh không, nên không buộc không mở; sáu
thần thông tánh không, nên không buộc không mở. Năm nhãn tánh vô tướng,
nên không buộc không mở; sáu thần thông tánh vô tướng, nên không buộc
không mở. Năm nhãn tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; sáu thần thông
tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Năm nhãn tánh vô sanh, nên không
buộc không mở; sáu thần thông tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Năm
nhãn tánh vô diệt, nên không buộc không mở; sáu thần thông tánh vô diệt,
nên không buộc không mở. Năm nhãn tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở;
sáu thần thông tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Năm nhãn tánh vô
tịnh, nên không buộc không mở; sáu thần thông tánh vô tịnh, nên không buộc
không mở. Bạch Thế Tôn! Phật mười phương
lực không buộc không mở; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng
trí, nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn!
Phật mười lực tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí tánh vô sở hữu, nên
không buộc không mở. Phật mười lực tánh xa lìa, nên không buộc không mở;
bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí tánh xa lìa, nên không buộc
không mở. Phật mười lực tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; bốn vô sở
úy cho đến nhất thiết tướng trí tánh vắng lặng, nên không buộc không mở.
Phật mười lực tánh không, nên không buộc không mở; bốn vô sở úy cho đến
nhất thiết tướng trí tánh không, nên không buộc không mở. Phật mười lực
tánh vô tướng, nên không buộc không mở; bốn vô sở úy cho đến nhất thiết
tướng trí tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Phật mười lực tánh vô
nguyện, nên không buộc không mở; bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí
tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Phật mười lực tánh vô sanh, nên
không buộc không mở; bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí tánh vô
sanh, nên không buộc không mở. Phật mười lực tánh vô diệt, nên không buộc
không mở; bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí tánh vô diệt, nên
không buộc không mở. Phật mười lực tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở;
bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí tánh vô nhiễm, nên không buộc
không mở. Phật mười lực tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; bốn vô sở
úy cho đến nhất thiết tướng trí tánh vô tịnh, nên không buộc không mở. Bạch Thế Tôn! Chơn như không
buộc không mở; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
pháp định, pháp trụ, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, thật tế, vô vi không
buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Chơn như tánh vô sở hữu, nên không
buộc không mở; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
pháp định, pháp trụ, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, thật tế, vô vi tánh vô
sở hữu, nên không buộc không mở. Chơn như tánh xa lìa, nên không buộc
không mở; pháp giới cho đến vô vi tánh xa lìa, nên không buộc không mở.
Chơn như tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến vô vi
tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Chơn như tánh không, nên không
buộc không mở; pháp giới cho đến vô vi tánh không, nên không buộc không
mở. Chơn như tánh vô tướng, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến vô
vi tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Chơn như tánh vô nguyện, nên
không buộc không mở; pháp giới cho đến vô vi tánh vô nguyện, nên không
buộc không mở. Chơn như tánh vô sanh, nên không buộc không mở; pháp giới
cho đến vô vi tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Chơn như tánh vô
diệt, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến vô vi tánh vô diệt, nên
không buộc không mở. Chơn như tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; pháp
giới cho đến vô vi tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Chơn như tánh
vô tịnh, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến vô vi tánh vô tịnh,
nên không buộc không mở. Bạch Thế Tôn! Bồ đề không buộc
không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ đề tánh vô sở hữu, nên không buộc
không mở. Bồ đề tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Bồ đề tánh vắng
lặng, nên không buộc không mở. Bồ đề tánh không, nên không buộc không mở.
Bồ đề tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Bồ đề tánh vô nguyện, nên
không buộc không mở. Bồ đề tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Bồ đề
tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Bồ đề tánh vô nhiễm, nên không buộc
không mở. Bồ đề tánh vô tịnh, nên không buộc không mở. Bạch Thế Tôn! Tát đỏa không
buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Tát đỏa tánh vô sở hữu, nên không
buộc không mở. Tát đỏa tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Tát đỏa tánh
vắng lặng, nên không buộc không mở. Tát đỏa tánh không, nên không buộc
không mở. Tát đỏa tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Tát đỏa tánh vô
nguyện, nên không buộc không mở. Tát đỏa tánh vô sanh, nên không buộc
không mở. Tát đỏa tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Tát đỏa tánh vô
nhiễm, nên không buộc không mở. Tát đỏa tánh vô tịnh, nên không buộc không
mở. Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát
không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát tánh vô sở
hữu, nên không buộc không mở. Bồ tát Ma ha tát tánh xa lìa, nên không buộc
không mở. Bồ tát Ma ha tát tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Bồ tát
Ma ha tát tánh không, nên không buộc không mở. Bồ tát Ma ha tát tánh vô
tướng, nên không buộc không mở. Bồ tát Ma ha tát tánh vô nguyện, nên không
buộc không mở. Bồ tát Ma ha tát tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Bồ
tát Ma ha tát tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Bồ tát Ma ha tát tánh
vô nhiễm, nên không buộc không mở. Bồ tát Ma ha tát tánh vô tịnh, nên
không buộc không mở. Bạch Thế Tôn! Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tánh
không, nên không buộc không mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tánh vô tướng,
nên không buộc không mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tánh vô nguyện, nên
không buộc không mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tánh vô sanh, nên không
buộc không mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tánh vô diệt, nên không buộc
không mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tánh vô nhiễm, nên không buộc không
mở. Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tánh vô tịnh, nên không buộc không mở. Bạch Thế Tôn! Kẻ giác giả Vô
thượng Chánh đẳng không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Kẻ giác
giả Vô thượng Chánh đẳng tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Kẻ giác
giả Vô thượng Chánh đẳng tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả
Vô thượng Chánh đẳng tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả
Vô thượng Chánh đẳng tánh không, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả Vô
thượng Chánh đẳng tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả Vô
thượng Chánh đẳng tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả Vô
thượng Chánh đẳng tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả Vô
thượng Chánh đẳng tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả Vô
thượng Chánh đẳng tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Kẻ giác giả Vô
thượng Chánh đẳng tánh vô tịnh, nên không buộc không mở. Bạch Thế Tôn! Lấy tóm mà nói:
Tất cả pháp đều không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp
tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Tất cả pháp tánh xa lìa, nên
không buộc không mở. Tất cả pháp tánh vắng lặng, nên không buộc không mở.
Tất cả pháp tánh không, nên không buộc không mở. Tất cả pháp tánh vô
tướng, nên không buộc không mở. Tất cả pháp tánh vô nguyện, nên không buộc
không mở. Tất cả pháp tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Tất cả pháp
tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Tất cả pháp tánh vô nhiễm, nên
không buộc không mở. Tất cả pháp tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.
Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện
Hiện rằng: Tôn giả! Nói sắc không buộc không mở, nói thọ tưởng hành thức
thảy không buộc không mở ư? Thiện Hiện đáp: Như vậy, như vậy. Mãn Từ Tử
nói: Những gì là sắc không buộc không mở, những gì là thọ tưởng hành thức
thảy không buộc không mở? Thiện Hiện đáp: Như huyễn sắc
không buộc không mở, như huyễn thọ tưởng hành thức không buộc không mở.
Như mộng sắc không buộc không mở, như mộng thọ tưởng hành thức không buộc
không mở. Như tượng sắc không buộc không mở, như tượng thọ tưởng hành thức
không buộc không mở. Như vang sắc không buộc không mở, như vang thọ tưởng
hành thức không buộc không mở. Như bóng sáng sắc không buộc không mở, như
bóng sáng thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Như không hoa sắc không
buộc không mở, như không hoa thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Như
ánh nắng sắc không buộc không mở, như ánh nắng thọ tưởng hành thức không
buộc không mở. Như thành tầm hương sắc không buộc không mở, như thành tằm
hương thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Như việc biến hóa sắc không
buộc không mở, như việc biến hóa thọ tưởng hành thức không buộc không mở.
Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Sắc tánh như huyễn cho đến sắc tánh như việc biến
hóa vô sở hữu, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh như
huyễn, cho đến thọ tưởng hành thức tánh như việc biến hóa vô sở hữu, nên
không buộc không mở. Sắc tánh như huyễn, cho đến sắc tánh như việc biến
hóa xa lìa, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh như huyễn,
cho đến thọ tưởng hành thức tánh như việc biến hóa xa lìa, nên không buộc
không mở. Sắc tánh như huyễn, cho đến sắc tánh như việc biến hóa vắng
lặng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh như huyễn, cho đến
thọ tưởng hành thức tánh như việc biến hóa vắng lặng, nên không buộc không
mở. Sắc tánh như huyễn, cho đến sắc tánh như việc biến hóa không, nên
không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh như huyễn, cho đến thọ tưởng
hành thức tánh như việc biến hóa không, nên không buộc không mở. Sắc tánh
như huyễn, cho đến sắc tánh như việc biến hóa vô tướng, nên không buộc
không mở; thọ tưởng hành thức tánh như huyễn, cho đến thọ tưởng hành thức
tánh như việc biến hóa vô tướng, nên không buộc không mở. Sắc tánh như
huyễn, cho đến sắc tánh như việc biến hóa vô nguyện, nên không buộc không
mở; thọ tưởng hành thức tánh như huyễn, cho đến thọ tưởng hành thức tánh
như việc biến hóa vô nguyện, nên không buộc không mở. Sắc tánh như huyễn,
cho đến sắc tánh như việc biến hóa vô sanh, nên không buộc không mở; thọ
tưởng hành thức tánh như huyễn, cho đến thọ tưởng hành thức tánh như việc
biến hóa vô sanh, nên không buộc không mở. Sắc tánh như huyễn, cho đến sắc
tánh như việc biến hóa vô diệt, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành
thức tánh như huyễn, cho đến thọ tưởng hành thức tánh như việc biến hóa vô
diệt, nên không buộc không mở. Sắc tánh như huyễn, cho đến sắc tánh như
việc biến hóa vô nhiễm, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh
như huyễn, cho đến thọ tưởng hành thức tánh như việc biến hóa vô nhiễm,
nên không buộc không mở. Sắc tánh như huyễn, cho đến sắc tánh như việc
biến hóa vô tịnh, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh như
huyễn, cho đến thọ tưởng hành thức tánh như việc biến hóa vô tịnh, nên
không buộc không mở. Mãn Từ Tử! Sắc quá khứ không
buộc không mở, thọ tưởng hành thức quá khứ không buộc không mở. Sắc vị lai
không buộc không mở, thọ tưởng hành thức vị lai không buộc không mở. Sắc
hiện tại không buộc không mở, thọ tưởng hành thức hiện tại không buộc
không mở. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Sắc tánh quá khứ vị lai hiện tại vô sở
hữu, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh quá khứ vị lai hiện
tại vô sở hữu, nên không buộc không mở. Sắc tánh quá khứ vị lai hiện tại
xa lìa, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh quá khứ vị lai
hiện tại xa lìa, nên không buộc không mở. Sắc tánh quá khứ vị lai hiện tại
vắng lặng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh quá khứ vị
lai hiện tại vắng lặng, nên không buộc không mở. Sắc tánh quá khứ vị lai
hiện tại không, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh quá khứ
vị lai hiện tại không, nên không buộc không mở. Sắc tánh quá khứ vị lai
hiện tại vô tướng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh quá
khứ vị lai hiện tại vô tướng, nên không buộc không mở. Sắc tánh quá khứ vị
lai hiện tại vô nguyện, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh
quá khứ vị lai hiện tại vô nguyện, nên không buộc không mở. Sắc tánh quá
khứ vị lai hiện tại vô sanh, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức
tánh quá khứ vị lai hiện tại vô sanh, nên không buộc không mở. Sắc tánh
quá khứ vị lai hiện tại vô diệt, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành
thức tánh quá khứ vị lai hiện tại vô diệt, nên không buộc không mở. Sắc
tánh quá khứ vị lai hiện tại vô nhiễm, nên không buộc không mở; thọ tưởng
hành thức tánh quá khứ vị lai hiện tại vô nhiễm, nên không buộc không mở.
Sắc tánh quá khứ vị lai hiện tại vô tịnh, nên không buộc không mở; thọ
tưởng hành thức tánh quá khứ vị lai hiện tại vô tịnh, nên không buộc không
mở. Mãn Từ Tử! Sắc thiện không buộc
không mở, thọ tưởng hành thức thiện không buộc không mở. Sắc bất thiện
không buộc không mở, thọ tưởng hành thức bất thiện không buộc không mở.
Sắc vô ký không buộc không mở, thọ tưởng hành thức vô ký không buộc không
mở. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Sắc tánh thiện, bất thiện, vô ký vô sở hữu, nên
không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh thiện, bất thiện, vô ký vô
sở hữu, nên không buộc không mở. Sắc tánh thiện, bất thiện, vô ký xa lìa,
nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh thiện, bất thiện, vô ký
xa lìa, nên không buộc không mở. Sắc tánh thiện, bất thiện, vô ký vắng
lặng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh thiện, bất thiện,
vô ký vắng lặng, nên không buộc không mở. Sắc tánh thiện, bất thiện, vô ký
không, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh thiện, bất thiện,
vô ký không, nên không buộc không mở. Sắc tánh thiện, bất thiện, vô ký vô
tướng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh thiện, bất thiện,
vô ký vô tướng, nên không buộc không mở. Sắc tánh thiện, bất thiện, vô ký
vô nguyện, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh thiện, bất
thiện, vô ký vô nguyện, nên không buộc không mở. Sắc tánh thiện, bất
thiện, vô ký vô sanh, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh
thiện, bất thiện, vô ký vô sanh, nên không buộc không mở. Sắc tánh thiện,
bất thiện, vô ký vô diệt, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức
tánh thiện, bất thiện, vô ký vô diệt, nên không buộc không mở. Sắc tánh
thiện, bất thiện, vô ký vô nhiễm, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành
thức tánh thiện, bất thiện, vô ký vô nhiễm , nên không buộc không mở. Sắc
tánh thiện, bất thiện, vô ký vô tịnh, nên không buộc không mở; thọ tưởng
hành thức tánh thiện, bất thiện, vô ký vô tịnh, nên không buộc không mở. Mãn Từ Tử! Sắc có nhiễm không
buộc không mở, thọ tưởng hành thức có nhiễm không buộc không mở. Sắc không
nhiễm không buộc không mở; thọ tưởng hành thức không nhiễm không buộc
không mở. Sắc có tội không buộc không mở, thọ tưởng hành thức có tội không
buộc không mở. Sắc không tội không buộc không mở, thọ tưởng hành thức
không tội không buộc không mở. Sắc hữu lậu không buộc không mở, thọ tưởng
hành thức hữu lậu không buộc không mở. Sắc vô lậu không buộc không mở, thọ
tưởng hành thức vô lậu không buộc không mở. Sắc tạp nhiễm không buộc không
mở, thọ tưởng hành thức tạp nhiễm không buộc không mở. Sắc thanh tịnh
không buộc không mở, thọ tưởng hành thức thanh tịnh không buộc không mở.
Sắc thế gian không buộc không mở, thọ tưởng hành thức thế gian không buộc
không mở. Sắc xuất thế gian không buộc không mở, thọ tưởng hành thức xuất
thế gian không buộc không mở. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Sắc tánh có nhiễm cho
đến sắc tánh xuất thế gian vô sở hữu, nên không buộc không mở; thọ tưởng
hành thức tánh có nhiễm cho đến thọ tưởng hành thức tánh xuất thế gian vô
sở hữu, nên không buộc không mở. Sắc tánh có nhiễm cho đến sắc tánh xuất
thế gian xa lìa, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh có
nhiễm cho đến thọ tưởng hành thức tánh xuất thế gian xa lìa, nên không
buộc không mở. Sắc tánh có nhiễm cho đến sắc tánh xuất thế gian vắng lặng,
nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh có nhiễm cho đến thọ
tưởng hành thức tánh xuất thế gian vắng lặng, nên không buộc không mở. Sắc
tánh có nhiễm cho đến sắc tánh xuất thế gian không, nên không buộc không
mở; thọ tưởng hành thức tánh có nhiễm cho đến thọ tưởng hành thức tánh
xuất thế gian không, nên không buộc không mở. Sắc tánh có nhiễm cho đến
sắc tánh xuất thế gian vô tướng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành
thức tánh có nhiễm cho đến thọ tưởng hành thức tánh xuất thế gian vô
tướng, nên không buộc không mở. Sắc tánh có nhiễm cho đến sắc tánh xuất
thế gian vô nguyện, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh có
nhiễm cho đến thọ tưởng hành thức tánh xuất thế gian vô nguyện, nên không
buộc không mở. Sắc tánh có nhiễm cho đến sắc tánh xuất thế gian vô sanh,
nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh có nhiễm cho đến thọ
tưởng hành thức tánh xuất thế gian vô sanh, nên không buộc không mở. Sắc
tánh có nhiễm cho đến sắc tánh xuất thế gian vô diệt, nên không buộc không
mở; thọ tưởng hành thức tánh có nhiễm cho đến thọ tưởng hành thức tánh
xuất thế gian vô diệt, nên không buộc không mở. Sắc tánh có nhiễm cho đến sắc
tánh xuất thế gian vô tịnh, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức
tánh có nhiễm cho đến thọ tưởng hành thức tánh xuất thế gian vô tịnh, nên
không buộc không mở. Mãn Từ Tử! Sắc thọ tưởng hành
thức không buộc không mở. Như vậy, phải biết cứ như vậy. Nhãn xứ cho đến ý
xứ. Sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn
xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý giới, pháp giới, ý thức
giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Địa giới cho đến thức
giới. Khổ thánh đế cho đến đạo thánh đế. Vô minh cho đến lão tử sầu thán
khổ ưu não. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Bốn tĩnh lự cho đến
bốn vô sắc định. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Không giải thoát
môn cho đến vô nguyện giải thoát môn. Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã
Ba la mật đa. Năm nhãn, sáu thần thông. Phật mười lực cho đến nhất thiết
tướng trí. Chơn như cho đến vô vi. Bồ đề, Tát đỏa, Bồ tát Ma ha tát, Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Kẻ giác giả Vô thượng Chánh đẳng. Tất cả pháp tùy
chỗ sở ưng không buộc không mở, cũng lại như vậy. Mãn Từ tử! Các Bồ tát Ma ha tát
đối với pháp môn không buộc không mở như vậy, đem vô sở đắc mà làm phương
tiện, đúng như thật mà biết. Đối với như vậy không buộc không mở: Bốn tĩnh
lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Không, vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Năm nhãn, sáu thần thông. Phật mười lực,
bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí và nhất thiết tướng trí.
Đem vô sở đắc mà làm phương tiện, nên siêng tu học. Mãn Từ Tử! Các Bồ tát Ma ha tát
đem vô sở đắc mà làm phương tiện, nên trụ bốn tĩnh lự không buộc không mở.
Cho đến nên trụ nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, nên thành thục hữu tình không buộc không mở, nên nghiêm
tịnh cõi Phật không buộc không mở, nên gần gũi cúng dường chư Phật không
buộc không mở, và nên nghe lãnh pháp môn không buộc không mở. Mãn Từ Tử! Bồ tát Ma ha tát này
thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn không buộc không mở. Thường chẳng xa
lìa năm nhãn thanh tịnh không buộc không mở. Thường chẳng xa lìa sáu thần
thông thù thắng không buộc không mở. Thường chẳng xa lìa đà la ni môn
không buộc không mở và thường chẳng xa lìa tam ma địa môn không buộc không
mở. Mãn Từ Tử! Bồ tát Ma ha tát này
sẽ sanh đạo tướng trí không buộc không mở, sẽ chứng nhất thiết trí và nhất
thiết tướng trí không buộc không mở, sẽ quay xe pháp không buộc không mở
và sẽ đem pháp Tam thừa không buộc không mở, để an lập các hữu tình nơi
không buộc không mở. Mãn Từ Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát
tu hành sáu Ba la mật đa không buộc không mở là chứng được tất cả pháp vô
sở hữu không buộc không mở, nên xa lìa, nên vắng lặng, nên không, nên vô
tướng, nên vô nguyện, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh
và nên không buộc không mở. Mãn Từ Tử! Phải biết Bồ tát Ma
ha tát này, mới được gọi tên là kẻ mặc áo giáp Đại thừa không buộc không
mở. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao biết là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát?
Vì sao biết được Bồ tát Ma ha tát phát thú Đại thừa? Đại thừa như vậy, từ
chỗ nào ra? Đến trụ chỗ nào? Vì sao mà trụ? Ai lại cưỡi Đại thừa này mà
ra? Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi hỏi
vì sao biết là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát ấy, nghĩa là sáu Ba la mật
đa là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát đấy. Những gì là sáu? Là bố thí Ba
la mật đa, tịnh giới Ba la mật đa, an nhẫn Ba la mật đa, tinh tiến Ba la
mật đa, tĩnh lự Ba la mật đa, bát nhã Ba la mật đa. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát bố thí Ba la mật đa? Phật bảo: Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm
thượng thủ, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự mình thí tất cả nội ngoại
sở hữu, cũng khuyên kẻ khác thí nội ngoại sở hữu. Đem căn lành này cùng
tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện
Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát bố thí Ba la mật đa. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tịnh giới Ba la mật đa? Phật bảo: Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm
thượng thủ, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự mình trụ mười thiện
nghiệp đạo, cũng khuyên kẻ khác trụ muời thiện nghiệp đạo. Đem căn lành
này cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát tịnh giới Ba la mật đa. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát an nhẫn Ba la mật đa? Phật bảo: Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm
thượng thủ, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự mình đủ tăng thượng an
nhẫn, cũng khuyên kẻ khác đủ tăng thượng an nhẫn. Đem căn lành này cùng
tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện
Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát an nhẫn Ba la mật đa. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tinh tiến Ba la mật đa? Phật bảo: Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm
thượng thủ, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự mình nơi sáu Ba la mật đa
siêng tu chẳng dứt, cũng khuyên kẻ khác nơi sáu Ba la mật đa siêng tu
chẳng dứt. Đem căn lành này cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát tinh tiến Ba
la mật đa. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tĩnh lự Ba la mật đa? Phật bảo: Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm
thượng thủ, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự mình năng khéo léo vào
các tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, trọn chẳng theo thế lực kia mà thọ sanh;
cũng năng khuyên kẻ khác vào các tĩnh lự, vô lượng, vô sắc khéo léo như
mình. Đem căn lành này cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát tĩnh lự Ba la mật
đa. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát bát nhã Ba la mật đa? Phật bảo: Thiện Hiện!
Nếu Bồ tát Ma ha tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm
thượng thủ, đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Tự mình năng như thật quán
tất cả pháp tánh, đối các pháp tánh không bị chấp đắm, cũng khuyên kẻ khác
như thật quán tất cả pháp tánh, đối các pháp tánh không bị chấp đắm. Đem
căn lành này cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha Tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại
thừa Bồ tát Ma ha tát ấy nghĩa là nội không, ngoại không, nội ngoại không,
không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất
cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tánh không, tự
tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không,
vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Đấy là tướng Đại thừa
Bồ tát Ma ha tát. Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch
Thế Tôn! Vì sao nội không? Phật bảo: Thiện Hiện! Nội, nghĩa là nội pháp,
tức là nhãn nhỉ tỷ thiệt thân ý. Trong đây, nhãn do nhãn không. Vì cớ sao?
Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Nhĩ tỷ thiệt
thân ý do nhĩ tỷ thiệt thân ý không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường,
chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là nội không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao ngoại không? Phật bảo: Thiện Hiện! Ngoại, nghĩa là ngoại pháp,
tức là sắc thanh hương vị xúc pháp. Trong đây, sắc do sắc không. Vì cớ
sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thanh
hương vị xúc pháp do thanh hương vị xúc pháp không. Vì cớ sao? Vì chẳng
phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là
ngoại không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao nội ngoại không? Phật bảo: Thiện Hiện! Nội ngoại, nghĩa là nội
ngoại pháp, tức là sáu chỗ trong, sáu chỗ ngoài. Trong đây, sáu chỗ trong
do sáu chỗ ngoài không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại,
bản tánh vậy là vậy. Sáu chỗ ngoài do sáu chỗ trong không. Vì cớ sao? Vì
chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy
là nội ngoại không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao không không? Phật bảo: Thiện Hiện! Không, nghĩa là tất cả pháp
không. Không đây do không mà không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng
phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là không không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao đại không? Phật bảo: Thiện Hiện! Đại nghĩa là mười phương, tức
là đông nam tây bắc, tứ duy, thượng hạ. Trong đây, đông phương do đông
phương không, Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh
vậy là vậy. Nam tây bắc phương tứ duy thượng hạ, do nam tây bắc phương tứ
duy thượng hạ không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản
tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là đại không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao thắng nghĩa không? Phật bảo: Thiện Hiện! Thắng nghĩa, nghĩa là
Niết bàn. Thắng nghĩa đây do thắng nghĩa không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải
thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là thắng
nghĩa không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao hữu vi không? Phật bảo: Thiện Hiện! Hữu vi, nghĩa là cõi Dục,
cõi sắc, cõi Vô sắc. Trong đây cõi Dục do cõi Dục không. Vì cớ sao? Vì
chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Cõi sắc, Vô sắc
do cõi Sắc, Vô sắc không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải
hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là hữu vi không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao vô vi không? Phật bảo: Thiện Hiện! Vô vi nghĩa là vô sanh, vô
trụ, vô dị, vô diệt. Vô vi đây do vô vi không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải
thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là vô vi
không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao tất cảnh không? Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cảnh, nghĩa là các
pháp rốt ráo bất khả đắc. Tất cảnh đây do tất cảnh không. Vì cớ sao? Vì
chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy
là tất cảnh không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao vô tế không? Phật bảo: Thiện Hiện! Vô tế nghĩa là không có
ngằn mé trước, giữa, sau khả được và không có ngằn mé lui đến khả được. Vô
tế đây do vô tế không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại,
bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là vô tế không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao tán không? Phật bảo: Thiện Hiện! Tán nghĩa là có phóng, có
vứt, có bỏ khả được. Tán đây do tán không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải
thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là tán
không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao vô biến dị không? Phật bảo: Thiện Hiện! Vô biến dị nghĩa là
không phóng, không vứt, không bỏ khả được. Vô biến dị đây do vô biến dị
không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là
vậy. Thiện Hiện! Đấy là vô biến dị không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao bản tánh không? Phật bảo: Thiện Hiện! Bản tánh nghĩa là bản
tánh tất cả pháp. Hoặc tánh pháp hữu vi, hoặc tánh pháp vô vi đều chẳng
phải Thanh văn làm ra, chẳng phải Độc giác làm ra, chẳng phải Bồ tát làm
ra, chẳng phải Như Lai làm ra, cũng chẳng phải nào ai làm ra. Bản tánh đây
do bản tánh không . Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản
tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là bản tánh không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao tự tướng không? Phật bảo: Thiện Hiện! Tự tướng nghĩa là tự
tướng tất cả pháp. Như biến ngăn là tự tuớng sắc, lãnh nạp là tự tướng
thọ, lấy tượng là tự tướng tưởng, tạo tác là tự tướng hành, rõ biết là tự
tướng thức. Như vậy thảy, hoặc tự tướng pháp hữu vi, hoặc tự tướng pháp vô
vi. Tự tướng đây do tự tướng không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng
phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là tự tướng không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao cộng tướng không? Phật bảo: Thiện Hiện! Cộng tướng nghĩa là
cộng tướng tất cả pháp. Như khổ là cộng tướng pháp hữu lậu, vô thường là
cộng tướng pháp hữu vi; không, vô ngã là cộng tướng tất cả pháp. Như vậy
thảy có vô lượng cộng tướng. Cộng tướng đây do cộng tướng không. Vì cớ
sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện
Hiện! Đấy là cộng tướng không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao tất cả pháp không? Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả pháp nghĩa là
năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Hoặc pháp hữu sắc vô sắc, hữu kiến vô
kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi. Tất cả pháp đây do tất
cả pháp không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh
vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là tất cả pháp không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao bất khả đắc không? Phật bảo: Thiện Hiện! Bất khả đắc, nghĩa là
tất cả pháp trong đây bất khả đắc. Như quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả
đắc, hiện tại bất khả đắc. Như quá khứ không có vị lai hiện tại khả đắc.
Như vị lai không có quá khứ hiện tại khả đắc. Như hiện tại không có quá
khứ vị lai khả đắc. Bất khả đắc đây do bất khả đắc không. Vì cớ sao? Vì
chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy
là bất khả đắc không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao vô tánh không? Phật bảo: Thiện Hiện! Vô tánh, nghĩa là trong
đây không có chút tánh khả được. Vô tánh đây do vô tánh không. Vì cớ sao?
Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện!
Đấy là vô tánh không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao tự tánh không? Phật bảo: Thiện Hiện! Tự tánh nghĩa là các pháp
năng hòa hợp tự tánh. Tự tánh đây do tự tánh không. Vì cớ sao? Vì chẳng
phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là tự
tánh không. Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế
Tôn! Vì sao vô tánh tự tánh không? Phật bảo: Thiện Hiện! Vô tánh tự tánh
nghĩa là các pháp không có năng hòa hợp tự tánh, không có sở hòa hợp tự
tánh. Vô tánh tự tánh đây do tự tánh không. Vì cớ sao? Vì chẳng phải
thường, chẳng phải hoại, bản tánh vậy là vậy. Thiện Hiện! Đấy là vô tánh
tự tánh không. Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tánh
do hữu tánh không. Vô tánh do vô tánh không. Tự tánh do tự tánh không. Tha
tánh do tha tánh không. Vì sao hữu tánh do hữu tánh không? Hữu tánh nghĩa
là năm uẩn. Hữu tánh đây do hữu tánh không là vì năm uẩn sanh tánh bất khả
đắc vậy. Đấy là hữu tánh do hữu tánh không. Vì sao vô tánh do vô tánh
không? Vô tánh nghĩa là vô vi. Vô tánh đây do vô tánh không. Đấy là vô
tánh do vô tánh không. Vì sao tự tánh do tự tánh không? Nghĩa là tất cả
pháp đều là tự tánh không. Không đây chẳng phải trí làm ra, chẳng phải
kiến làm ra, cũng chẳng phải nào ai khác làm ra được. Đấy là tự tánh do tự
tánh không. Vì sao tha tánh do tha tánh không? Nghĩa là hoặc Phật ra đời,
hoặc chẳng ra đời, tất cả pháp pháp trụ, pháp định, pháp tánh, pháp giới,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, chơn như, bất hư vọng tánh, bất biến dị
tánh, thật tế đều do tha tánh, nên không. Đấy là tha tánh do tha tánh
không. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát.