Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bèn
thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu nương thế tục thi thiết nhân quả phận vị
sai khác, chẳng nương thắng nghĩa, thời lẽ tất cả ngu phu dị sanh cũng có
quả Dư lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát và Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề? Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Đứa ngu dị sanh vì như thật giác hai lẽ chắc thế tục thắng
nghĩa chăng? Nếu như thật giác hai lẽ chắc ấy, kia cũng ưng có quả Dự lưu
thảy. Nhưng tất cả đứa ngu dĩ sanh chẳng như thật giác thế tục thắng nghĩa
nên không Thánh đạo và tu Thánh đạo. Chẳng thể thi thiết Thánh quả sai
khác. Duy chỉ các Thánh giả năng như thật giác thế tục thắng nghĩa nên có
Thánh đạo và tu Thánh đạo. Vậy nên thi thiết Thánh quả sai khác. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Kẻ tu Thánh đạo năng đắc các Thánh quả ư? Phật nói: Chẳng đắc. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Chẳng tu Thánh đạo đắc Thánh quả chăng? Phật nói: Chẳng đắc. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: nếu vậy không ai đắc Thánh quả? Phật bảo: Thiện Hiện! Tuy là
nương thế tục có đắc Thánh quả mà chẳng phải thắng nghĩa. Nếu nương thắng
nghĩa chẳng tu Thánh đạo năng đắc Thánh quả, cũng chẳng phải chẳng tu
Thánh đảo năng đắc Thánh quả, chẳng lìa Thánh đạo năng đắc Thánh quả, cũng
chẳng trụ trong Thánh đạo năng đắc Thánh quả. Sở dĩ vì sao? Vì y theo lý
thắng nghĩa đạo vào quả đạo, tu cùng chẳng tu đều bất khả đắc. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
mặc dù vì hữu tình thi thiết các thứ Thánh quả sai khác, mà chẳng phân
biệt Thánh quả như thế ở trong giới hữu vi giới vô vi. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng: Nếu các Thánh quả ư chẳng thể phân biệt ở giới hữu vi giới vô vi ấy
vì sao Thế Tôn nói dứt ba gút được quả Dự lưu. Mỏng dục tham sân được quả
Nhất lai. Dứt hết hẳn năm gút thuận hạ phần được quả Bất hoàn. Dứt hết hẳn
năm gút thuận thượng phần được quả A la hán. Biết có bao pháp trong nhóm
đều là pháp diệt, được Độc giác Bồ đề. Dứt hẳng tất cả phiền não sở tri
tập khí nối nhau được Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Bạch Thế Tôn! Tôi phải làm sao
biết nghĩa thú sâu thẳm Phật đã nói, nghĩa là chẳng phân biệt quả Dự lưu
thảy ở trong giới hữu vi giới vô vi? Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Đã nói quả Dư lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề,
chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, Thánh quả như thế vì là hữu vi, hay
là vô vi? Thiện Hiện thưa rằng: Thánh quả như thế đều là vô vi, chẳng
phải hữu vi. Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Trong giới vô vi có phân biệt chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch
Thế Tôn! Chẳng c1o. Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý
hiểu sao? Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân thông suốt tất cả hữu vi vô
vi đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng; các thiện nam tử, thiện nữ nhân
này chính lúc bấy giờ vả đối các pháp có chỗ phân biệt đây là hữu vi hoặc
vô vi chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ
tát Ma ha tát cũng lại như thế. Hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, tuy vì
hữu tình tuyên nói các pháp mà chẳng phân biệt pháp tướng đã nói, là nội
không vậy cho đến vô tánh tự tánh không vậy. Bồ tát Ma ha tát này tự đối
các pháp không sở lấy đắm, cũng năng dạy người đối trong các pháp không
lấy sở lấy đắm. Nghĩa là đối bố thí Ba la mật
đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa không sở lấy đắm. Cũng đối bốn tĩnh lự bốn
vô lượng, bốn vô sắc định không sở lấy đắm. Cũng đối bốn niệm trụ cho đến
tám thánh đạo chi không sở lấy đắm. Cũng đối nội không cho đến vô tánh tự
tánh không không sở lấy đắm. Cũng đối chơn như cho đến bất tư nghì giới
không sở lấy đắm. Cũng đối khổ tập diệt đạo thánh đế không sở lấy đắm.
Cũng đối tám giải thoát cho đến mười biến xứ không sở lấy đắm. Cũng đối Cực hỷ địa cho đến
Pháp vân địa không sở lấy đắm. Cũng đối tất cả đà la ni môn, tam ma địa
môn không sở lấy đắm. Cũng đối năm nhãn, sáu thần thông không sở lấy
đắm.Cũng đối Như lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sở
lấy đắm. Cũng đối đại từ, đại bi, đai hỷ, đại xả không sở lấy đắm. Cũng
đối ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo không sở lấy đắm. Cũng đối
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả không sở lấy đắm. Cũng đối nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí không sở lấy đắm. Cũng đối tất cả hạnh Bồ
tát Ma ha tát không sở lấy đắm. Cũng đối chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề không sở lấy đắm. Bồ tát Ma ha tát này tự đối các pháp đã nói như thế
không sở lấy đắm. Cũng năng dạy người đối pháp như thế không sở lấy đắm. Bồ tát Ma ha tát này đối các
pháp đây vì không lấy đắm nên đối tất cả xứ đều được không ngại. Như kẻ
được Phật Thế Tôn biến hóa ra, tuy hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật
đa mà đối quả kia không lấy không đắm, chỉ vì hữu tình được Niết bàn vậy.
Như vậy, cho đến tuy hành Nhất thiết trí trí mà đối quả kia không lấy
không đắm, chỉ vì hữu tình được Niết bàn vậy. Các Bồ tát Ma ha tát cũng
lại như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối tất cả pháp hoặc hữu
lậu hoặc vô lậu, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô vi,
không lấy không đắm, không trụ không ngại. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha
tát này đạt tướng vi diệu tất cả pháp vậy. Bấy giờ,
Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp đạt
tướng vi diệu? Phật
bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
như kẻ được Phật Thế Tôn biến hóa ra, chẳng hành tham dục sân nhuế ngu si.
Chẳng hành sắc uẩn cho đến thức uẩn. Cho đến chẳng hành Nhất thiết trí
trí. Chẳng hành nội pháp chẳng hành ngoại pháp. Chẳng hành tùy miên, chẳng
hành các buộc. Chẳng hành các pháp hữu lậu vô lậu. Chẳng hành các pháp thế
gian xuất thế gian. Chẳng hành các pháp hữu vi vô vi. Chẳng hành Thánh đạo
và quả Thánh đạo. Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
cũng lại như thế, đối tất cả pháp đều vô sở hành. Bồ tát Ma ha tát này thí
tất cả pháp đạt tướng vi diệu là đối pháp tánh không sở phân biệt. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là kẻ Như Lai biến hóa hiện tu Thánh
đạo? Phật
bảo: Thiện Hiện! Kẻ biến hóa kia nương tu Thánh đạo không nhiễm không
tịnh, cũng chẳng lộn quanh năm thú sanh tử, cũng chẳng chứng được Tam thừa
Niết bàn. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm thông suốt các pháp đều không thật sự? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Kẻ được chư Phật Thế Tôn biến hóa ra, vì
có thật sự, nương thật sự kia có nhiễm có tịnh; do đấy lộn quanh năm thú
sanh tử và được Tam thừa Niết bàn chăng? Thiện
Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Kẻ được Phật Thế Tôn biến hóa
chẳng có chút thật sự, chẳng nương sự kia có nhiễm có tịnh, cũng không lộn
quanh năm thú sanh tử, cũng không chứng được Tam thừa Niết bàn. Phật
bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm đối tất cả pháp thông suốt thật tướng cũng lại như thế, thông suốt
các pháp đều không thật sự tánh tướng đều không. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Vì tất cả sắc thọ tưởng hành thức, nói rộng
cho đến hữu vi vô vi tất cả đều như việc biến hóa chăng? Phật
bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Sắc thảy năm uẩn nói rộng cho đến hữu
vi vô vi tất cả đều như việc sở biến hóa. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều như biến hóa, các bị
biến hóa đều không thật, sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi vô vi cũng
không thật. Bởi đây cũng không tạp nhiễm thanh tịnh, cũng không năm thú
sanh tử lộn quanh, cũng không nghĩa từ kia được giải thoát, Bồ tát Ma ha
tát làm sao đối các hữu tình có dụng thắng sĩ? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Khi các Bồ tát Ma ha tát vốn hành đạo Bồ
tát vả thấy hữu tình khá thoát địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, thú người,
trời chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Phật
bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Khi các Bồ tát Ma ha tát vốn hành đạo
Bồ tát chẳng thấy hữu tình khá thoát năm thú và ba cõi ấy. Sở dĩ vì sao?
Vì các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp thông suốt biết thấy đều như huyễn
hóa, đều chẳng thật có. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp thông
suốt biết thấy đều như huyễn hóa, đều chẳng thật có, vì việc nào nên tu
hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến vì việc nào nên
thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu các hữu tình tự năng thông suốt tất cả pháp thông
suốt đều như huyễn hóa, đều chẳng thật có, thời các Bồ tát Ma ha tát chẳng
cần trải qua vô số đại kiếp vì các hữu tình hành đạo Bồ tát. Bởi các hữu
tình đối tất cả pháp chẳng năng thông suốt đều như huyễn hóa, đều chẳng
thật có. Vậy nên chúng các Bồ tát Ma ha tát lâu vô số kiếp vì các hữu tình
hành đạo Bồ tát. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp chẳng năng thông suốt
đều chẳng thật có, thời chẳng thể lâu vô số đại kiếp vì các hữu tình tu
hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa, nói rộng cho đến thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Vì chúng các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp
như thật thông suốt đều như huyễn hóa, đều chẳng thật có, nên vô số kiếp
vì các hữu tình tu hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa, nói rộng cho
đến thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề, năng tận vị lai lợi vui tất cả. Bấy giờ,
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như mộng, như huyễn,
như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như việc biến hóa, như
thành tầm hương, sở hóa hữu tình trụ ở chỗ nào, các Bồ tát Ma ha tát hành
Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo cứu vớt cho ra? Phật
bảo: Thiện Hiện! Sở hóa hữu tình trụ ở danh tướng hư dối phân biệt. Các Bồ
tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, từ
danh tướng hư dối phân biệt kia cứu vớt cho ra. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Những gì là danh? Những gì là tướng? Phật
bảo: Thiện Hiện! Danh chỉ là khách, chỉ là nghĩa giả thi thiết nêu rõ ra.
Nghĩa là đây danh sắc thọ tưởng hành thức. Đây danh nhãn xứ cho đến ý xứ.
Đây danh sắc xứ cho đến pháp xứ. Đây danh nhãn giới cho đến ý giới. Đây
danh sắc giới cho đến pháp giới. Đây danh nhãn thức giới cho đến ý thức
giới. Đây danh nam nữ, đây danh đại tiểu. Đây danh địa ngục cho đến người,
trời. Đây danh hữu lậu, đây danh vô lậu. Đây danh thế gian, đây danh xuất
thế gian. Đây danh
hữu vi, đây danh vô vi. Đây danh quả Dự lưu. Nói rộng cho đến đây danh Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Đây danh dị danh, đây danh Thanh văn, đây danh
Độc giác, đây danh Bồ tát, đây danh Như Lai. Thiện
Hiện! Như thế thảy tất cả danh là tiêu biểu các nghĩa, chỉ giả thi thiết
nên tất cả danh đều chẳng thật có. Các pháp hữu vi cũng chỉ có danh, do
đây vô vi cũng chẳng thật có. Ngu phu dị sanh đối trong vọng thấy. Các Bồ
tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, bi nguyện buộc lòng
phương tiện khéo léo dạy khiến xa lìa, nói lên lời này: “Danh là phân biệt
vọng tưởng khởi ra cũng là nhiều duyên hòa hợp giả lập. Các ngươi với
trong chẳng nên chấp trước. Danh không thật sự, tự tánh đều không, chẳng
phải kẻ có trí chấp trước không pháp”. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma
ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, vì các hữu
tình nói pháp khiển danh, đấy gọi là danh. Vì sao
là tướng? Thiện Hiện! Phải biết tướng có hai thứ, ngu phu dị sanh với
trong chấp trước. Những gì là hai? Chỗ gọi sắc tướng và vô sắc tướng. Sao
gọi sắc tướng? Là có bao nhiêu sắc hoặc thô hoặc tế, hoặc liệt hoặc thắng,
tất cả như thế tự tánh đều không. Đứa ngu dị sanh phân biệt chấp trước,
bảo đó là sắc, đấy gọi sắc tướng. Vô sắc tướng ấy là trong bao nhiêu pháp
vô sắc, đứa ngu dị sanh phân biệt lấy tướng, sanh các phiền não, gọi vô
sắc tướng. Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, bi
nguyện buộc lòng phương tiện khéo léo dạy các hữu tình khiến trừ hai
tướng. Lại dạy an trụ trong giới vô tướng. Tuy dạy an trụ trong giới vô
tướng mà chẳng khiến kia đọa chấp hai bên: bảo đây là tướng, đây là vô
tướng. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo khiến các hữu tình xa lìa các tướng, trụ giới vô tướng mà
không chấp trước. Bấy giờ,
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp chỉ có danh tướng, tất cả
danh tướng đều là giả lập, các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật
đa sâu thẳm làm sao đối các thiện pháp tự được tăng tiến, cũng năng khiến
người tăng tiến thiện pháp. Do tự thiện pháp tăng tiến dần nên năng khiến
các địa dần được viên mãn, cũng năng an lập các loại hữu tình khiến tùy sở
ưng trụ quả Tam Thừa? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu trong các pháp có chút thật sự chẳng chỉ giả lập có
danh tướng ấy, thời các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm nên dùng thiện pháp tự chẳng tăng tiến, cũng chẳng khiến người tăng
tiến thiện pháp. Bởi trong các pháp không chút thật sự, chỉ có giả lập thứ
thứ danh tướng. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm đối các thiện pháp tự năng tăng tiến, cũng năng khiến người tăng tiến
thiện pháp. Năng đem
vô tướng mà làm phương tiện viên mãn bát nhã cho đến bố thí Ba la mật đa.
Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng,
bốn vô sắc định. Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn bốn niệm
trụ cho đến tám thánh đạo chi. Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên
mãn không cho đến vô tánh tự tánh không. Năng đem vô tướng mà làm phương
tiện viên mãn chơn như cho đến bất tư nghì giới. Năng đem vô tướng mà làm
phương tiện viên mãn không vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Năng đem vô
tướng mà làm phương tiện viên mãn tám giải thoát cho đến mười biến xứ.
Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn Bồ tát Ma ha tát địa. Năng
đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn tất cả đà la ni môn, tam ma địa
môn. Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn năm nhãn, sáu thần
thông. Năng đem
vô tướng mà làm phương tiện viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả. Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn ba
mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Năng đem vô tướng mà làm phương
tiện viên mãn pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Năng đem
vô tướng mà làm phương tiện viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí. Năng đem vô tướng mà làm phương tiện viên mãn hạnh Bồ tát
Ma ha tát và chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Năng đem vô tướng mà làm
phương tiện viên mãn Nhất thiết trí trí. Năng đem vô tướng mà làm phương
tiện viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Như vậy,
Thiện Hiện! Bởi tất cả pháp không chút thật sự, chỉ có giả lập thứ thứ
danh tướng, các Bồ tát Ma ha tát đối trong chẳng khởi điên đảo chấp trước,
năng đem vô tướng mà làm phương tiện, đối các thiện pháp tự tăng tiến rồi,
cũng năng khiến người tăng tiến thiện pháp. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu trong các pháp có tướng thật pháp lượng chừng đầu lông ấy,
thời các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối tất
cả pháp chẳng ưng giác tri vô tướng vô niệm, cũng vô tác ý vô lậu tánh
rồi, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, an lập hữu tình nơi pháp vô
lậu, vì các pháp vô lậu đều vô tướng vô niệm vô tác ý vậy. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo an lập hữu tình nơi pháp vô lậu, mới gọi chân thật nhiêu ích
hữu tình. Cụ thọ
Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu tánh chơn vô lậu tất cả pháp vô tướng
vô niệm vô tác ý ấy, Thế Tôn duyên nào ở trong các Kinh hằng nói lời này:
Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu. Đây là pháp thế gian, đây là pháp
xuất thế gian. Đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Đây là pháp thanh
văn, đây là pháp Độc giác. Đây là pháp Bồ tát, đây là pháp Như Lai? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Pháp hữu lậu thảy cùng tánh pháp vô tướng
thảy vô lậu có sai khác chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng
khác. Phật
bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Pháp Thanh văn thảy cùng tánh pháp vô
tướng thảy vô lậu có sai khác chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng khác. Phật
bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Pháp hữu lậu thảy đâu chẳng tức là vô
tướng vô niệm cũng tánh pháp vô tác ý vô lậu? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch
Thế Tôn! Như vậy. Phật
bảo: Thiện Hiện! Các quả Dự lưu cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đâu
chẳng tức là vô tướng vô niệm cũng tánh pháp vô tác ý vô lậu? Thiện Hiện
thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy. Phật
bảo: Thiện Hiện! Do đây phải biết các pháp đều là vô tướng vô niệm, cũng
tánh pháp vô lậu vô tác ý. Thiện
Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học tất cả pháp vô tướng vô niệm,
cũng tánh vô lậu vô tác ý thường được tăng trưởng các thứ thiện pháp. Chỗ
gọi bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa, nói rộng cho đến nhất thiết tướng
trí, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tất cả Phật pháp các như
thế thảy đều do tu học vô tướng vô niệm, cũng tánh pháp vô lậu vô tác ý mà
được tăng trưởng. Sở dĩ vì
sao? Vì các Bồ tát Ma ha tát ngoại trừ môn không vô tướng vô nguyện giải
thoát, lại không có các pháp yếu nào đáng học. Vì cớ sao? Vì ba môn giải
thoát tổng nhiếp tất cả pháp diệu thiện vậy. Sở dĩ vì sao? Môn không giải
thoát quán tất cả pháp tự tướng đều không. Môn vô tướng giải thoát quán
tất cả pháp xa lìa các tướng. Môn vô nguyện giải thoát quán tất cả pháp xa
lìa sở nguyện. Các Bồ tát Ma ha tát nương ba môn đây năng nhiếp tất cả
pháp thù thắng. Lìa ba môn đây, chỗ nên tu học pháp lành thù thắng đều
chẳng sanh trưởng. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng học được ba môn giải thoát như thế
thời năng học năm uẩn. Cũng năng học mười hai xứ. Cũng năng học mười tám
giới. Cũng năng học bốn thánh đế. Cũng năng học mười hai duyên khởi. Cũng
năng học nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng năng học chơn như
cho đến bất tư nghì giới. Cũng năng học bố thí Ba la mật đa cho đến Bát
nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến cũng năng học nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng năng học thành thục hữu tình, nghiêm
tịnh cõi Phật. Cũng năng học vô lượng vô biên các Phật pháp khác. Cụ thọ
Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học năm uẩn? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm năng như thật biết sắc cho đến thức hoặc tướng, hoặc sanh diệt, hoặc
chơn như. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
năng học năm uẩn. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết tướng sắc? Là Bồ tát Ma ha tát
như thật biết sắc rốt ráo có lỗ, rốt ráo có hở, như bóng bọt nước, tánh
chẳng bền chắc. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát như thật biết tướng sắc. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết sắc sanh diệt? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết sắc khi sanh không từ đâu đến, khi diệt không đi đến
đâu, mặc dù không đến không đi mà tương ưng sanh diệt. Đấy gọi Bồ tát Ma
ha tát như thật biết sắc sanh diệt. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết sắc chơn như? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết sắc chơn như không sanh không diệt, không đến không đi,
không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, thường như tánh nó, chẳng
hư dối, chẳng biến đổi, nên gọi chơn như. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát như
thật biết sắc chơn như. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết tướng thọ? Là Bồ tát Ma ha tát
như thật biết thọ rốt ráo như mụt ung, rốt ráo như chiếc tên, chóng khởi
chóng diệt, in như bọt nổi, hư ngụy chẳng trụ, ba hòa hợp khởi. Đấy gọi Bồ
tát Ma ha tát như thật biết tướng thọ. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết thọ sanh diệt? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật thọ khi sanh chẳng từ đâu đến, khi diệt chẳng đi đến đâu, mặc
dù không đến không đi mà tương ưng sanh diệt. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát như
thật biết thọ sanh diệt. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết thọ chơn như? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết thọ chơn như không sanh không diệt, không đến không đi,
không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, thường như tánh nó, chẳng
hư dối, chẳng biến đổi, nên gọi chơn như. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát như
thật biết thọ chơn như. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết tướng tưởng? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết tưởng in như ánh nắng nước chẳng thể được, nhân duyên
khát ái vọng sanh tưởng này, phát lời nói giả. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát
như thật biết tướng tưởng. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết tưởng sanh diệt? Là Bồ tát Ma
ha tát như thật biết tưởng khi sanh không từ đâu đến, khi diệt không đi
đến đâu. Mặc dù không đến không đi mà tương ưng sanh diệt. Đấy gọi Bồ tát
Ma ha tát như thật biết tưởng sanh diệt. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết tưởng chơn như? Là Bồ tát Ma
ha tát như thật biết tưởng chơn như không sanh không diệt, không đến không
đi, không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, thường như tánh nó,
chẳng hư dối, chẳng biến đổi, nên gọi chơn như. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát
như thật biết tưởng chơn như. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết tướng hành? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết hành như cây chuối, lột bỏ từng bẹ thật chẳng thể được.
Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát như thật biết tướng hành. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết hành sanh diệt? Là Bồ tát Ma
ha tát như thật biết hành khi sanh chẳng từ đâu đến, khi diệt chẳng đi đến
đâu, mặc dù không đến không đi mà tương ưng sanh diệt. Đấy gọi Bồ tát Ma
ha tát như thật biết hành sanh diệt. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết hành chơn như? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết hành chơn như không sanh không diệt, không đến không đi,
không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, thường như tánh nó, chẳng
hư dối, chẳng biến đổi, nên gọi chơn như. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát như
thật biết hành chơn như. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết tướng thức? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết thức giống như việc huyễn; nhiều duyên hòa hợp giả thi
thiết có thật chẳng thể được. Nghĩa là như một thầy huyễn hoặc kẻ học trò
ở đường ngã tư huyễn làm bốn quân, chỗ gọi quân voi, quân ngựa, quân xe,
quân bộ; hoặc lại huyễn làm các thứ sắc loại, tướng tuy giống như có mà
không nơi thật. Thức cũng như thế, thật chẳng thể được. Đấy gọi Bồ tát Ma
ha tát như thật biết tướng thức. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết thức sanh diệt? Là Bồ tát Ma
ha tát như thật biết thức khi sanh không từ đâu đến, khi diệt chẳng đi đến
đâu, mặc dù không đến không đi mà tương ưng sanh diệt. Đấy gọi Bồ tát Ma
ha tát như thật biết thức sanh diệt. Thiện
Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát như thật biết thức chơn như? Là Bồ tát Ma ha
tát như thật biết thức chơn như không sanh không diệt, không đến không đi,
không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, thường như tánh nó, chẳng
hư dối, chẳng biến đổi, nên gọi chơn như. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát như
thật biết thức chơn như. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học mười hai xứ? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm như thật biết nội xứ, tự tánh nội xứ không; như thật biết ngoại xứ,
tự tánh ngoại xứ không. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm năng học mười hai xứ. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học mười tám giới? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm như thật biết nhãn giới, tự tánh nhãn giới không. Nói rộng cho đến
như thật biết ý thức giới, tự tánh ý thức giới không. Đấy gọi Bồ tát Ma ha
tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng học mười tám giới. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học bốn thánh đế? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm như thật biết tướng khổ là bức ngặt, như thật biết tướng tập là sanh
khởi, như thật biết tướng diệt là vắng lặng, như thật biết tướng đạo là xa
lìa. Lại như thật biết tự tánh khổ tập diệt đạo vốn không, xa lìa hai pháp
là lý chắc Thánh giả. Khổ thảy bốn đế tức là chơn như, chơn như tức là khổ
thảy bốn đế, không hai không riêng, duy kẻ chơn Thánh mới như thật biết
được. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng
học bốn đế. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học mười hai duyên khởi? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm như thật biết tự tánh vô minh cho đến lão tử không sanh không diệt,
không nhiễm không tịnh vốn không, xa lìa hai pháp. Đấy gọi Bồ tát Ma ha
tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng học mười hai duyên khởi. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học nội không cho đến vô tánh tự tánh không? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm như thật biết nội không cho đến vô tánh tự tánh không đều vô tự tánh,
đều bất khả đắc mà năng an trụ. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã
Ba la mật đa sâu thẳm năng học nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học chơn như cho đến bất tư nghì giới? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm như thật biết chơn như cho đến bất tư nghì giới đều không hý luận,
trọn không phân biệt mà năng an trụ, đấy gọi Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng học chơn như cho đến bất tư nghì giới. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm năng học bố thí Ba la mật đa cho đến vô lượng vô biên
Phật pháp? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm như thật biết bố thí Ba la mật đa cho đến vô lượng vô biên Phật pháp
không tăng không giảm, không nhiễm không tịnh, không tự tánh, chẳng khả
đắc mà năng tu tập. Đấy gọi Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa
sâu thẳm năng học bố thí Ba la mật đa cho đến vô lượng vô biên Phật pháp. Bấy giờ,
Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm như thật biết rõ các pháp sắc thảy mỗi riêng không loạn,
Thế Tôn đâu không đem pháp sắc thảy hoại chơn pháp giới? Sở dĩ vì sao? Vì
pháp giới không hai không riêng khác vậy. Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu lìa pháp giới các pháp khá được, nên nói pháp kia
năng hoại pháp giới. Nhưng lìa pháp giới không pháp khá được, nên các pháp
không năng hoại pháp giới. Sở dĩ vì sao? Chư Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh
văn biết lìa pháp giới không pháp khá được. Đã biết không pháp lìa nơi
pháp giới, cũng chẳng vì người thi thiết tuyên nói. Vậy nên, pháp giới
không ai năng hoại. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
nên học tướng pháp giới không hai không riêng chẳng thể hoại được. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn học pháp giới nên
học ở đâu? Phật
bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn học pháp giới nên học nơi tất
cả pháp. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp đều vào pháp giới vậy. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Vì nhân duyên nào nói tất cả pháp đều vào
pháp giới? Phật
bảo: Thiện Hiện! Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, lẽ vậy các pháp đều vào
pháp giới, không tướng sai khác, chẳng bởi Phật nói. Sở dĩ vì sao? Hoặc
pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc
pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi hoặc pháp vô vi,
tất cả pháp như thế thảy không pháp nào chẳng đều vào pháp giới tánh không
vô tướng vô vi. Vậy nên,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
muốn học pháp giới nên học tất cả pháp, nếu học tất cả pháp tức học pháp
giới. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều vào pháp giới, không
hai không riêng, các Bồ tát Ma ha tát vì sao phải học sáu Ba la mật đa? Vì
sao phải học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Vì sao phải học
bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Vì sao phải học nội không cho đến
vô tánh tự tánh không. Vì sao phải học chơn như cho đến bất tư nghì giới.
Vì sao phải học khổ tập diệt đạo thánh đế? Vì sao
phải học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Vì sao phải học tám
giải thoát cho đến mười biến xứ. Vì sao phải học Cực hỷ địa cho đến Pháp
vân địa. Vì sao phải học tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Vì sao phải
học năm nhãn, sáu thần thông. Vì sao phải học Như Lai mười lực cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao phải học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả? Vì sao phải học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Vì sao phải học
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Vì sao phải học thành
mãn ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo? Vì sao
phải học sanh đại tộc Sát đế lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Vì sao phải học
sanh trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại. Vì sao phải học
sanh trời Phạm chúng cho đến trời Quảng quả. Vì sao phải học pháp sanh
trời Vô tưởng hữu tình mà chẳng muốn sanh kia. Vì sao phải học pháp sanh
trời Tịnh cư mà chẳng muốn sanh kia. Vì sao phải học pháp sanh trời Không
vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, mà chẳng muốn sanh
kia. Vì sao phải học sơ phát Bồ đề tâm cho đến phát tâm Bồ đề thứ mười. Vì
sao phải học tới vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Vì sao phải học tất cả
Thanh văn và bậc Độc giác mà chẳng tác chứng. Vì sao phải học thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Vì sao phải học các đà la ni và vô ngại
biện. Vì sao phải học tất cả đạo Bồ tát Ma ha tát và chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề? Học như thế rồi biết tướng tất cả pháp, tất cả chủng,
mới năng chứng được Nhất thiết trí trí? Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong pháp giới có thứ thứ phân biệt sai khác như
thế thảy? Đâu không có chúng Bồ tát Ma ha tát do đây phân biệt hành nơi
điên đảo, trong không hý luận khởi các hý luận. Vì cớ sao? Trong chơn pháp
giới đều không việc phân biệt hý luận vậy. Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng sắc thọ tưởng hành thức, cũng chẳng lìa sắc
thọ tưởng hành thức. Sắc cho đến thức tức là pháp giới, pháp giới tức là
sắc cho đến thức. Nói rộng cho đến pháp giới chẳng pháp hữu vi vô vi, cũng
chẳng lìa pháp hữu vi vô vi. Pháp hữu vi vô vi tức là pháp giới, pháp giới
tức là hữu vi vô vi. Phật
bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Trong chơn pháp giới
không tất cả thứ phân biệt hý luận. Pháp giới chẳng sắc thọ tưởng hành
thức, cũng chẳng lìa sắc thọ tưởng hành thức. Pháp giới tức sắc thọ tưởng
hành thức, sắc thọ tưởng hành thức tức pháp giới. Nói rộng cho đến pháp
giới chẳng pháp hữu vi vô vi, chẳng lìa pháp hữu vi vô vi. Pháp giới tức
pháp hữu vi vô vi, pháp hữu vi vô vi tức pháp giới. Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
nếu thấy có pháp lìa pháp giới ấy, bèn chẳng chính tới sở cầu Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thấy các pháp lìa chơn pháp giới. Thiện
Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm biết tất cả pháp tức chơn pháp giới, phương tiện khéo léo pháp vô
danh tướng, vì các hữu tình gởi thuyết danh tướng. Nghĩa là
đây là sắc thọ tưởng hành thức. Đây là nhãn xứ cho đến ý xứ. Đây là sắc xứ
cho đến pháp xứ. Đây là nhãn giới cho đến ý giới. Đây là sắc giới cho đến
pháp giới. Đây là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Đây là nhãn xúc cho
đến ý xúc. Đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ. Đây là
địa giới cho đến thức giới. Đây là nhân duyên cho đến tăng thượng duyên.
Đây là các pháp theo duyên sanh ra. Đây là vô minh cho đến lão tử. Đây là
pháp thiện, pháp phi thiện. Đây là pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Đây là pháp
thế gian, pháp xuất thế gian. Đây là pháp hữu vi, pháp vô vi. Đây là bố
thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến đây là Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Như thầy
thợ huyễn hoặc học trò kia cầm nắm chút vật ở trước đông người huyễn làm
các thứ sắc tượng khác lạ. Nghĩa là hoặc huyễn làm nam nữ lớn nhỏ. Hoặc
lại huyễn làm voi ngựa trâu dê, lạc đà, lừa, gà thảy các thứ cầm thú. Hoặc
lại huyễn làm thành ấp, xóm làng, vườn rừng, ao hồ, các thứ trang nghiêm
rất nên ưa muốn. Hoặc lại huyễn làm ăn mặc, uống ăn, phòng nhà, đồ nằm,
hoa hương, chuổi ngọc, các thứ ngọc lạ, của lúa kho tàng. Hoặc lại huyễn
làm vô lượng thứ loại kỹ nhạc con hát, làm cho vô lượng người vui mừng
hưởng lạc. Hoặc lại huyễn làm các thứ hình tướng khiến hành bố thí, hoặc
khiến trì giới, hoặc khiến tu nhẫn, hoặc khiến tinh tiến, hoặc khiến tập
định, hoặc khiến học huệ. Hoặc lại hiện sanh đại tộc Sát đế lợi cho đến
đại tộc Cư sĩ. Hoặc lại huyễn làm các núi, biển cả, núi chúa Diệu cao, núi
Luân vi thảy. Hoặc lại hiện sanh trời bốn đại vương chúng cho đến trời Phi
tưởng phi phi tưởng xứ. Hoặc lại hiện làm Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, Độc giác. Hoặc lại
hiện làm Bồ tát Ma ha tát từ sơ phát tâm tu hành bố thí cho đến bát nhã Ba
la mật đa; tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định; tu hành bốn
niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, tu hành không, vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Học trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, học trụ
chơn như cho đến bất tư nghì giới, học trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Tới
vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.
Phát dẫn các thứ thần thông thù thắng, phóng quang minh lớn soi các thế
giới. Nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Du đạo tất cả tĩnh lự,
giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Tu hành các thứ công đức chư Phật. Hoặc
lại huyễn làm hình tượng Như Lai đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu, tám
mươi tùy hảo viên mãn trang nghiêm; trọn nên mười lực, bốn vô sở uý, bốn
vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả
và vô lượng vô biên công đức. Thầy
huyễn hoặc kẻ học trò như thế vì dối gạt người nên ở trước đám đông người
huyễn làm các việc huyễn hóa đây thảy. Đối trong ấy nam nữ lớn nhỏ vô trí
thấy việc này rồi đều kinh khen rằng: “Người này lạ thay, khéo học các tài
giỏi, năng làm các việc rất lạ hiếm có. Cho đến năng làm thân Như Lai
tướng hảo trang nghiêm đủ các công đức. Tự hiển nghệ thuật tài giỏi.” Kẻ có
trí đối trong ấy thấy việc này rồi khởi suy nghĩ đây: “Rất là thần dị,
người này làm sao năng hiện việc đây. Với trong mặc dù không thật pháp khá
được, mà khiến cho nhiều người mê lầm vui thích. Với không thật vật khởi
tưởng thật vật”. Duy kẻ có trí mới rõ thấu đều không, tuy có thấy nghe mà
không chấp trước. Các Bồ
tát Ma ha tát cũng lại như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm tuy
chẳng thấy pháp giới lìa các pháp mà có, cũng chẳng thấy các pháp lìa pháp
giới mà có, chẳng thấy hữu tình và thi thiết kia thật có khá được, mà năng
phát sanh phương tiện khéo léo tự tu sáu Ba la mật đa, cũng khuyên người
tu hành sáu Ba la mật đa, xưng nêu pháp tu hành sáu Ba la mật đa không
trái, vui mừng khen ngợi kẻ tu hành sáu Ba la mật đa. Nói rộng cho đến tự
viên mãn nhất thiết tướng trí, cũng khuyên người viên mãn nhất thiết tướng
trí, xưng nêu pháp viên mãn nhất thiết tướng trí không trái, vui mừng khen
ngợi kẻ viên mãn nhất thiết tướng trí. Tự viên mãn ba mươi hai tướng tám
mươi tùy hảo, cũng khuyên người viên mãn ba mươi hai tướng tám mươi tùy
hảo, xưng nêu pháp viên mãn ba mươi hai tướng tám mươi tùy hảo không trái,
vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn ba mươi hai tướng tám mươi tùy hảo. Thiện
Hiện phải biết: Nếu chơn pháp giới ngằn trước giữa sau có sai khác ấy,
thời các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thể
thi thiết phương tiện khéo léo, vì các hữu tình thuyết chơn pháp giới,
nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát,
chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng hữu
tình. Vì chơn pháp giới ngằn trước giữa sau thường không sai khác. Vậy
nên, Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thi thiết các
thứ phương tiện khéo léo, vì các hữu tình thuyết chơn pháp giới, nghiêm
tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát, chứng
được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình.
Nguồn: www.quangduc.com