Phần
11
Chương
XI : Tương Ưng Sakka
Phẩm Thứ Nhất
I. Suviira (S.i,216)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"- Này các Tỷ-kheo." - Bạch Thế Tôn. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
4) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các Asuura (A-tu-la) tấn công Thiên chủ. Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi Thiên tử Suviira:
" - Này Suvìra thân yêu, các Asuura ấy tấn công chư Thiên. Này Suviira thân yêu, hãy đi nghênh đánh các Asuura".
" - Thưa vâng, Tôn giả".
Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Suviira vâng đáp Thiên chủ Sakka, nhưng phóng dật, không chịu làm gì.
5) Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi Thiên tử Suviira:
" - Này Suviira thân yêu, các Asuura ấy tấn công chư Thiên. Này Suviira thân yêu, hãy đi nghênh đánh các Asuura".
" - Thưa vâng, Tôn giả"
Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Suviira vâng đáp Thiên chủ Sakka, nhưng phóng dật, không chịu làm gì.
6) Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi Thiên tử Suvìra:
" - Này Suviira thân yêu, các Asuura ấy tấn công chư Thiên. Này Suviira thân yêu, hãy đi nghênh đánh các Asuura."
" - Thưa vâng, Tôn giả."
Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Suviira vâng đáp Thiên chủ Sakka, nhưng phóng dật không chịu làm gì.
7) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ với Thiên tử Suviira:
Không nỗ lực,
tinh cần,
Vẫn đạt được
an lạc,
Suvìra hãy đi,
Giúp ta đạt
pháp ấy.
(Suvìra):
8) Kẻ nhác, không
nỗ lực,
Và không làm
việc gì,
Mọi ước
vọng thành đạt,
Hướng tối thượng
là gì?
(Này Sakka).
(Sakka):
9) Kẻ nhác, không
nỗ lực,
Chứng được
tối hậu lạc.
Suvìra hãy đi,
Giúp ta đạt
pháp ấy.
(Suvìra):
10) Này Thiên
chủ Sakka,
Không làm,
chứng lạc ấy,
Không sầu, không
nhiệt não,
Hướng tối thượng
là gì?
(Này Sakka).
(Sakka):
11) Nếu không
có làm gì,
Thời không có
tái sanh,
Đường ấy hướng
Niết-bàn.
Suvìra, hãy đi,
Giúp ta đạt
pháp ấy.
12) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka ấy, sống nhờ quả công đức của mình, trị vì và cai trị chư Thiên ở Tam thập tam thiên, sẽ là người tán thán nỗ lực và tinh tấn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Ông làm cho sáng chói, vị ấy khi các Ông xuất gia trong pháp luật khéo thuyết như vậy, nỗ lực, tinh cần hay tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, để chứng được những gì chưa chứng, để ngộ được những gì chưa ngộ.
II. Susiima (S.i,217)
1) Trú ở Sàvatthi, tại Jetavana.
2) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo." "-- Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
4) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa các A-tu-la tấn công chư Thiên. Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi Thiên tử Susiima:
" - Này Susìma thân yêu, các A-tu-la ấy tấn công chư Thiên. Này Susìma thân yêu, hãy đi nghênh đánh các A-tu-la."
"- Thưa vâng, Tôn giả."
Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Susiima vâng đáp Thiên chủ Sakka, nhưng phóng dật, không chịu làm gì.
5) Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi Thiên tử Susiima... nhưng phóng dật, không chịu làm gì.
6) Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi Thiên tử Susiima... nhưng phóng dật, không chịu làm gì.
7) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ với Thiên tử Susiima:
Không nỗ lực
tinh cần,
Vẫn đạt được
an lạc,
Susìma hãy đi,
Giúp ta đạt
pháp ấy.
(Susiima):
8) Kẻ nhác không
nỗ lực,
Và không làm
được gì,
Mọi dục (Kàma)
đều thành đạt,
Hướng tối thượng
là gì?
(Này Sakka)
(Sakka):
9) Kẻ nhác không
nỗ lực,
Chứng được
tối hậu lạc,
Susiima hãy đi,
Giúp ta đạt
pháp ấy.
(Susiima):
10) Này Thiên
chủ Sakka,
Không làm,
chứng lạc ấy,
Không sầu, không
nhiệt não,
Hướng tối thượng
là gì?
(Này Sakka).
(Sakka):
11) Nếu không
có làm gì,
Thời không có
tái sanh,
Đường ấy hướng
Niết-bàn,
Susìma, hãy đi,
Giúp ta đạt
quả ấy.
12) Này
các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka ấy, sống nhờ quả công đức
của mình, trị vì và cai trị chư Thiên ở Tam thập tam thiên,
sẽ là người tán thán, nỗ lực và tinh tấn. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, các Ông làm cho sáng chói vị ấy khi các Ông xuất
gia trong pháp luật khéo thuyết như vậy, nỗ lực, tinh cần,
tinh tấn để đạt được những gì chưa đạt, để chứng
những gì chưa chứng, để ngộ những gì chưa ngộ.
III. Dhajaggam: ĐẦU LÁ CỜ (S.i,218)
1) (Thế Tôn) trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo." "-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn." Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3) Thế Tôn nói như sau:
4) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, một cuộc chiến dữ dội khởi lên giữa chư Thiên và các Asùra.
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
" - Này thân hữu, khi các Ông lâm chiến, nếu sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên; lúc ấy, các Ông hãy nhìn nơi đầu ngọn cờ của ta. Khi các Ông nhìn lên đầu ngọn cờ của ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược sẽ tiêu diệt.
6) Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của ta, thời hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, cũng sẽ tiêu diệt.
7) Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên cũng sẽ tiêu diệt.
8) Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, cũng sẽ tiêu diệt."
9) Này các Tỷ-kheo, khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên chủ Sakka, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược được khởi lên, có thể sẽ biến diệt và sẽ không biến diệt.
10) Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì Thiên chủ Sakka chưa đoạn diệt tham, chưa đoạn diệt sân, chưa đoạn diệt si, còn nhát gan, hoảng hốt, hoảng sợ, hoảng chạy.
11) Và này các Tỷ-kheo, Ta nói như sau: Này các Tỷ-kheo, khi các Ông đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta: "Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn".
12) Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt.
13) Nếu các Ông không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: "Đây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu."
14) Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.
15) Nếu các Ông không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc như pháp hành, tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời."
16) Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.
17) Vì sao? Này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy.
18) Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói vậy xong, bậc Đạo Sư nói tiếp:
Này các vị
Tỷ-kheo,
Trong rừng hay
gốc cây,
Hay tại căn nhà
trống,
Hãy niệm bậc
Chánh Giác.
Các Ông có
sợ hãi,
Sợ hãi sẽ tiêu
diệt.
Nếu không tư
niệm Phật,
Tối thượng
chủ ở đời,
Và cũng là Ngưu
vương,
Trong thế
giới loài Người,
Vậy hãy tư
niệm Pháp,
Hướng thượng,
khéo tuyên thuyết.
Nếu không tư
niệm Pháp,
Hướng thượng,
khéo tuyên thuyết,
Vậy hãy tư
niệm Tăng,
Là phước điền
vô thượng.
Vậy này các
Tỷ-kheo,
Như vậy tư
niệm Phật,
Tư niệm Pháp
và Tăng,
Sợ hãi hay
hoảng hốt,
Hay lông tóc
dựng ngược,
Không bao giờ
khởi lên.
IV. Vepacitti Hay Kham Nhẫn (S.i,220)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana... (như trên)...
2) Thế Tôn thuyết như sau:
3) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, cuộc chiến xảy ra giữa chư Thiên và các Asura, rất là khốc liệt.
4) Này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la gọi các A-tu-la:
"- Này Thân hữu, trong cuộc chiến đang khởi lên giữa chư Thiên và loài A-tu-la, rất là khốc liệt, nếu các A-tu-la thắng và chư Thiên bại, hãy trói Thiên chủ Sakka (hai tay, hai chân) và thứ năm là cổ và dắt vị ấy đến trước mặt ta, trong thành của các A-tu-la."
5) Còn Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
"- Này Thân hữu, trong trận chiến giữa chư Thiên và các loài A-tu-la, trận chiến rất khốc liệt, nếu chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại, hãy trói Vepacitti, vua các A-tu-la (hai tay, hai chân) thứ năm là cổ, và dắt vị ấy lên trước mặt ta, trong giảng đường Sudhamma (Thiện Pháp)".
6) Nhưng này các Tỷ-kheo trong trận chiến ấy chư Thiên thắng và các loài A-tu-la bại.
7) Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên trói A-tu-la vương Vepacitti, trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, rồi dẫn đến trước mặt Thiên chủ Sakka, trong giảng đường Sudhamma.
8) Tại đây, này các Tỷ-kheo, vua các A-tu-la, Vepacitti bị trói hai tay, hai chân và thứ năm là cổ, khi Thiên chủ Sakka đi vào và đi ra khỏi giảng đường Sudhamma, nhiếc mắng, mạ lỵ Thiên chủ Sakka với những lời thô ác, độc ngữ.
9) Rồi này các Tỷ - kheo, người đánh xe Màtali nói lên những bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Này Thiên chủ
Sakka,
Có phải là Ông
sợ,
Hay vì Ông
yếu hèn,
Nên mới phải
kham nhẫn,
Khi Ông nghe ác
ngữ,
Từ Vepacitti?
(Sakka):
10) Không phải
vì sợ hãi,
Không phải vì
yếu hèn,
Mà ta phải
kham nhẫn,
Với Vepacitti.
Sao kẻ trí như
ta,
Lại liên hệ
người ngu?
(Màtali):
11) Kẻ ngu càng
nổi khùng,
Nếu không người
đối trị,
Vậy với hình
phạt nặng,
Kẻ trí trị
người ngu.
(Sakka):
12) Như vậy
theo ta nghĩ,
Chỉ đối
trị người ngu,
Biết kẻ khác
phẫn nộ,
Giữ niệm tâm
an tịnh.
(Màtali):
13) Hỡi này Vàsana,
Sự kham nhẫn
như vậy,
Ta thấy là
lỗi lầm,
Khi kẻ ngu nghĩ
rằng:
"Vì sợ ta,
nó nhẫn"
Kẻ ngu càng hăng
tiết,
Như bò thấy
người chạy,
Càng hung hăng
đuổi dài.
(Sakka):
14) Hãy để nó
suy nghĩ,
Như ý nó mong
muốn,
Nghĩ rằng, ta
kham nhẫn,
Vì ta sợ hãi
nó.
Trong tư lợi
tối thượng,
Không gì hơn
kham nhẫn.
Người đầy
đủ sức mạnh,
Chịu nhẫn người
yếu kém,
Nhẫn ấy gọi
tối thượng,
Thường nhẫn
kẻ yếu hèn.
Sức mạnh
của kẻ ngu,
Được xem là
sức mạnh,
Thời sức
mạnh kẻ mạnh,
Lại được
gọi yếu hèn.
Người mạnh
hộ trì pháp,
Không nói lời
phản ứng,
Bị mắng
nhiếc, mắng lại,
Ác hại nặng
nề hơn.
Bị mắng, không
mắng lại,
Được chiến
thắng hai lần.
Sống lợi ích
cả hai,
Lợi mình và
lợi người,
Biết kẻ khác
tức giận,
Giữ niệm, tâm
an tịnh,
Là y sĩ cả
hai,
Chữa mình và
chữa người,
Quần chúng nghĩ
là ngu,
Vì không giỏi
Chánh pháp.
15) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka ấy đã tự nuôi sống với quả công đức của mình, đã ngự trị và cai trị chư Thiên Tam thập tam thiên, sẽ nói lời tán thán nhẫn nhục và nhu hòa.
16) Ở
đây, này các Tỷ-kheo, các Ông hãy làm chói sáng pháp luật này
bằng cách trong khi xuất gia trong pháp và luật khéo giảng này,
hãy thật hành kham nhẫn và nhu hòa.
V. Thắng Lợi Nhờ Thiện Ngữ (S.i,222)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, một trận chiến kịch liệt xảy ra giữa chư Thiên và các Asura.
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
" - Này Thiên chủ, hãy chấp nhận, ai khéo nói, người ấy thắng."
" - Này Vepacitti, ta chấp nhận, ai khéo nói, người ấy thắng."
4) Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên và các Asura sắp các hội chúng và nói:
" - Hội chúng này sẽ phán đoán ai khéo nói, ai không khéo nói."
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
"- Này Thiên chủ, hãy nói lên bài kệ".
6) Được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với Vepacitti, vua các A-tu-la:
"- Này Vepacitti, ở đây, Ông là vị Thiên lớn tuổi hơn. Này Vepacitti, hãy nói lên bài kệ".
7) Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, vua các A-tu-la, Vepacitti nói lên bài kệ này:
Kẻ ngu càng
nổi khùng,
Nếu không người
đối trị,
Vậy với hình
phạt nặng,
Kẻ trí trị
người ngu.
8) Này các Tỷ-kheo, các A-tu-la tán thán bài kệ của Vepacitti, vua các A-tu-la. Còn chư Thiên thời im lặng.
9) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
"- Này Thiên chủ, hãy nói lên bài kệ".
10) Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ này:
Như vậy theo
ta nghĩ,
Chỉ chế ngự
người ngu,
Biết kẻ khác
phẫn nộ,
Giữ niệm, tâm
an tịnh.
11) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên tán thán bài kệ của Thiên chủ Sakka, còn các A-tu-la thời im lặng.
12) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với Vepacitti, vua các A-tu-la:
"- Này Vepacitti, hãy nói lên bài kệ"
(Vepacitti):
Hỡi này Vàsava,
Sự kham nhẫn
như vậy,
Ta thấy là
lầm lỗi,
Khi kẻ ngu nghĩ
rằng:
"Vì sợ ta,
nó nhẫn".
Kẻ ngu càng hăng
tiết,
Như bò thấy
người chạy,
Càng hung hăng đuổi dài.
13) Này các Tỷ-kheo, các A-tu-la tán thán bài kệ của Vepacitti, vua các A-tu-la, còn chư Thiên thời im lặng.
14) Rồi Vepacitti, vua các A-tu-la, nói với Thiên chủ Sakka:
"- Này Thiên chủ, hãy nói lên bài kệ".
15) Khi được nói vậy, này các Tỷ kheo, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ này:
Hãy để nó
suy nghĩ,
Như ý nó mong
muốn,
Nghĩ rằng ta
kham nhẫn,
Vì ta sợ hãi
nó.
Trong tư lợi
tối thượng,
Không gì hơn
kham nhẫn.
Người đầy
đủ sức mạnh,
Chịu nhẫn người
yếu kém,
Nhẫn ấy gọi
tối thượng.
Thường nhẫn
kẻ yếu hèn,
Sức mạnh
của kẻ ngu,
Được xem là
sức mạnh,
Thời sức
mạnh kẻ mạnh,
Lại được
gọi yếu hèn.
Người mạnh
hộ trì pháp,
Không nói lời
phản ứng.
Bị mắng,
nhiếc mắng lại,
Sẽ hại nặng
nề hơn.
Bị mắng, không
mắng lại,
Được chiến
thắng hai lần.
Sống lợi ích
cả hai,
Lợi mình và
lợi người,
Biết kẻ khác
tức giận,
Giữ niệm, tâm
an tịnh,
Là y sĩ cả
hai,
Chữa mình và
chữa người,
Quần chúng nghĩ
là ngu,
Vì không giỏi
Chánh pháp.
16) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên tán thán bài kệ của Thiên chủ Sakka, còn các A-tu-la thời im lặng.
17) Rồi này các Tỷ-kheo, hội chúng chư Thiên và A-tu-la nói như sau:
18) "Những bài kệ của Vepacitti, vua các A-tu-la, nói lên là những lời bạo lực, những lời đao kiếm, đưa đến đấu tranh, bất hòa, gây hấn.
19) "Còn những bài kệ, Thiên chủ Sakka nói lên là những lời không thuộc bạo lực, những lời không thuộc đao kiếm, không đưa đến đấu tranh, không đưa đến bất hòa, không đưa đến gây hấn, thắng lợi đã về Thiên chủ Sakka, nhờ khéo nói".
20) Như
vậy, này các Tỷ-kheo, thắng lợi về Thiên chủ Sakka nhờ khéo
nói.
VI. Tổ Chim (S.i,224)
1) Nhân duyên ở Sàvatthi.
2) - Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, giữa chư Thiên và các A-tu-la, xảy ra cuộc chiến rất ác liệt.
3) Này các Tỷ-kheo, trong cuộc chiến ấy, các A-tu-la thắng trận, chư Thiên bại trận.
4) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên bại trận thời lui về phương Bắc, còn các A-tu-la đuổi theo họ.
5) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ với người đánh xe Màtali:
Hỡi này Màtali,
Hãy giữ cho
gọng xe,
Tránh khỏi các
tổ chim,
Giữa các cây
bông gòn.
Thà trao mạng
sống ta,
Cho các A-tu-la,
Còn hơn khiến
các chim,
Trở thành không
tổ ấm.
6) "-- Thưa
vâng, Tôn giả".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe Màtali vâng đáp Thiên chủ Sakka, liền đánh xe trở lui, cỗ xe có ngàn con tuấn mã kéo.
7) Rồi này các Tỷ-kheo, các A-tu-la suy nghĩ: "Nay cỗ xe có ngàn con tuấn mã kéo của Thiên chủ Sakka đã trở lui. Lần thứ hai, chư Thiên sẽ tiến đánh các A-tu-la". Nghĩ vậy, họ sợ hãi lui vào trong thành phố A-tu-la.
8) Như
vậy, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka lại thắng trận, nhờ
theo Chánh pháp.
VII. Không Gian Trá (S.i,225)
1) Ở Sàvatthi.
2) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka trong khi Thiền tịnh độc cư, khởi lên ý nghĩ sau đây: "Dầu ai là kẻ thù của ta. Đối với họ, ta không có gian trá".
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, với tâm của mình biết tâm của Thiên chủ Sakka, liền đi đến Thiên chủ Sakka.
4) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka thấy Vepacitti, vua các A-tu-la, từ xa đi đến, thấy vậy liền nói với vua A-tu-la:
"-Hãy đứng lại, này Vepacitti, Ông đã bị bắt".
5) "- Này Thân hữu, tâm của Ông trước như thế nào, chớ có bỏ tâm ấy".
6) "- Này Vepacitti, Ông có thể thề: ‘Ta không bao giờ gian trá’".
(Vepacitti):
7) Ác báo do
vọng ngôn,
Ác báo do báng
Thánh,
Ác báo do
phản bạn,
Ác báo do vong
ân.
Này Sujampati,
Ai gian trá
với Ông,
Người ấy
sẽ thọ lãnh,
Các quả báo
như vậy.
VIII. Vua A-Tu-La Verocana Hay Mục Đích (S.i,225)
1) Nhân duyên ở Sàtthi.
2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang nghỉ trưa và ngồi Thiền tịnh.
3) Rồi Thiên chủ Sakka và A-tu-la vương Verocana vua các A-tu-la, đi đến Thế Tôn; sau khi đến liền đứng, mỗi người dựa vào một cột cửa.
4) Rồi A-tu-la Verocana, vua các A-tu-la, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Mọi người
phải tinh tấn,
Cho đến đích
thành tựu.
Khi mục đích
thành tựu,
Thời chiếu
diệu chói sáng,
Chính Verocana,
Đã nói lời
như vậy.
(Sakka):
5) Mọi người
phải tinh tấn,
Cho đến đích
thành tựu.
Khi mục đích
thành tựu,
Thời chiếu
diệu chói sáng,
Không gì tốt
đẹp hơn,
So sánh với
kham nhẫn.
(Verocana):
6) Tất cả
loại chúng sanh,
Tự có mục đích
mình,
Tại chỗ này,
chỗ kia,
Tùy theo sự thích
ứng.
Món ăn khéo
chế biến,
Làm thỏa mãn
mọi loài,
Khi mục đích
thành tựu,
Thời chiếu
diệu chói sáng,
Chính Verocana
Đã nói lời
như vậy.
(Sakka):
7) Tất cả
loại chúng sanh,
Tự có mục đích
mình,
Tại chỗ này,
chỗ kia,
Tùy theo sự thích
ứng.
Món ăn khéo
chế biến,
Làm thỏa mãn
mọi loài,
Khi mục đích
thành tựu,
Thời chiếu
diệu chói sáng,
Không gì tốt
đẹp hơn,
So sánh với
kham nhẫn.
IX. Các Ẩn Sĩ Ở Rừng Hay Hương (S.i,226)
1) Ở Sàvatthi.
2) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có nhiều ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện, sống cùng nhau trong những chòi lá trong rừng.
3) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka và Vepacitti, vua các A-tu-la, đi đến các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy.
4) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la, sau khi mang giày ống (hia), cầm đao kiếm, có lọng che, đi vào am thất bằng cửa chính, miệt thị và phạm thượng các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy.
5) Này các Tỷ-kheo, còn Thiên chủ Sakka thời cởi giày ống, giao kiếm cho người khác, xếp lọng, đi vào am thất bằng cửa phụ, đứng phía sau các ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy, chấp tay vái chào.
6) Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy nói lên bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Mùi hương các
ẩn sĩ,
Đã lâu ngày
tu hành,
Xuất phát từ
thân họ,
Được gió
thổi mang đi,
Từ đó thổi
đến người.
Ôi vị có ngàn
mắt,
Mùi hương các
ẩn sĩ,
Không được
cho thanh tịnh,
Này vị vua chư
Thiên.
(Sakka):
7) Mùi hương các
ẩn sĩ,
Đã lâu ngày
tu hành,
Xuất phát từ
thân họ,
Hãy được gió
mang đi,
Như vòng hoa
nhiều loại,
Được trang
sức trên đầu.
Chư Tôn giả,
chúng tôi,
Ước mong được
hương ấy,
Không gì ở nơi
đây,
Làm chư Thiên
ghê tởm.
X. An Sĩ Ở Bờ Biển Hay Sambara (S.i,227)
1) Ở Sàvatthi.
2) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có nhiều vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện, sống cùng nhau ở trong những chòi lá, trên bờ biển.
3) Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, một trận chiến xảy ra giữa chư Thiên và các A-tu-la rất ác liệt.
4) Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy suy nghĩ như sau: "Chư Thiên sống như pháp, các A-tu-la sống phi pháp. Chúng ta có thể nguy hiểm từ phía A-tu-la. Vậy chúng ta hãy đi đến A-tu-la vương Sambara và xin được bảo đảm vô úy".
5) Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy, như nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất trong các chòi lá trên bờ biển và hiện ra trước mặt A- tu-la vương Sambara.
6) Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy nói lên bài kệ với A-tu-la vương Sambara:
7) Các ẩn sĩ
chúng tôi,
Đến với
Sambara,
Để xin Ngài
bảo đảm,
Thí cho sự vô
úy.
Hãy làm như Ngài
muốn,
Hãy thí cho chúng
tôi,
Những người
đang sợ hãi,
Được khỏi
phải sợ hãi.
(Sambara):
8) Ẩn sĩ như
các Ông,
Không thể có
vô úy,
Đã phục vụ
Sakka,
Vị trí không
tốt lành,
Các Ông xin vô
úy,
Ta cho sự sợ
hãi.
(Các ẩn sĩ):
9) Chúng tôi
xin vô úy,
Ông lại cho
sợ hãi,
Ta nhận vậy
từ Ông,
Trọn đời, Ông
sợ hãi!
Tùy hột
giống đã gieo,
Ông gặt quả
như vậy.
Làm thiện được
quả thiện,
Làm ác bị
quả ác,
Giống đã gieo
và trồng,
Ông sẽ hưởng
kết quả.
10) Này các Tỷ-kheo, các vị ẩn sĩ trì giới, tánh hiền thiện ấy, sau khi thốt lời chú nguyện chống A-tu-la vương Sambara, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, liền biến mất trước mặt A-tu-la vương Sambara và hiện ra trong các chòi lá trên bờ biển.
11) Này
các Tỷ-kheo, A-tu-la vương Sambara, bị các ẩn sĩ trì giới, tánh
hiền thiện ấy chú nguyện như vậy, trong đêm ấy thức
dậy hoảng hốt ba lần.
II.
Phẩm Thứ Hai
I. Chư Thiên Hay Cấm Giới (S.i,228)
1) Tại Sàvatthi.
2) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn làm người, vị này chấp trì và thật hành bảy cấm giới túc. Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakka được địa vị Sakka.
3) Bảy cấm giới túc là gì?
4) "Cho đến trọn đời, tôi hiếu dưỡng cha mẹ. Cho đến trọn đời, tôi kính trọng gia trưởng. Cho đến trọn đời, tôi nói lời nhu hòa. Cho đến trọn đời, tôi không nói lời hai lưỡi. Cho đến trọn đời, với tâm ly cấu uế và xan tham, tôi sống trong gia đình với tâm bố thí, với tay sạch sẽ, hoan hỷ thí xả, nhiệt tình đáp ứng các yêu cầu, sung sướng phân phối vật bố thí. Cho đến trọn đời, tôi nói lời chân thực. Cho đến trọn đời, tôi không phẫn nộ, nếu tôi có phẫn nộ, tôi sẽ mau chóng dẹp trừ phẫn nộ ấy".
5) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn làm người, vị này chấp trì và thật hành bảy cấm giới túc. Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakka được địa vị Sakka.
6) Ai hiếu dưỡng
cha mẹ,
Kính trọng
bậc gia trưởng,
Nói những
lời nhu hòa,
Từ bỏ lời
hai lưỡi,
Chế ngự lòng
xan tham,
Là con người
chân thực,
Nhiếp phục
được phẫn nộ,
Với con người
như vậy,
Chư Thiên tam
thập tam,
Gọi là bậc
Chơn nhơn.
II. Chư Thiên (S.i,229)
1) Ở Sàvatthi, Jetavana.
2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
3) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy là một thanh niên Bà-la-môn tên là Magha, do vậy được gọi là Maghavà.
4) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy thường bố thí từ thành này qua thành khác, do vậy được tên là Purindado.
5) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy thường bố thí một cách trọn vẹn (Sakkaccam), do vậy được tên là Sakka.
6) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy thường bố thí trú xứ, do vậy được tên là Vàsavo.
7) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy có thể trong một thời gian rất ngắn suy nghĩ đến ngàn sự việc, do vậy được tên là Sahassa akkha (ngàn con mắt).
8) Này các Tỷ-kheo, Sakka trở thành người chồng của một thiếu nữ A-tu-la tên là Sujà, do vậy được tên là Sujampati.
9) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka thống lãnh và trị vì Tam thập tam thiên, do vậy được gọi là Thiên chủ.
10) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn làm người, vị này chấp trì và thật hành bảy cấm giới túc. Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakka được địa vị Sakka.
11) Thế nào là bảy cấm giới túc?
"Cho đến trọn đời, tôi hiếu dưỡng cha mẹ. Cho đến trọn đời, tôi kính trọng bậc gia trưởng. Cho đến trọn đời, tôi nói lời nhu hòa. Cho đến trọn đời, tôi không nói lời hai lưỡi. Cho đến trọn đời, với tâm ly cấu uế và xan tham, tôi sống trong gia đình với tâm bố thí, với tay sạch sẽ, hoan hỷ thí xả, nhiệt tình đáp ứng các yêu cầu, sung sướng phân phối vật bố thí. Cho đến trọn đời, tôi nói lời chân thật. Cho đến trọn đời, tôi không phẫn nộ, nếu tôi có phẫn nộ, tôi sẽ mau chóng dẹp trừ phẫn nộ ấy".
12) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn làm người, vị này chấp trì và thật hành bảy cấm giới túc. Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakka được địa vị Sakka.
Ai hiếu dưỡng
cha mẹ,
Kính trọng
bậc gia trưởng,
Nói những
lời nhu hòa,
Từ bỏ lời
hai lưỡi,
Chế ngự lòng
xan tham,
Là con người
chân thực,
Nhiếp phục
được phẫn nộ,
Với con người
như vậy,
Chư Thiên tam
thập tam,
Gọi là bậc
Chơn nhơn.
III. Chư Thiên (S.i,230)
1) Như vầy tôi nghe.
2) Một thời Thế Tôn ở Vesàli, Đại Lâm tại Trùng Các giảng đường.
3) Rồi Mahàli, người Licchavi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
4) Ngồi xuống một bên, Mahàli, người Licchavi bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thấy Thiên chủ Sakka không?
5) Này Mahàli, Ta có thấy Thiên chủ Sakka.
6) Bạch Thế Tôn, có thể vị ấy tương tự giống Sakka. Bạch Thế Tôn, thật khó thấy Thiên chủ Sakka.
7) Này Mahàli, Ta biết Sakka và các pháp tác thành Sakka. Chính do chấp trì các pháp ấy, Sakka được địa vị Sakka. Và Ta biết các pháp ấy.
8) Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy là một thanh niên Bà la môn tên là Magha, do vậy được gọi là Maghavà.
9) Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy thường bố thí từ thành này qua thành khác, do vậy được gọi là Purtindado.
10) Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy thường bố thí một cách trọn vẹn, do vậy được gọi là Sakka.
11) Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy thường bố thí trú xứ, do vậy được gọi là Vàsavo.
12) Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị ấy có thể trong một thời gian rất ngắn, suy nghĩ đến ngàn sự việc, do vậy được gọi là Sahassa akkha (một ngàn con mắt).
13) Này Mahàli, Sakka trở thành người chồng của một thiếu nữ A-tu-la là Sujà, do vậy được gọi là Sujampati.
14) Này Mahàli, Thiên chủ Sakka thống lãnh và trị vì Tam thập tam thiên, do vậy được gọi là Thiên chủ.
15) Này Mahàli, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị này chấp trì và thật hành bảy cấm giới túc. Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc, Sakka được địa vị Sakka.
16) Thế nào là bảy cấm giới túc?
"Cho đến trọn đời, tôi hiếu dưỡng cha mẹ. Cho đến trọn đời, tôi kính trọng bậc gia trưởng. Cho đến trọn đời, tôi nói lời nhu hòa.Cho đến trọn đời, tôi không nói lời hai lưỡi. Cho đến trọn đời, với tâm ly cấu uế và xan tham, tôi sống trong gia đình với tâm bố thí, với tay sạch sẽ, hoan hỷ thí xả, nhiệt tình đáp ứng các yêu cầu, sung sướng phân phối vật bố thí. Cho đến trọn đời, tôi nói lời chân thật. Cho đến trọn đời, tôi không phẫn nộ; nếu tôi có phẫn nộ, tôi sẽ mau chóng dẹp trừ phẫn nộ".
17) Này Mahali, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka còn là người, vị này chấp trì và thật hành bảy cấm giới túc. Nhờ chấp trì bảy cấm giới túc này, Sakka được địa vị Sakka.
Ai hiếu dưỡng
cha mẹ,
Kính trọng
bậc gia trưởng,
Nói những
lời nhu hòa,
Từ bỏ lời
hai lưỡi,
Chế ngự lòng
xan tham,
Là con người
chân thực,
Nhiếp phục
được phẫn nộ,
Với con người
như vậy,
Chư Thiên tam
thập tam,
Gọi là bậc
Chơn nhơn.
IV. Người Nghèo (S.i,231)
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ kheo: "-- Này các Tỷ-kheo."
3) "- Thưa vâng, bạch Thế Tôn." Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
4) Thế Tôn nói như sau:
5) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, một người ở tại thành Vương Xá này; người ấy nghèo khó, bần cùng, khốn khổ.
6) Người ấy chấp trì lòng tin trong pháp luật do Như Lai tuyên thuyết, chấp trì giới, chấp trì văn, chấp trì thí, chấp trì tuệ.
7) Người ấy do chấp trì lòng tin trong pháp luật do Như Lai tuyên thuyết, chấp trì giới, chấp trì văn, chấp trì thí, chấp trì tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh thiện thú, thiên giới, đời này và cọng trú với chư Thiên Tam thập tam thiên. Vị ấy chói sáng hơn chư Thiên khác về dung sắc và danh tiếng.
8) Ở đây, này các vị Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên bực tức, chán ghét, phẫn uất: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Thiên tử này thuở xưa làm người nghèo khó, bần cùng, khốn khổ. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, đời này và cọng trú với chư Thiên Tam thập tam thiên. Vị ấy chói sáng hơn chư Thiên khác về dung sắc và danh tiếng."
9) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở Tam thập tam thiên: "Này chư Thân hữu, chớ có bực tức với vị Thiên tử này. Này chư Thân hữu, vị Thiên tử này trước kia làm người, chấp trì lòng tin trong pháp luật do Như Lai tuyên thuyết, chấp trì giới, chấp trì văn, chấp trì thí, chấp trì tuệ; người ấy do chấp trì lòng tin trong pháp luật do Như Lai tuyên thuyết, chấp trì giới, chấp trì văn, chấp trì thí, chấp trì tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh thiện thú, thiên giới, đời này và cọng trú với chư Thiên Tam thập tam thiên. Vị ấy chói sáng hơn chư Thiên khác về dung sắc và danh xưng" .
10) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka để làm hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:
Ai tín thành Như
Lai,
Bất động, khéo
an trú,
Ai giữ giới
thuần thiện,
Được bậc Thánh
tán thán.
Ai tín thành chúng
Tăng,
Chơn trực và
chánh kiến,
Được gọi:
"Không phải nghèo",
Đời sống không
hư vọng.
Do vậy người
có trí,
Phải kiên trì
Phật giáo,
Tín thành và
trì giới,
Trí kiến đúng
Chánh pháp.
V. Khả Ái, Khả Lạc (S.i,232)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana.
2) Rồi Thiên chủ Sakka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên.
3) Đứng một bên, Thiên chủ Sakka bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, địa cảnh nào khả ái, khả lạc?
(Thế Tôn):
Các cảnh vườn
mỹ diệu,
Các khu rừng
mỹ diệu,
Các ao sen khéo
xây,
Được loài Người
khả ái.
Thật sự chỉ
đáng giá,
Thật là ít,
nhỏ nhoi.
Tại làng hay
tại rừng,
Chỗ đất
thấp hay cao,
Chỗ nào La-hán
trú,
Địa cảnh
ấy khả ái.
VI. Tổ Chức Lễ Tế Đàn (S.i,232)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakuuta (Linh Thứu).
2) Rồi Thiên tử Sakka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
3) Đứng một bên, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Loài Người
lễ tế đàn,
Chúng sanh mong
công đức.
Ai làm các công
đức,
Đưa đến sự
tái sanh,
Chỗ nào sự
bố thí,
Được quả báo
thật lớn?
(Thế Tôn):
4) Ai thành
tựu bốn đạo,
Ai chứng đắc
bốn quả,
Tăng chúng ấy
chơn trực,
Giới, định,
tuệ đầy đủ.
Loài Người
lễ tế đàn,
Chúng sanh mong
công đức.
Ai làm các công
đức,
Đưa đến sự
tái sanh,
Bố thí cho chúng
Tăng,
Được quả báo
thật lớn.
VII. Kính Lễ (S.i,233)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana.
2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang nghỉ trưa Thiền tịnh.
3) Rồi Thiên chủ Sakka và Phạm thiên Sahampati đi đến Thế Tôn; sau khi đến, mỗi người đứng dựa vào một cột cửa.
4) Rồi Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Đứng lên
bậc Anh hùng,
Bậc chiến
thắng chiến trường,
Đã đặt gánh
nặng xuống,
Không mắc nợ
một ai,
Bộ hành khắp
thế giới,
Tâm Ngài khéo
giải thoát,
Chẳng khác gì
mặt trăng,
Trong đêm rằm
(chói sáng).
5) Phạm thiên Sahampati:
- Này Thiên chủ, kính lễ Như Lai không phải như vậy. Và này Thiên chủ, kính lễ Như Lai phải như thế này:
Đứng lên,
bậc Anh hùng,
Bậc chiến
thắng chiến trường,
Lãnh đạo đoàn
lữ hành,
Không mắc nợ
một ai,
Bộ hành khắp
thế giới,
Thế Tôn hãy
thuyết pháp,
Có những người
sẽ hiểu.
VIII. Sakka Kính Lễ (S.i,234)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana.
2) Ở đây... Thế Tôn nói:
3) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với người đánh xe như sau:
" - Này Màtali thân, hãy thắng ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe. Chúng ta hãy đi đến vườn cảnh để ngắm cảnh".
4) " - Thưa vâng, Tôn giả".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe Màtali vâng đáp Thiên chủ Sakka; sau khi thắng một ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe, liền báo với Thiên chủ Sakka:
" -Thưa Ngài, ngàn con ngựa khéo huấn luyện đã thắng vào cỗ xe. Nay Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời!"
5) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka từ cung điện Vejayanta đi xuống, chắp tay và đảnh lễ các phương hướng.
6) Rồi này các Tỷ-kheo, người đánh xe Màtali nói lên những bài kệ với Thiên chủ Sakka:
Bậc Tam minh
lễ Ngài,
Tất cả Sát-đế-lỵ
Ở trên cõi đất
này,
Cũng đều đảnh
lễ Ngài,
Kể cả bốn
Thiên vương,
Bậc danh xưng
Tam thập.
Dạ-xoa ấy tên
gì,
Vị mà Ngài đảnh
lễ,
Này Sakka ?
(Sakka):
8) Bậc Tam minh
lễ ta.
Tất cả Sát-đế-lỵ
Ở trên cõi đất
này,
Cũng đều đảnh
lễ ta,
Kể cả bốn
Thiên vương,
Bậc danh xưng
Tam thập.
Nhưng ta chỉ
đảnh lễ,
Bậc thành
tựu giới, luật,
Lâu ngày tu
Thiền định,
Chơn chánh hành
xuất gia,
Thành đạt và
chứng được
Cứu cánh chơn
Phạm hạnh.
Ngoài ra các
gia chủ,
Làm công đức,
giữ giới,
Nuôi dưỡng
vợ đúng pháp,
Các cư sĩ như
vậy,
Ta cũng sẽ đảnh
lễ,
Hỡi này Màtali.
(Màtali):
9) Phải, tôi cũng
được nghe,
Ở đời bậc
tối thượng,
Sakka, Ngài đảnh
lễ
Những vị Ngài
đảnh lễ,
Tôi cũng đều
đảnh lễ,
Ôi này Vàsava
!.
10) Maghavà nói
vậy,
Vua Sujampati,
Đảnh lễ các
phương xong,
Lên xe dẫn đi
đầu.
IX. Sakka Đảnh Lễ (S.i,235)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana...
2) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với người đánh xe Màtali:
" Này Màtali thân, hãy thắng ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe. Chúng ta hãy đi đến vườn cảnh để ngắm cảnh".
3) " Thưa vâng, Tôn giả".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe Màtali vâng đáp Thiên chủ Sakka, sau khi thắng một ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe, liền báo với Sakka:
"Thưa Ngài, ngàn con ngựa khéo huấn luyện đã được thắng vào cỗ xe. Nay Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời".
4) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, từ cung điện Vejayanta đi xuống, chắp tay kính lễ Thế Tôn.
5) Rồi Màtali, người đánh xe nói lên những bài kệ với Thiên chủ Sakka:
6) Thiên, Nhân
kính lễ Ngài,
Hỡi này Vàsava.
Dạ-xoa ấy tên
gì
Vị mà Ngài đảnh
lễ,
Này Sakka?
(Sakka):
7) Bậc Chánh
Đẳng Chánh Giác,
Đời này với
chư Thiên,
Bậc Đạo Sư
tối thượng,
Vị ấy ta đảnh
lễ,
Này Màtali!
Những vị đã
đoạn trừ,
Tham, sân và vô
minh,
Bậc lậu
tận, La-hán,
Vị ấy ta đảnh
lễ.
Bậc điều
phục tham sân,
Vượt khỏi (màn)
vô minh,
Hoan hỷ đoạn
tái sanh,
Các bậc
thuộc hữu học,
Không phóng
dật, tu học,
Vị ấy ta đảnh
lễ,
Này Màtali.
(Màtali):
8) Phải tôi cũng
được nghe,
Ở đời bậc
tối thượng,
Sakka Ngài đảnh
lễ,
Những vị Ngài
đảnh lễ,
Tôi cũng đều
đảnh lễ,
Ôi này Vàsava.
9) Maghavà nói
vậy,
Vua Sujampati,
Đảnh lễ
Thế Tôn xong,
Lên xe, dẫn đi
đầu.
X. Sakka Đảnh Lễ (S.i,235)
1) Tại Sàvatthi, ở Jetavana.
2) Ở đây... Thế Tôn nói như sau:
3) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka nói với người đánh xe Màtali:
" -Này Màtali thân, hãy thắng ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe. Chúng ta hãy đi đến vườn cảnh để ngắm cảnh".
4) " - Thưa vâng, Tôn giả".
Này các Tỷ-kheo, người đánh xe Màtali vâng đáp Thiên chủ Sakka, sau khi thắng một ngàn con ngựa khéo huấn luyện vào cỗ xe, liền báo với Thiên chủ Sakka:
" -Thưa Ngài, ngàn con ngựa khéo huấn luyện đã được thắng vào cổ xe. Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời".
5) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka từ cung điện Vejayanta đi xuống, chấp tay đảnh lễ Tỷ-kheo Tăng.
6) Này các Tỷ-kheo, rồi người đánh xe Màtali nói lên bài kệ với Thiên chủ Sakka:
7) Chắc họ đảnh
lễ Ngài,
Những người
thân bất tịnh,
Chìm sâu trong
thi thể,
Bị đói khát
dày vò,
Có gì họ ưa
thích,
Đối những
vị xuất gia,
Hãy nói cho
được biết,
Sở hành các
ẩn sĩ,
Nhờ vậy chúng
tôi nghe
Được tiếng
nói của Ngài,
Hỡi này Vàsava!
(Sakka):
8) Đối với
xuất gia ấy,
Điều khiến
ta ưa thích,
Khi họ từ làng
về,
Họ đi không
tham vọng,
Vựa lúa, không
cất chứa,
Không ghè, không
nồi niêu,
Những gì họ
tìm kiếm,
Có người khác
sẵn sàng.
Do vậy, họ nuôi
sống,
Theo cung cách
tốt đẹp.
Họ là bậc
Hiền trí,
Khuyên nhủ
lời tốt đẹp.
Hay họ giữ im
lặng,
Trong tư thế
trầm tĩnh.
Chư thiên
chiến Tu-la,
Loài Người cũng
gây chiến.
Hỡi này Màtali!
Không chiến
giữa gây chiến,
Trầm tĩnh
giữa đao gậy,
Không chấp
giữa chấp trước.
Vậy ta kính
lễ họ,
Hỡi này Màtali!
(Màtali):
9) Phải, tôi cũng
được nghe,
Ở đời bậc
tối thượng,
Sakka Ngài đảnh
lễ.
Những vị Ngài
đảnh lễ,
Tôi cũng đều
đảnh lễ.
Ôi, này Vàsava!
10) Maghavà nói
vậy,
Vua Sujampati,
Đảnh lễ Tăng
chúng xong,
Lên xe dẫn đi
đầu.
III.
Phẩm Thứ Ba ( Hay Sakka Năm Kinh).
I. Sát Hại Gì ? (S.i,237)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana.
2) Rồi Thiên chủ Sakka đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
3) Đứng một bên, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Sát vật gì,
được lạc?
Sát vật gì,
không sầu?
Có một loại
pháp gì,
Ngài tán đồng
sát hại,
Tôn giả
Gotama?
(Thế Tôn):
4) Sát phẫn
nộ được lạc,
Sát phẫn nộ
không sầu.
Phẫn nộ với
độc căn,
Với vị ngọt
tối thượng,
Pháp ấy, bậc
Hiền thánh
Tán đồng sự
sát hại.
Sát pháp ấy,
không sầu,
Hỡi này Vàsava!
II. Xấu Xí (S.i,237)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana.
2) Tại đây... Thế Tôn nói như sau:
3) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to (Okotimako), đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka.
4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên bực tức, chán ghét, phẫn uất: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Tên Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!".
5) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa ấy càng đẹp hơn, càng dễ nhìn, càng dễ thương bấy nhiêu.
6) Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đi đến Thiên chủ Sakka; sau khi đến, nói với Thiên chủ Sakka:
7) "- Ở đây, này Tôn giả, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to đến ngồi trên chỗ ngồi của Ngài. Ở đây, này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bực tức, chán ghét, phẫn uất: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Dạ-xoa này xấu xí, thấp lùn, bụng to lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!". Nhưng này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to ấy càng tốt đẹp, càng dễ nhìn và càng dễ thương bấy nhiêu. Thưa Tôn giả, có phải Dạ-xoa ấy sẽ trở thành Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ?"
8) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đi đến Dạ-xoa nuôi dưỡng bằng phẫn nộ ấy; sau khi đến đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phải quỳ trên đất, chấp tay vái Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ và nói lên tên của mình ba lần: "Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka! Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka!".
9) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka càng nói lên tên của mình bao nhiêu thời Dạ-xoa ấy càng trở thành xấu xí, thấp lùn, bụng to bấy nhiêu; và sau khi trở thành càng xấu xí, càng thấp lùn, bụng to hơn, vị ấy biến mất tại chỗ ấy.
10) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, sau khi ngồi xuống trên chỗ ngồi của mình, làm cho hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
Tâm ta không
dễ dàng,
Để cho bị
thất trận,
Không dễ bị
lôi kéo,
Trong xoáy nước
dục tình.
Người biết
đã từ lâu,
Ta không còn
phẫn nộ,
Phẫn nộ không
chân đứng
Một chỗ nào
trong ta.
Ta không nói ác
ngữ,
Vì phẫn nộ
giận hờn,
Và không có
khen tặng,
Những đức tánh
của ta.
Thấy được
lợi ích mình,
Ta tự thân
chế ngự.
III. Huyễn Thuật (S.i,238)
1) Tại Sàvatthi...
2) Thế Tôn nói như sau:
3) Này các Tỷ-kheo, thuở xưa A-tu-la Vepacitti, vua các A-tu-la bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
4) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đi đến A-tu-la để hỏi thăm tình trạng bịnh hoạn.
5) Này các Tỷ-kheo, Vepacitti từ đàng xa trông thấy Thiên chủ Sakka đi đến, thấy vậy liền nói với Thiên chủ Sakka:
"- Này Thiên chủ, hãy chữa bệnh cho tôi".
6) "- Này Vepacitti, hãy nói tôi biết ảo thuật của Sambhara".
7) "- Này Tôn giả, hãy chờ tôi hỏi ý kiến các A-tu-la."
8) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la hỏi ý kiến các A-tu-la:
" - Chư Tôn giả, tôi có nên nói cho Thiên chủ Sakka, ảo thuật của Sambhara không?"
9) " - Thưa Tôn giả, Ngài không nên nói cho Thiên chủ Sakka ảo thuật của Sambhara".
10) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la nói lên bài kệ này với Thiên chủ Sakka:
Ông thuộc dòng
Magha,
Là Sakka, Thiên
chủ,
Là chồng của
Sujà,
Ảo thuật
dắt dẫn đến,
Vực sâu của
địa ngục,
Tại đấy
Sambhara,
Đã sống một
trăm năm.
IV. Tội Lỗi (Hay Không Phẫn Nộ) (S.i,239)
1) Tại Sàvatthi... tại vườn ông Cấp Cô Độc.
2) Lúc bấy giờ hai Tỷ-kheo cãi lộn nhau. Ở đây, một Tỷ-kheo phạm tội, Tỷ-kheo ấy phát lộ tội phạm là tội phạm trước mặt Tỷ-kheo kia. Tỷ-kheo ấy không chấp nhận.
3) Rồi Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
4) Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai Tỷ-kheo cãi lộn nhau. Một Tỷ-kheo phạm tội. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy phát lộ tội phạm là tội phạm trước mặt Tỷ-kheo kia. Tỷ-kheo ấy không chấp nhận.
5) Này các Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo này là ngu si: một vị không thấy phạm tội là phạm tội, một vị không chấp nhận phát lộ tội phạm đúng pháp. Này các Tỷ-kheo, hai vị Tỷ-kheo này là ngu si.
6) Này các Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo này là sáng suốt, một vị thấy phạm tội, một vị chấp nhận phát lộ tội phạm đúng pháp. Này các Tỷ- kheo, hai Tỷ-kheo này là sáng suốt.
7) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, để làm hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ này:
Hãy nhiếp
phục phẫn nộ,
Giữ tình bạn
không phai,
Không đáng
mắng, chớ mắng,
Không nên nói
hai lưỡi,
Phẫn nộ quăng
người ác,
Như đá rơi
vực thẳm.
V. Không Phẫn Nộ (Không Hại) (S.i,240)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn Anàthapindika (Cấp Cô Độc).
2) Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo... Thế Tôn nói như sau:
3) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, để làm hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma, ngay trong lúc ấy nói lên bài kệ này:
Chớ để lòng
phẫn nộ,
Nhiếp phục,
chi phối người!
Chớ để lòng
sân hận,
Đối trị
với sân hận!
Không phẫn
nộ, vô hại,
Bậc Thánh thường
an trú.
Phẫn nộ quăng
người ác,
Như đá rơi
vực thẳm.
--- o0o ---
| Mục lục Kinh Tương Ưng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11| 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22a | 22b | 22c | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29
| 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35a | 35b | 35c | 35d | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42
| 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nguyên Hân
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ Kinh này.
(Trang nhà Quảng Đức, 1/2002)
Nguồn: www.quangduc.com