Phần
8
Chương
VIII : Tương Ưng Trưởng Lão Vangiisa
I. Xuất Ly (S.i,185)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Vangiia trú ở Alavi, tại ngôi đền ở Aggàlava, cùng với Tôn giả Nigrodha Kappa, là vị giáo thọ sư.
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Vangiisa là tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa bao lâu, được ở lại để coi ngôi tịnh xá.
3) Rồi một số đông phụ nữ, sau khi trang điểm, đi đến khu vườn để xem tịnh xá.
4) Tôn giả Vangiisa thấy các phụ nữ ấy, tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá.
5) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta! Vì rằng tâm sanh bất mãn nơi ta, và ta bị lòng dục quấy phá. Làm thế nào ngay hiện tại có người khác có thể đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm khởi lên thỏa mãn cho ta? Hay là ta tự mình đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm cho thỏa mãn khởi lên cho ta?"
6) Rồi Tôn giả Vangiisa sau khi tự mình đoạn trừ bất mãn và làm cho thỏa mãn khởi lên, liền ngay trong lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
Với ta đã
xuất gia,
Bỏ nhà, sống
không nhà,
Tâm tư nay
chạy loạn,
Khởi lên từ
đen tối.
Con nhà bậc thượng
lưu,
Thiện xảo
trong cung pháp,
Ngàn người
bắn tứ phía,
Vẫn không bỏ
chạy loạn.
Nếu phụ nữ
có đến,
Dầu nhiều hơn,
đông hơn,
Sẽ không não
loạn ta,
Vì ta trú Chánh
pháp,
Chính ta từng
được nghe,
Phật, dòng
họ mặt trời,
Thuyết giảng
Niết-bàn đạo,
Ở đây ta ưa
thích.
Nếu ta trú như
vậy,
Ác ma, Ông có
đến,
Sở hành ta là
vậy,
Ông đâu thấy
đường ta,
II. Không Khoái: Arati (S.i,186)
1) Một thời...,...
2) Tôn giả Vangiisa trú ở Àlavi, tại ngôi đền ở Aggàvi cùng với giáo thọ sư Tôn giả Nigrodha Kappa.
3) Lúc bấy giờ, Tôn giả Nigrodha Kappa sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi vào tịnh xá và không ra khỏi tịnh xá cho đến chiều hay ngày mai.
4) Lúc bấy giờ Tôn giả Vangiia tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá.
5) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Thật bất lợi cho ta! Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta! Vì rằng tâm sanh bất mãn nơi ta, và ta bị lòng dục quấy phá. Làm thế nào ngay hiện tại có người khác có thể đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm khởi lên thỏa mãn cho ta? Hay là ta tự mình đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm cho thỏa mãn khởi lên cho ta?"
6) Rồi Tôn giả Vangiisa sau khi tự mình đoạn trừ bất mãn và làm thỏa mãn khởi lên, liền ngay trong lúc ấy nói lên bài kệ này:
Ta bỏ lạc,
bất lạc,
Mọi tâm tư
gia sự,
Không tạo
một chỗ nào,
Thành cơ sở
tham dục.
Ai thoát khỏi
rừng tham,
Thoát ly mọi
tham dục,
Ly tham không đắm
trước,
Xứng danh chơn
Tỷ-kheo.
Phàm địa
giới, không giới,
Cả sắc giới
trong đời,
Mọi vật đều
biến hoại,
Mọi sự đều
vô thường.
Ai hiểu biết
như vậy,
Sở hành sẽ
chân chính.
Chúng sanh thường
chấp trước,
Đối với các
sanh y,
Đối vật họ
thấy, nghe
Họ ngửi,
nếm, xúc chạm.
Ở đây, ai đoạn
dục,
Tâm tư không
nhiễm ô,
Không mắc dính
chỗ này,
Vị ấy danh Mâu-ni.
Đối với sáu
mươi pháp,
Thuộc vọng tưởng
phi pháp,
Phàm phu thường
chấp trước,
Chấp thủ và
tham đắm.
Tỷ-kheo không
phiền não,
Không nói lời
ác ngữ,
Sáng suốt, tâm
thường định,
Không dối trá,
thận trọng,
Thoát ly mọi
tham ái.
Vị Mâu-ni
chứng đạt,
Cảnh Niết-bàn
tịch tịnh,
Chờ đón
thời mệnh chung,
Với tâm tư
vắng lặng,
Thanh thoát
nhập Niết-bàn.
III. Khinh Miệt Kẻ Ôn Hòa: Pessalà Atiimannanà (S.i,187)
1) Một thời Tôn giả Vangiisa trú ở Alavi, tại đền Aggàlavi, cùng với giáo thọ sư là Tôn giả Nigrodha Kappa.
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Vangiisa thường hay khinh miệt các vị Tỷ- kheo ôn hòa khác vì khả năng biệt tài của mình.
3) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta! Vì rằng ta khinh miệt các vị Tỷ-kheo ôn hòa khác vì khả năng biện tài của ta".
4) Rồi Tôn giả Vangiisa, tự hối trách mình, liền ngay khi ấy, nói lên những bài kệ này:
Đệ tử Gotama,
Hãy từ bỏ kiêu
mạn,
Và cũng tự
bỏ luôn,
Con đường đến
kiêu mạn.
Nếu hoàn toàn
đắm say,
Trong con đường
kiêu mạn,
Sẽ tự mình
hối trách,
Trong thời gian
lâu dài.
Những ai khinh
khi người,
Với khinh khi
kiêu mạn,
Đi con đường
kiêu mạn,
Sẽ đọa lạc
địa ngục.
Những người
ấy sầu khổ,
Trong thời gian
lâu dài,
Do kiêu mạn
dắt dẫn,
Phải sanh vào
địa ngục.
Tỷ-kheo không
bao giờ
Phải sầu
muộn buồn thảm,
Thắng lợi trên
chánh đạo,
Sở hành được
chân chánh,
Vị ấy được
thọ hưởng,
Danh dự và an
lạc,
Chơn thực được
danh xưng,
Là bậc hưởng
Pháp lạc.
Do vậy ở đời
này,
Không thô lậu,
tinh tấn
Đoạn trừ
mọi triền cái,
Sống thanh
tịnh trong sạch,
Và đoạn tận
kiêu mạn,
Hoàn toàn, không
dư thừa,
Chấm dứt (mọi
phiền não),
Với trí tuệ
quang minh,
Ngài được
xem là bậc
Sống tịch
tịnh an lạc.
IV. Ananda (S.i,188)
1) Một thời Tôn giả Ananda trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anàthapinkika (Cấp Cô Độc).
2) Rồi Tôn giả Ananda vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực với Tôn giả Vangiisa là Sa-môn thị giả.
3) Lúc bây giờ Tôn giả Vangiisa tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá.
4) Rồi Tôn giả Vangiisa nói lên bài kệ với Tôn giả Ananda:
Dục ái đốt
cháy tôi,
Tâm tôi bị
thiêu cháy.
Thật là điều
tốt lành,
Đệ tử Gotama,
Vì lòng từ thương
tưởng,
Nói pháp tiêu
lửa hừng.
(Ananda):
5) Chính vì điên
đảo tưởng,
Tâm Ông bị
thiêu đốt,
Hãy từ bỏ
tịnh tướng,
Hệ lụy đến
tham dục,
Nhìn các hành
vô thường,
Khổ đau, không
phải ngã,
Dập tắt đại
tham dục,
Chớ để bị
cháy dài;
Hãy tu tâm
bất tịnh,
Nhứt tâm, khéo
định tĩnh,
Tu tập thân
niệm trú,
Hành nhiều
hạnh yểm ly;
Hãy tập hạnh
vô tướng,
Đoạn diệt
mạn tùy miên,
Nhờ quán sâu
kiêu mạn,
Hạnh Ông được
an tịnh.
V. Khéo Nói (S.i,188)
1) Tại Sàvatthi, Jetavana.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
3)- Thưa vâng, Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
4) Thế Tôn nói như sau:
- Đầy đủ bốn đức tánh, này các Tỷ-kheo, lời nói được xem là thiện thuyết, không phải ác thuyết, vô tội và không bị người có trí chỉ trích. Thế nào là bốn?
5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói lời thiện thuyết, không nói lời ác thuyết, nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp, nói lời ái ngữ, không nói lời ác ngữ, nói lời chơn ngữ, không nói lời phi chơn. Đầy đủ bốn đức tính này, này các Tỷ-kheo, lời nói được xem là thiện thuyết, không phải ác thuyết, vô tội và không bị người có trí chỉ trích.
6) Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ, Đạo Sư lại nói thêm:
Bậc Thiện Nhơn
dạy rằng:
Thứ nhất là
thiện thuyết,
Thứ hai nói đúng
pháp,
Chớ nói lời
phi pháp,
Thứ ba nói ái
ngữ,
Chớ nói lời
ác ngữ,
Thứ tư, nói
chơn thực,
Chớ nói lời
phi chơn.
7) Rồi Tôn giả Vangiisa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Thế Tôn, hãy soi sáng cho con! Thiện Thệ, hãy soi sáng cho con!
8) Thế Tôn nói:
- Này Vangiisa, mong rằng Ông được soi sáng!
9) Rồi Tôn giả Vangiisa trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán thích đáng:
Ai nói lên
lời gì,
Lời ấy không
khổ mình,
Lại không làm
hại người,
Lời ấy là
thiện thuyết.
Ai nói lời ái
ngữ,
Lời nói
khiến hoan hỷ,
Lời nói không
ác độc,
Lời ấy là ái
ngữ.
Các lời nói
chơn thật,
Là lời nói
bất tử,
Như vậy là thường
pháp,
Từ thuở
thật ngàn xưa.
Bậc Thiện Nhân
được xem,
An trú trên chơn
thực,
Trên nghĩa và
trên pháp,
Lời đồn là
như vậy.
Lời đức
Phật nói lên,
Đạt an ổn
Niết-bàn,
Chấm dứt
mọi khổ đau,
Thật lời nói
tối thượng.
VI. Sàriputta (Xá-lợi-phất) (S.i,189)
1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta với bài pháp thoại đang tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo, với lời nói lịch sự, thông suốt, không có phều phào, với ý nghĩa rõ ràng minh bạch. Và các vị Tỷ-kheo ấy chú ý, chú tâm, tập trung tâm lực, lắng tai nghe pháp.
3) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Tôn giả Sàriputta với bài pháp thoại đang tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo, với lời nói lịch sự, thông suốt, không có phều phào, với ý nghĩa rõ ràng minh bạch. Và các vị Tỷ-kheo ấy chú ý, chú tâm, tập trung tâm lực, lắng tai nghe pháp. Vậy trước mặt Tôn giả Sàriputta, ta hãy nói lên những bài kệ tán thán thích đáng".
4) Rồi Tôn giả Vangiisa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Tôn giả Sàriputta và nói với Tôn giả Sàriputta:
- Hiền giả Sàriputta, một vấn đề đến với tôi. Hiền giả Sàriputta, một vấn đề đến với tôi.
5)- Mong rằng Hiền giả Vangiisa nói lên vấn đề ấy!
6) Rồi Tôn giả Vangiisa, trước mặt Tôn giả Sàriputta, nói lên những lời kệ tán thán thích đáng:
Trí tuệ thâm,
trí giải,
Thiện xảo đạo,
phi đạo,
Ngài Sàriputta,
Là bậc Đại
trí tuệ.
Chính Ngài đang
thuyết pháp,
Cho các vị
Tỷ-kheo.
Ngài giảng cách
tóm tắt,
Ngài cũng
thuyết rộng rãi.
Như âm thanh vi
diệu,
Của loại chim
Sàli,
Lời Ngài
giảng tuôn trào,
Tiếng Ngài
nghe ngọt lịm.
Với giọng điệu
ái luyến,
Êm tai, và mỹ
diệu,
Chúng lắng tai
nghe pháp,
Tâm phấn
khởi hoan hỷ,
Này các vị
Tỷ-kheo.
VII. Tự Tứ (S.i,190)
1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Pubbàràma (Đông Viên), Migara - màtu pàsàda (Lộc Mẫu giảng đường), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều chứng quả A-la-hán.
2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn, nhân ngày trăng tròn Bố-tát Tự tứ, Ngài ngồi giữa trời, xung quanh chúng Tỷ-kheo đoanh vây.
3) Rồi Thế Tôn, sau khi nhìn quanh chúng Tỷ-kheo im lặng, liền bảo các Tỷ-kheo:
4) Này các Tỷ-kheo, nay Ta mời các Ông nói lên, các Ông có điều gì chỉ trích Ta hay không, về thân hay về lời nói?
5) Được nghe như vậy, Tôn giả Sàriputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
-Bạch Thế Tôn, chúng con không có chỉ trích gì Thế Tôn về thân hay về lời nói. Bạch Thế Tôn, con đường chưa sanh khởi, Thế Tôn làm cho sanh khởi; con đường chưa được rõ biết, Thế Tôn làm cho rõ biết; con đường chưa được thuyết giảng, Thế Tôn thuyết giảng. Thế Tôn biết đạo, hiểu đạo, thiện xảo về đạo; và bạch Thế Tôn, các đệ tử nay là những vị sống hành đạo, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau. Và bạch Thế Tôn, con xin mời Thế Tôn nói lên, Thế Tôn có điều gì chỉ trích con hay không, về thân hay về lời nói?
6) Này Sàriputta, Ta không có gì chỉ trích Ông về thân, hay về lời nói. Này Sàriputta, Ông là bậc Đại trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Quảng trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Tốc trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Tiệp trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Nhuệ trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Thể nhập trí. Này Sàriputta, ví như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương, chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này Sàriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được Ta chuyển vận.
7) Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn không có gì chỉ trích con về thân hay về lời nói, vậy bạch Thế Tôn, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Thế Tôn có gì chỉ trích hay không, về thân hay về lời nói?
8) Này Sàriputta, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Ta không có gì chỉ trích về thân hay về lời nói. Này Sàriputta, trong khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Tam minh, sáu mươi Tỷ- kheo là bậc chứng được sáu Thắng trí, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Câu giải thoát, và các vị còn lại là bậc Tuệ giải thoát.
9) Rồi Tôn giả Vangiisa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
10) Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con.
11) Thế Tôn nói:
- Này Vangiisa, hãy nói lên vấn đề ấy!
12) Rồi Tôn giả Vangiisa trước mặt Thế Tôn nói lên những bài kệ tán thán thích ứng:
Nay ngày rằm
thanh tịnh,
Năm trăm
Tỷ-kheo họp,
Bậc Thánh
cắt kiết phược,
Vô phiền, đoạn
tái sanh.
Như vua Chuyển
luân vương,
Đại thần
hầu xung quanh,
Du hành khắp
bốn phương,
Đất này đến
hải biên.
Như vậy, các
đệ tử,
Đã chứng được
Tam minh,
Sát hại được
tử thần,
Những vị này
hầu hạ,
Bậc thắng
trận chiến trường,
Chủ lữ hành
vô thượng.
Tất cả con
Thế Tôn,
Không ai là vô
dụng,
Xin chí thành
đảnh lễ,
Bậc nhổ tên
khát ái,
Xin tâm thành
cung kính,
Bậc dòng họ
mặt trời.
VIII. Một Ngàn và Nhiều Hơn (S.i,192)
1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc) cùng đại chúng Tỷ-kheo 1.250 vị.
2) Lúc bấy giờ Thế Tôn với bài pháp thoại liên hệ đến Niết-bàn, thuyết giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và những Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung tất cả tâm tư, lắng tai nghe pháp.
3) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Nay Thế Tôn với bài pháp thoại liên hệ đến Niết-bàn, đang thuyết giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và những Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung tất cả tâm tư, lắng tai nghe pháp. Vậy trước mặt Thế Tôn, ta hãy nói lên những bài kệ tán thán thích ứng."
4) Rồi Tôn giả Vangiisa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con.
5) Thế Tôn đáp:
- Này Vangiisa, hãy nói lên vấn đề ấy!
6) Rồi Tôn giả Vangiisa, trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán thích ứng:
Hơn một ngàn
Tỷ-kheo,
Hầu hạ bậc
Thiện Thệ,
Ngài thuyết pháp
vô cấu,
Niết-bàn, không
sợ hãi.
Họ nghe pháp vô
cấu,
Bậc Chánh Giác
thuyết giảng.
Thượng thủ
chúng Tỷ-kheo,
Bậch Chánh Giác
chói sáng.
Bạch Thế Tôn,
Thiện Thệ,
Ngài thật
bậc Long Tượng,
Bậc Ẩn Sĩ
thứ bảy ,
Trong các vị
Ân Sĩ.
Ngài trở thành
mây lớn,
Mưa móc ban đệ
tử.
Con từ nghỉ
trưa đến,
Muốn yết
kiến Đạo Sư.
Ôi bậc Đại
Anh hùng!
Con là đệ
tử Ngài,
Con tên Vangìsa,
Đảnh lễ dưới
chân Ngài.
7) Này Vangiisa, những bài kệ này của Ông, có phải Ông suy nghĩ từ trước hay được khởi lên tại chỗ?
8) Bạch Thế Tôn, những bài kệ này của con không phải suy nghĩ từ trước, chính được khởi lên tại chỗ.
9) Vậy này Vangiisa, hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ từ trước, được khởi lên tại chỗ.
10) Thưa vâng bạch Thế Tôn.
Tôn giả Vangiisa vâng đáp Thế Tôn và nói lên những bài kệ tán thán Thế Tôn; những bài kệ chưa được suy nghĩ từ trước:
Thắng ác ma, tà
đạo,
Ngài sống chướng
ngại đoạn.
Hãy thấy bậc
Giải Thoát,
Thoát ly mọi
hệ phược,
Phân tích thành
từng phần,
Hắc, bạch pháp
phân minh.
Ngài nói lên
con đường,
Nhiều pháp môn
khác biệt,
Mục đích giúp
mọi người,
Vượt qua dòng
bộc lưu,
Chính trên pháp
bất tử,
Được Ngài
(thường) tuyên thuyết.
Chúng con bậc
pháp kiến,
Vững trú không
thối chuyển,
Bậc tạo
dựng quang minh,
Ngài thâm
nhập (các pháp),
Thấy được
chỗ vượt qua,
Tất cả mọi
kiến xứ.
Sau khi biết và
chứng,
Ngài thuyết
tối thượng xứ,
Pháp như vậy
khéo giảng.
Ai có thể phóng
dật,
Khi được
biết pháp ấy,
Pháp khéo
giảng như vậy?
Do vậy trong giáo
pháp,
Đức Thế Tôn,
Thiện Thệ.
Luôn luôn không
phóng dật,
Hãy đảnh
lễ, tu học.
IX. Kondanna: Kiều-trần-như (S.i,193)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvanna (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Tôn giả Annàsi Kondanna, sau một thời gian khá dài, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn, tay xoa bóp chân Thế Tôn và nói lên tên của mình:
- Bạch Thế Tôn, con là Kondanna. Bạch Thiện Thệ, con là Kondanna.
3) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Tôn giả Annàsi Kondanna này, sau một thời gian khá dài, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn, tay xoa bóp chân Thế Tôn và nói lên tên của mình: ‘Bạch Thế Tôn, con là Kondanna. Bạch Thiện Thệ, con là Kondanna’. Vậy ta hãy ở trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Annàsi Kondanna".
4) Rồi Tôn giả Vangiisa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y về một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con.
5) Thế Tôn đáp:
- Này Vangiisa, hãy nói lên vấn đề ấy!
6) Rồi Tôn giả Vangiisa, trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Kondanna:
Sau đức Phật
hiện tại,
Trưởng lão
được chánh giác,
Chính là
Kondanna,
Nhiệt tâm và
tinh cần,
Chứng được
an lạc trú,
Sống viễn ly
liên tục,
Thực hành
lời Sư dạy.
Đệ tử
chứng được gì,
Tất cả Ngài
chứng được,
Nhờ tu học
tinh tấn,
Đại uy lực
Ba minh,
Thiện xảo tâm
tư người.
Phật tử
Kondanna,
Đảnh lễ chân
Đạo Sư.
X. Moggallàna: Mục-kiền-liên (S.i,194)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, trên sườn núi Isigili, tại núi Hắc Sơn, cùng với đại chúng Tỷ-kheo Tăng khoảng năm trăm vị, tất cả là bậc A-la-hán. Tôn giả Mahà Moggallàna với tâm của mình biết được tâm các vị ấy đã được giải thoát, không có sanh y.
2) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Thế Tôn nay trú ở Ràjagaha, trên sườn núi Isigili, tại Hắc Sơn cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả là bậc A-la-hán. Tôn giả Mahà Moggallàna với tâm của mình được biết tâm các vị ấy đã được giải thoát, không có sanh y. Vậy ta hãy trước mặt Thế Tôn nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Mahà Moggallàna".
3) Rồi Tôn giả Vangiisa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con.
4) Thế Tôn đáp:
- Này Vangiisa, hãy nói lên vấn đề ấy!
5) Rồi Tôn giả Vangiisa trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Mahà Moggallàana:
Cao trên sườn
đồi núi,
Những vị
chứng Ba minh,
Những vị đoạn
tử thần,
Các đệ tử
hầu hạ,
Bậc Thánh
giả, Mâu-ni,
Đã vượt qua
đau khổ.
Đại thần
lực Mục-liên,
Quán tâm các
vị ấy,
Biết họ được
giải thoát,
Không còn có
sanh y.
Như vậy họ
hầu hạ,
Mâu-ni Gotama,
Ngài vượt qua
đau khổ,
Mọi sở hành
đầy đủ,
Mọi đức tánh
vẹn toàn.
XI. Gaggarà (S,i,195)
1) Một thời Thế Tôn ở Campà, trên bờ hồ Gaggarà với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, với bảy trăm nam cư sĩ, với bảy trăm nữ cư sĩ và vài ngàn chư Thiên. Giữa đại chúng ấy, Thế Tôn chói sáng vượt bậc về quang sắc và danh xưng.
2) Rồi Tôn giả Vangiisa suy nghĩ: "Nay Thế Tôn trú ở Campà, trên bờ hồ Gaggarà với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, với bảy trăm nam cư sĩ, với bảy trăm nữ cư sĩ và vài ngàn chư Thiên. Giữa đại chúng ấy, Thế Tôn chói sáng vượt bậc về quang sắc và danh xưng. Vậy trước mặt Thế Tôn, ta hãy nói lên những bài kệ tán thán thích ứng".
3) Rồi Tôn giả Vangiisa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch:
- Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con.
4) Thế Tôn đáp:
- Này Vangiisa, hãy nói lên vấn đề ấy!
5) Rồi Tôn giả Vangiisa trước mặt Thế Tôn nói lên những bài kệ thích ứng tán thán:
Như mặt trăng
giữa trời,
Mây mù được
quét sạch,
Chói sáng như
mặt trời,
Thanh tịnh, không
cấu uế.
Cũng vậy Ngài
thật là
Đại Mâu-ni
Hiền Thánh,
Danh xưng Ngài
sáng chói,
Vượt qua mọi
thế giới.
XII. Vangiisa (S.i,196)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc).
2) Lúc bấy giờ Tôn giả Vangiisa, chứng quả A-la-hán không bao lâu, thọ hưởng giải thoát lạc, ngay trong lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
Thuở trước
ta mê thơ,
Bộ hành khắp
mọi nơi,
Từ làng này,
thành này,
Qua làng khác,
thành khác,
Ta thấy bậc
Chánh Giác,
Tín thành ta
sanh khởi.
Ngài thuyết pháp
cho ta,
Về uẩn, xứ
và giới,
Sau khi nghe Chánh
pháp,
Ta bỏ nhà
xuất gia.
Vì hạnh phúc
số đông,
Vì thấy đạo
hành đạo,
Cho Tỷ-kheo Tăng-Ni,
Bậc Mâu-ni giác
ngộ,
Ngài đã chấp
nhận con,
Được thành
đạo với Ngài,
Con chứng đạt
Ba minh,
Hành trì theo
Phật dạy.
Con biết được
đời trước,
Chứng thiên nhãn
thanh tịnh,
Ba minh, thần
thông lực,
Chứng đạt tha tâm thông.
--- o0o ---
| Mục lục Kinh Tương Ưng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11| 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22a | 22b | 22c | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29
| 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35a | 35b | 35c | 35d | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42
| 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nguyên Hân
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ Kinh này.
(Trang nhà Quảng Đức, 1/2002)
Nguồn: www.quangduc.com