.
中
阿
含
經
SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 1
PHẨM BẢY PHÁP
10. KINH LẬU TẬN
Tôi nghe như
vầy:
Một thời
Phật du hóa ở Câu-lâu-sấu,
tại
đô
ấp Kiếm-ma-sắt-đàm,
đô
ấp của Câu-lâu.
Bấy giờ
Đức
Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Do tri, do kiến
mà các lậu bị tận diệt chớ không phải do không tri, không kiến.
“Sao gọi là do tri, do kiến mà các lậu bị tận
diệt? Đó
là do có chánh tư duy và không chánh tư duy.
Nếu không chánh tư duy thì dục lạâu chưa sanh sẽ sanh;
đã
phát sanh liền tăng
trưởng; hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh sẽ phát sanh;
đã
phát sanh liền tăng
trưởng.
Nếu có chánh tư duy thì dục lạâu chưa sanh sẽ không sanh,
đã
sanh liền tiêu diệt. Hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không sanh;
đã
sanh liền tiêu diệt.
“Những người phàm phu ngu si, không
được
nghe chánh pháp, không được
gặp bậc chơn tri thức, không biết thánh pháp, không
điều
ngự thánh pháp
không biết pháp như thật. Nếu không có chánh tư duy, dục lậu chưa sanh sẽ
phát sanh, đã
phát sanh liền tăng
trưởng; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ phát sanh;
đã
phát sanh liền tăng
trưởng. Nếu có chánh tư duy, dục lậu chưa sanh sẽ không phát sanh,
đã
phát sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không phát
sanh; đã
phát sanh liền tiêu diệt. Vì không biết pháp như thật do
đó
pháp không nên niệm lại niệm, pháp nên niệm lại không niệm. Vì pháp không
nên niệm lại niệâm, pháp nên niệm lại không niệm, nên dục lậu chưa sanh sẽ
phát sanh, đã
sanh liền tăng
trưởng; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh liền phát sanh,
đã
sanh liền tăng
trưởng.
“Thánh
đệ
tử đa
văn
được
nghe Thánh pháp, được
gặp bậc chơn tri thức, được
điều
ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, nhưng nếu không có chánh tư duy,
thì dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh,
đã
sanh liền tăng
trưởng; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh liền phát sanh,
đã
sanh liền tăng
trưởng. Nếu có chánh tư duy, dục lậu
chưa sanh sẽ không sanh,
đã
sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không phát sanh,
đã
sanh liền tiêu diệt. Sau khi biết pháp như thật, pháp không nên niệm thì
không niệm, pháp nên niệm liền niệm. Vì không niệm pháp không nên niệm và
pháp nên niệm liền niệm, nên dục lậu chưa sanh sẽ không phát sanh,
đã
sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không phát sanh,
đã
sanh liền tiêu diệt.
“Có bảy sự
đoạn
trừ lậu, phiền não, pháp ưu sầu. Những gì là bảy? Có lậu
được
đoạn
do kiến, có lậu được
đoạn
do hộ, có lậu được
đoạn
do ly, có lậu được
đoạn
do dụng, có lậu được
đoạn
do nhẫn, có lậu được
đoạn
do trừ, có lậu được
đoạn
do tư duy.
“Thế nào là
lậu
được
đoạn
do kiến?
Kẻ phàm phu không
được
nghe chánh pháp, không gặp bậc chơn trí thức, không biết Thánh pháp, không
điều ngự Thánh pháp, không biết như thật về pháp, không có chánh tư duy nên
suy nghĩ thế này: ‘Ta có
đời
quá khứ?
Ta không có
đời
quá khứ ? Do nhân duyên gì ta có
đời
quá khứ?
Đời
quá khứ ta như thế nào? Ta có
đời
vị lai? Ta không có
đời vị lai? Do nhân duyên gì ta có
đời
vị lai? Ta có
đời
vị lai như thế nào?’ Người ấy hoài nghi về mình rằng:
“Thân ta là gì, nó là thế nào?
Nay chúng sanh này từ
đâu
đến,
và sẽ
đi
về
đâu? Trước kia do nhân gì mà có, và sẽ do nhân gì mà có?’ Người kia khởi tư
duy không chánh như vậy rồi, trong sáu tà kiến, một tà kiến khởi lên cho
rằng ‘Quả thật có thần ngã’.
Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật không có thần ngã’. Hoặc một
tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là thần ngã’.
Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là phi thần ngã’.
Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Chính thần ngã ấy có thể thấy, có thể
biết, có thể hành
động,
có thể sai khiến hành
động,
có thể
đứng
dậy, có thể sai khiến
đứng
dậy, sanh vào nơi này, nơi kia, thọ lãnh thiện báo, ác báo; quyết không từ
đâu
đến, quyết không phải
đã
có, quyết không phải sẽ có’.
Đó
tệ của kiến;
bị kiến lay
động,
bị kết sử của kiến buộc chặt. Kẻ phàm phu ngu si vì thế mà phải chịu cái
khổ của sanh, lão, bệnh, tử.
“Đa
văn
Thánh đệ
tử được
nghe Thánh pháp, gặp bậc chơn tri thức,
được
chế ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, biết như thật về Khổ, biết
Khổ tập, biết Khổ diệt và biết như thật Khổ diệt
đạo.
Biết như thật như thế rồi, ba kết tận trừ. Khi ba kết là thân kiến, giới
thủ, và nghi đã
trừ hết, chứng quả Tu-đà-hoàn,
không còn đọa
lạc ác pháp, chắc chắn thăng
tiến đến
chánh giác, thọ sanh tối
đa
bảy đời
trong thiên thượng và nhân gian. Sau bảy lần qua lại liền chứng
đắc
Khổ đế.
Nếu không có tri kiến thì phát sanh phiền não, ưu sầu, có tri kiến thì
không phát sanh phiền não, ưu sầu.
Đó
là lậu được
đoạn
trừ do kiến.
“Có lậu
được
đoạn
trừ do hộ
là gì? Tỳ-kheo khi mắt thấy sắc, nếu có phòng hộ nhãn căn
thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh vậy; nếu không phòng hộ nhãn căn
thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là tịnh. Nếu không phòng hộ thì sanh
phiền não, ưu buồn. Nếu có phòng hộ thì không sanh phiền não, ưu buồn.
Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết pháp mà có phòng hộ ý căn, thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh, nếu không phòng hộ ý căn thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là tịnh. Nếu không phòng hộ thì
sanh phiền não, ưu buồn, nếu có phòng hộ thì không sanh phiền não, ưu
buồn.
Đó là có lậu
được
đoạn
trừ do hộ.
“Có lậu
được
đoạn
trừ do ly
là gì? Tỳ-kheo khi thấy voi dữ thì nên xa lánh, ngựa dữ, trâu dữ, chó dữ,
rắn độc,
đường
hiểm, nhà tiểu, hầm hố, sông ngòi, suối sâu, vách núi, ác tri thức, ác
bằng hữu, ác dị đạo,
chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo ở chung một chỗ với các người
phạm hạnh, người không nghi ngờ mà khiến nghi ngờ, là những trường hợp
phải nên xa lánh.
Hãy nên xa lánh tất cả ác tri thức, ác bằng hữu, ác ngoại
đạo,
ác dị đạo,
chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo ở chung một chỗ với các người
phạm hạnh, người không nghi ngờ mà khiến nghi ngờ. Nếu không xa lánh thì
khởi sanh phiền não, ưu sầu. Nếu xa lánh thì không phát sanh phiền não, ưu
sầu. Đó
là lậu được
đoạn
trừ do ly.
“Có lậu
được
đoạn
trừ do dụng
là gì? Tỳ-kheo khi thọ dụng y phục, chẳng phải
để
cầu lợi, chẳng phải để
kiêu hãnh, chẳng phải để
trang sức, mà vì muỗi mòng, gió mưa, lạnh nóng và vì hổ thẹn. Khi thọ dụng
đồ
ăn
uống chẳng phải vì mưu lợi, chẳng phải
để
trang sức, chẳng phải để
mập béo mà vì để
làm thân thể ở đời
lâu dài, trừ phiền não, ưu buồn, vì
để
thực hành phạm hạnh, vì muốn
để
bệnh cũ tiêu trừ đừng
sanh bệnh mới, và vì để
sống lâu, an ổn, không bệnh hoạn. Khi thọ dụng nhà cửa, phòng xá, giường
nệm, ngọa cụ, không phải
để
kiêu hãnh, chẳng phải để
trang sức, mà vì để
lúc mệt mỏi có nơi an nghỉ,
để
được
tĩnh tọa. Khi thọ dụng thuốc thang không phải
để
mưu lợi, không phải để
kiêu hãnh, không phải để
mập béo, mà chỉ để
trừ bệnh hoạn, để
điều
hòa mạng căn,
để
an ổn không bệnh. Nếu không thọ dụng những thứ ấy thì sẽ sanh phiền não,
sầu lo, còn thọ dụng thì không sanh phiền não sầu lo.
Đó
là hữu lậu được
đoạn
trừ do dụng.
“Có lậu
được
đoạn
trừ do nhẫn
là gì? Tỳ-kheo tinh tấn
đoạn trừ ác, bất thiện, tu tập thiện
pháp, nên luôn luôn có ý tưởng trỗi dậy,
chuyên tâm tinh tấn; thân thể, da, thịt, gân, xương, máu, tủy, thà
để
khô kiệt tất cả chớ không bỏ tinh tấn. Phải
đạt
được
mục đích
mong muốn mới xả sự tinh tấn. Tỳ-kheo lại phải chịu
đựng
sự đói
khát, lạnh nóng, muỗi mòng, ruồi, bọ chét, chấy, dù gió hay nắng bức bách,
bị lời dữ, bị đánh
đập,
cũng đều
có thể nhẫn chịu được.
Dù thân mạng bệnh tật rất là
đau
đớn
đến
nỗi gần muốn tuyệt mạng, và những
điều
không thể ưa vui được,
tất cả đều
chịu đựng
được.
Nếu không nhẫn chịu thì sanh phiền não, ưu buồn, còn nhẫn chịu
được
thì không sanh phiền não ưu buồn.
Đó
là lậu được
đoạn
trừ do nhẫn.
“Có lậu
được
đoạn
trừ do trừ
là gì? Tỳ-kheo nếu sanh khởi dục niệm mà không
đoạn
trừ, hay xả ly; sanh nhuế niệm, hại niệm mà không
đoạn
trừ xả ly. Nếu không trừ diệt thì sanh khởi phiền não, ưu buồn; còn nếu
trừ diệt thì không sanh phiền não, ưu buồn.
Đó
là lậu được
đoạn
trừ do trừ.
“Có lậu
được
đoạn
trừ do tư duy
là gì? Tỳ-kheo tư duy về giác chi thứ nhất là niệm, y viễn ly, y vô dục, y
diệt tận, thẳng đến
xuất yếu; trạch pháp, tinh tấn, hỷ, tức,
định,
cho đến
tư duy về giác chi thứ bảy là xả, y viễn ly, y vô dục, y diệt tận, thẳng
đến
xuất yếu; nếu không tư duy thì sanh phiền não, ưu sầu, còn có tư duy thì
không sanh phiền não ưu sầu.
Đó
là lậu được
đoạn
trừ do tư duy.
“Nếu có Tỳ-kheo nào do kiến mà
đoạn
trừ các lậu được
đoạn
trừ bởi kiến; do hộ mà đoạn
trừ các lậu được
đoạn
trừ bởi hộ; do ly mà đoạn
trừ các lậu được
đoạn
trừ bởi ly; do dụng mà đoạn
trừ các lậu được
đoạn
trừ bởi dụng; do nhẫn mà
đoạn
trừ các lậu được
đoạn
trừ bởi nhẫn; do trừ mà
đoạn trừ các lậu
được
đoạn
trừ bởi trừ; do tư duy mà
đoạn
trừ các lậu được
đoạn
trừ bởi tư duy. Đó
gọi là Tỳ-kheo đã
đoạn
trừ tất cả lậu, đã
giải trừ các kết phược, có thể bằng chánh trí mà chứng
đắc
Khổ đế”.
Đức
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng
hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ Nhất
|
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục