Bấy giờ,
cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình và thi
thiết kia đều rốt ráo bất khả đắc, các Bồ tát Ma ha tát vì ai nên hành Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm? Phật
bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát chỉ lấy thật tế làm lượng nên hành
Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Thiện
Hiện phải biết: Nếu hữu tình tế khác thật tế ấy, thời các Bồ tát Ma ha tát
chẳng nên hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Vì hữu tình tế chẳng khác
thật tế, vậy nên chúng Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm. Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
vì chẳng hoại pháp thật tế an lập hữu tình khiến trụ thật tế. Cụ thọ
Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Nếu hữu tình tế tức là thật tế, vì sao Bồ
tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì chẳng hoại pháp
thật tế an lập hữu tình khiến trụ thật tế? Bạch Thế
Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm an lập
hữu tình khiến trụ thật tế, thời là an lập thật tế khiến trụ thật tế. Nếu
an lập thật tế khiến trụ thật tế, thời là an lập tự tánh khiến trụ tự
tánh. Những lý chẳng nên an lập tự tánh khiến trụ tự tánh. Làm sao nói
được các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì chẳng
hoại pháp thật tế, an lập hữu tình khiến trụ thật tế? Phật
bảo: Thiện Hiện! Lý thật chẳng nên an lập thật tế khiến trụ thật tế. Cũng
lại chẳng nên an lập tự tánh khiến trụ tự tánh. Nhưng các Bồ tát Ma ha tát
khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm có phương tiện khéo léo nên năng an
lập hữu tình khiến trụ thật tế, mà hữu tình tế chẳng khác thật tế. Như
vậy, Thiện Hiện! Hữu tình tế cùng thật tế không hai không khác. Cụ thọ
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Những gì gọi là Bồ tát Ma ha tát khi hành
Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. Do sức phương tiện
khéo léo đây nên an lập hữu tình khiến trụ thật tế, mà năng chẳng hoại
tướng thật tế? Phật
bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu
thẳm, từ sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương
tiện khéo léo đây nên an lập hữu tình khiến trụ bố thí. Các hữu tình kia
trụ bố thí rồi, vì nói tướng bố thí thời trước giữa sau không sai khác, là
khởi lời này: “Bố thí như thế thời trước giữa sau không chẳng đều không.
Kẻ thí, kẻ nhận, quả thí sở đắc cũng lại đều không. Tất cả như thế với
trong thật tế đều vô sở hữu trọn bất khả đắc, các ngươi chớ chấp bố thí,
kẻ thí, kẻ nhận, quả thí, thật tế mỗi khác. Nếu các ngươi được chẳng chấp
bố thí, kẻ thí, kẻ nhận, quả thí, thật tế mỗi mỗi có khác, sở tu phước thí
thời đến cam lồ, được quả cam lồ tất đem cam lồ mà làm mé sau”. Lại khởi
lời này: “Các ngươi thọ dụng sở tu phước thí đây chớ lấy sắc uẩn cho đến
thức uẩn. Chớ lấy nhãn xứ cho đến ý xứ. Chớ lấy sắc xứ cho đến pháp xứ.
Chớ lấy nhãn giới cho đến ý giới. Chớ lấy sắc giới cho đến pháp giới. Chớ
lấy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chớ lấy nhãn xúc cho đến ý xúc.
Chớ lấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra
các thọ. Chớ lấy
địa giới cho đến thức giới. Chớ lấy nhân duyên cho đến tăng thượng duyên.
Chớ lấy các pháp theo duyên sanh ra. Chớ lấy vô minh cho đến lão tử. Chớ
lấy bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa. Chớ lấy nội không cho đến vô tánh
tự tánh không. Chớ lấy chơn như cho đến bất tư nghì giới. Chớ lấy khổ tập
diệt đạo thánh đế. Chớ lấy bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Chớ lấy
bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chớ lấy không, vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn. Chớ lấy tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Chớ lấy
Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Chớ lấy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân
địa. Chớ lấy tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Chớ lấy năm nhãn, sáu
thần thông. Chớ lấy Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chớ lấy đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Chớ lấy ba mươi hai tướng Đại sĩ,
tám mươi tùy hảo. Chớ lấy pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Chớ lấy
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chớ lấy quả Dự lưu
cho đến Độc giác Bồ đề. Chớ lấy hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chớ lấy Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Chớ lấy pháp hữu lậu và vô lậu. Chớ lấy pháp thế gian và
xuất thế gian. Chớ lấy pháp hữu vi và vô vi. Sở dĩ vì sao? Vì tất
cả bố thí, tánh bố thí không. Tất cả kẻ thí, tánh kẻ thí không. Tất cả kẻ
nhận, tánh kẻ nhận không. Tất cả quả thí, tánh quả thí không. Trong không,
bố thí kẻ thí kẻ nhận và các quả thí đều bất khả đắc. Vì cớ sao? Các pháp
như thế tự tánh sai khác, đều rốt ráo không. Trong rốt ráo không, các pháp
như thế bất khả đắc vậy. Do các pháp bất khả đắc đây nên các pháp bị lấy
cũng bất khả đắc”. Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm từ
sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện khéo
léo đây nên an lập hữu tình khiến trụ tịnh giới. Các hữu tình kia trụ tịnh
giới rồi, lại nói lời này: “Ngày nay các ngươi đối các hữu tình nên rất
thương xót, lìa giết sanh mạng, nói rộng cho đến lìa tà kiến, tu hành
chánh kiến. Sở dĩ vì sao? Các pháp như thế đều vô tự tánh, các ngươi chẳng
nên phân biệt chấp trước. Các ngươi lại nên quán sát đúng lý pháp nào gọi
sanh muốn hại mạng kia, lại bởi duyên nào mà hại mạng kia. Nói rộng cho
đến pháp nào gọi là cảnh bị tà kiến, muốn khởi tà kiến, lại bởi duyên nào
mà khởi tà kiến. Tất cả như thế tự tánh đều không”. Thiện
Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
trọn nên phương tiện khéo léo như thế, khéo năng thành thục các loại hữu
tình, đem vô lượng môn vì thuyết bố thí và quả tịnh giới đều bất khả đắc,
khiến biết bố thí và quả tịnh giới tự tánh đều không. Kia đã biết rõ sở tu
bố thí và quả tịnh giới tự tánh không rồi, năng đối trong ấy chẳng sanh
chấp trước. Do chẳng chấp trước, tâm không tán loạn. Không tán loạn nên
năng phát diệu huệ. Nhờ diệu huệ đây, dứt hẳn tùy miên và các buộc rồi,
vào cõi Vô dư y bát Niết bàn. Thiện
Hiện phải biết: Đã thuyết như thế đều nương thế tục, chẳng nương thắng
nghĩa. Sở dĩ vì sao? Trong không, không có chút pháp khá được. Hoặc đã
Niết bàn, hoặc nay Niết bàn, hoặc sẽ Niết bàn, hoặc kẻ Niết bàn, hoặc do
đây nên được vào Niết bàn, tất cả như thế đều vô sở hữu, đều rốt ráo
không. Tánh rốt ráo không tức là Niết bàn, lìa đây không riêng thật pháp
Niết bàn. Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm từ
sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện khéo
léo đây nên thấy các hữu tình tâm nhiều giận dữ, rất sanh thương xót,
phương tiện dạy răn, khởi lời nói này: “Các ngươi ngày nay nên tu an nhẫn,
vui pháp an nhẫn điều phục nơi tâm, thọ hành an nhẫn. Pháp ngươi đã giận
tự tánh đều không, vì sao đối trong mà sanh giận dữ? Các ngươi lại nên
quán sát đúng lý: Ta do pháp nào mà sanh giận dữ? Ai hay giận dữ? Giận dữ
với ai? Các pháp như vậy bản tánh đều không. Pháp bản tánh không chưa từng
chẳng không. Tánh không như thế chẳng Như Lai làm, chẳng Bồ tát làm, chẳng
Độc giác làm, chẳng Thanh văn làm, cũng chẳng rồng thần, nói rộng cho đến
người phi người làm, cũng chẳng trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Phi
tưởng phi phi tưởng xứ làm. Các ngươi lại nên quán sát đúng lý: Giận dữ
như thế bởi đâu mà sanh, vì thuộc nơi ai, lại đối ai khởi, sẽ được quả
nào, hiện được lợi gì? Là tất cả pháp này bản tánh đều không. Chẳng phải
trong tánh không có đáng giận dữ, nên phải an nhẫn để tự nhiêu ích lấy
mình”. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
trọn nên phương tiện khéo léo rất thắng, an lập hữu tình nơi lý tánh
không, nhân quả tánh không, lần hồi đem Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chỉ
hiện khuyên dắt, khen gắng vui mừng, khéo khiến an trụ mau năng chứng
được. Thiện
Hiện phải biết: Đã thuyết như thế đều nương thế tục, chẳng nương thắng
nghĩa. Sở dĩ vì sao? Vì trong bản tánh không năng đắc, sở đắc, thời đắc,
xứ đắc đều chẳng thật có. Thiện
Hiện phải biết: Đấy gọi lý thật tế bản tánh không. Các Bồ tát Ma ha tát vì
muốn nhiêu ích các loại hữu tình, nương lý thật tế bản tánh không đây hành
Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, chẳng đắc hữu tình và thi thiết kia. Sở dĩ
vì sao? Vì tất cả pháp lìa các hữu tình. Hữu tình lìa nên pháp bất khả
đắc. Pháp và hữu tình đối đãi nhau an lập, nương thắng nghĩa mà nói tất cả
đều không. Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
từ sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện
khéo léo đây, thấy các hữu tình thân tâm lười nhác, lui mất tinh tiến,
phương tiện khuyên dẫn khiến kia phát khởi thân tâm tinh tiến, tu các
thiện pháp, khởi lời như vầy: “Các thiện nam tử! Rất nên tín thọ, trong
bản tánh không không pháp lười nhác, không kẻ lười nhác, không xứ lười
nhác, không thời lười nhác, không bởi pháp đây phát sanh lười nhác. Tất cả
như thế đều bản tánh không, chẳng vượt không lý. Các ngươi nên phát thân
tâm tinh tiến, xả các lười nhác, siêng tu thiện pháp. Nghĩa là
tu bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa. Hoặc tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng,
bốn vô sắc định. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Hoặc tu
không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Hoặc trụ
nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc trụ chơn như cho đến bất tư
nghì giới. Hoặc trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Hoặc tu
tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc tu Tịnh quán địa cho đến Như Lai
điạ. Hoặc tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tu tất cả đà la ni môn,
tam ma địa môn. Hoặc tu năm nhãn, sáu thần thông. Hoặc tu Như Lai mười lực
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả. Hoặc tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Hoặc tu pháp vô
vong thất, tánh hằng trụ xả. Hoặc tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí. Hoặc tu quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Hoặc tu tất cả
hạnh Bồ tát Ma ha tát. Hoặc tu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Hoặc
tu vô lượng vô biên các Phật pháp khác. Nên siêng tinh tiến, chớ sanh lười
nhác chịu khổ vô cùng. Các
thiện nam tử! Tất cả pháp này bản tánh đều không, không các chướng ngại.
Các ngươi nên quản lý bản tánh không. Trong không chướng ngại, không có
pháp lười nhác, không kẻ lười nhác, duyên xứ thời đây cũng bất khả đắc”. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
trọn nên phương tiện khéo léo thù thắng, an lập hữu tình khiến trụ lý các
pháp bản tánh không. Mặc dù khiến an trụ mà không hai tưởng. Sở dĩ vì sao?
Vì lý bản tánh không, không hai không riêng. Chẳng phải pháp không hai khá
đối trong ấy mà tác hai tưởng. Lại nữa,
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm nương
bản tánh không, dạy răn dạy trao các loại hữu tình khiến siêng tu học,
rằng nói lời này: “Các thiện nam tử! Người đối thiện pháp phải nên siêng
tu học. Nếu khi tu bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa, đối các pháp này
chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai. Nói rộng cho đến nếu khi tu vô
lượng vô biên các Phật pháp khác, đối các pháp này chẳng nên suy nghĩ
tướng hai chẳng hai. Sở dĩ vì sao? Các thiện nam tử! Các pháp như thế đều
bản tánh không. Lý bản tánh không chẳng nên suy nghĩ tướng hai chẳng hai”. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
trọn nên phương tiện khéo léo thù thắng, hành hạnh Bồ tát thành thục hữu
tình. Các loại hữu tình đã thành thục rồi, tùy kia sở ưng lần hồi an lập
hoặc khiến trụ quả Dự lưu, hoặc khiến trụ quả Nhất lai, hoặc khiến trụ quả
Bất hoàn, hoặc khiến trụ quả A la hán, hoặc khiến trụ Độc giác Bồ đề, hoặc
khiến trụ các ngôi Bồ tát Ma ha tát, hoặc khiến trụ chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm từ
sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện khéo
léo đây, thấy các hữu tình tâm nhiều tán loạn, đối các dục cảnh chẳng
nhiếp các căn, phát khởi các nghiệp chẳng vắng lặng. Thấy rồi phương tiện
dạy răn dạy trao khiến vào thắng định, rằng khởi lời này: “Các thiện nam
tử, đến đây! Ngươi nên tu tập thắng tam ma địa, chớ khởi tán loạn và tưởng
thắng định. Sở dĩ vì sao? Các pháp như thế bản tánh đều không. Trong bản
tánh không, không có pháp khá được hoặc gọi tán loạn, hoặc gọi nhất tâm.
Các ngươi nếu năng trụ được thắng định đây, sở tác thiện sự đều mau thành
mãn, cũng tùy sở dục trụ bản tánh không. Những gì gọi là sở tác thiện sự?
Là khởi nghiệp tịnh thắng thân ngữ ý, hoặc tu bố thí cho đến bát nhã Ba la
mật đa. Nói rộng cho đến hoặc tu hạnh Bồ tát Ma ha tát và Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề, hoặc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tất cả
thiện pháp tịnh thắng như thế, do sức thắng định đều chóng thành mãn và
tùy sở nguyện trụ bản tánh không”. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
phương tiện khéo léo vì nhiêu ích các hữu tình nên từ sơ phát tâm cho đến
rốt ráo cầu làm thiện lợi thường không gián đoạn. Vì muốn lợi vui các hữu
tình, nên từ một nước Phật đến một nước Phật gần gũi cúng dường chư Phật
Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật lóng nghe Chánh pháp, xả thân thọ thân trải vô số
kiếp cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ở thời gian giữa trọn chẳng quên
mất. Bồ tát Ma ha tát này được đà la ni, căn thân ngữ ý thường không lui
giảm. Sở dĩ vì
sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này hằng khéo tu đủ nhất thiết tướng trí, các hữu
sở tác năng khéo suy lường. Do khéo tu đủ nhất thiết tướng trí, các hữu sở
tác năng khéo suy lường, đối tất cả đạo đều năng tu tập. Nghĩa là đạo
Thanh văn, hoặc đạo Độc giác, hoặc đạo Bồ tát, hoặc đạo Như Lai, hoặc đạo
thắng trời, hoặc đạo thắng người, hoặc đạo các Bồ tát thắng thần thông. Bồ
tát Ma ha tát này do trụ đạo thần thông thù thắng, thường làm việc nhiêu
ích các hữu tình, dù phải lộn quanh qua các thú sanh tử nhiều kiếp mà
thắng thần thông thường không lui giảm. Vì không lui giảm dị thục thần
thông, hằng làm các việc thắng nhiêu ích cho mình và người. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm trụ
bản tánh không, phương tiện khéo léo năng khéo nhiêu ích các hữu tình.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
từ sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện
khéo léo đây nên trụ bản tánh không, thấy các hữu tình trí huệ mỏng kém,
ngu si điên đảo gây các ác nghiệp, dạy răn dạy trao phương dẫn vào Bát nhã
Ba la mật đa sâu thẳm, nói lời như vầy: “Các thiện nam tử! Nên tu Bát nhã
Ba la mật đa, quán tất cả pháp bản tánh đều không. Các ngươi nếu năng tu
được Bát nhã Ba la mật đa đây, quán tất cả pháp bản tánh đều không, các sở
tu hành nghiệp thân ngữ ý đều tới cam lồ, được quả cam lồ tất đem cam lồ
mà làm ngằn mé sau. Các
thiện nam tử! Tất cả pháp này bản tánh đều không. Trong bản tánh không,
hữu tình và pháp mặc dù bất khả đắc mà chỗ tu hành cũng chẳng lui mất. Vì
cớ sao? Thiện nam tử! Lý bản tánh không chẳng tăng chẳng giảm. Trong bản
tánh không, không pháp tăng giảm, không kẻ tăng giảm. Sở dĩ vì sao? Lý bản
tánh không chẳng có tự tánh, chẳng không tự tánh, lìa các phân biệt, tuyệt
các hý luận, nên đối trong ấy không pháp tăng giảm, không kẻ tăng giảm, do
đây sở tác cũng không lui mất. Vậy nên, các ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật
đa, quán bản tánh không, làm việc đáng làm”. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm,
phương tiện khéo léo dạy răn dạy trao các loại hữu tình khiến vào Bát nhã
Ba la mật đa, trụ bản tánh không, tu các nghiệp lành. Thiện
Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này dạy răn dạy trao hữu tình như thế tu
các nghiệp lành thường không biếng bỏ. Nghĩa là tự thường hành mười thiện
nghiệp đạo, cũng khuyên người thường hành mười thiện nghiệp đạo. Tự thường
trọ trì năm giới cận sự, cũng khuyên người thường thọ trì năm giới cận sự.
Tự thường trọ trì tám giới cận sự, cũng khuyên người thường thọ trì tám
giới cận sự. Tự thường trọ trì các giới xuất gia, cũng khuyên người thường
thọ trì các giới xuất gia. Tự
thường tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định; cũng khuyên
người thường tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tự thường
tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, cũng khuyên người thường
tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tự thường tu hành không vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn; cũng khuyên người thường tu hành không vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tự thường tu hành bố thí cho đến bát nhã
Ba la mật đa, cũng khuyên người thường tu hành bố thí cho đến bát nhã Ba
la mật đa. Tự
thường an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng khuyên người
thường an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tự thường an trụ
chơn như cho đến bất tư nghì giới, cũng khuyên người thường an trụ chơn
như cho đến bất tư nghì giới. Tự thường an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế,
cũng khuyên người thường an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Tự
thường tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng khuyên người
thường tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tự thường tu hành các
bậc Bồ tát, cũng khuyên người thường tu hành các bậc Bồ tát. Tự thường tu
hành đà la ni môn, tam ma địa môn, cũng khuyên người thường tu hành đà la
ni môn, tam ma địa môn. Tự
thường tu học năm nhãn, sáu thần thông, cũng khuyên người thường tu học
năm nhãn, sáu thần thông. Tự thường tu học Như Lai mười lực cho đến mười
tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người thường tu học Như Lai mười lực
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tự thường tu học đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, cũng khuyên người thường tu học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả. Tự thường tu học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; cũng khuyên
người thường tu học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tự thường tu học
nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; cũng khuyên người
thường tu học nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Tự
thường tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo; cũng khuyên
người thường tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Tự
thường phát khởi trí quả Dự lưu cho đến trí Độc giác Bồ đề, mà chẳng trụ
quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề; cũng khuyên người thường phát khởi trí
quả Dự lưu cho đến trí Độc giác Bồ đề, hoặc khiến trụ quả Dự lưu cho đến
Độc giác Bồ đề. Tự thường phát khởi các hạnh Bồ tát Ma ha tát, cũng khuyên
người thường phát khởi các hạnh Bồ tát Ma ha tát. Tự thường phát khởi đạo
chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng khuyên người thường phát khởi
chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Như vậy,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương
tiện khéo léo, tự tu nghiệp lành thường không biếng bỏ, dạy răn dạy trao
các loại hữu tình khiến tu nghiệp lành, thường không biếng bỏ. Thiện
Hiện! Đấy gọi các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm
phương tiện khéo léo, do sức phương tiện khéo léo đây nên an lập hữu tình
khiến trụ thật tế mà chẳng năng hoại tướng thật tế, mau chứng Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Bấy giờ,
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều bản tánh không, trong
bản tánh không hữu tình và pháp đều bất khả đắc. Bởi với trong đây cũng
không phi pháp, Bồ tát Ma ha tát làm sao vì các hữu tình cầu mau chứng
Nhất thiết trí trí? Phật
bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói, các pháp sở hữu đều
bản tánh không. Trong bản tánh không hữu tình và pháp đều bất khả đắc, bởi
với trong ấy cũng không phi pháp. Thiện
Hiện phải biết: Nếu tất cả pháp bản tánh chẳng không, các Bồ tát Ma ha tát
khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng ưng an trụ lý bản tánh không,
cầu mau chứng được Nhất thiết trí trí, vì nhiêu ích hữu tình thuyết pháp
bản tánh không. Bởi tất cả pháp đều bản tánh không, vậy nên các Bồ tát Ma
ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, trụ lý tất cả pháp bản tánh
không, cầu mau chứng được Nhất thiết trí trí, vì nhiêu ích hữu tình thuyết
pháp bản tánh không. Những các pháp nào bản tánh đều không mà các Bồ tát
Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thật biết rõ bản tánh
không rồi, trụ bản tánh không vì kia thuyết pháp? Thiện
Hiện phải biết: Sắc cho đến thức đều bản tánh không. Nhãn xứ cho đến ý xứ
đều bản tánh không. Sắc xứ cho đến pháp xứ đều bản tánh không. Nhãn giới
cho đến ý giới đều bản tánh không. Sắc giới cho đến pháp giới đều bản tánh
không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới đều bản tánh không. Nhãn xúc cho
đến ý xúc đều bản tánh không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ đều bản tánh không. Địa giới
cho đến thức giới đều bản tánh không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên
đều bản tánh không. Các pháp theo duyên sanh ra đều bản tánh không. Vô
minh cho đến lão tử đều bản tánh không. Bố thí cho đến bát nhã Ba la mật
đa đều bản tánh không. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không đều bản
tánh không. Chơn như cho đến bất tư nghì giới đều bản tánh không. Khổ tập
diệt đạo thánh đế đều bản tánh không. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô
sắc định đều bản tánh không. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi đều
bản tánh không. Không vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đều bản tánh
không. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ đều bản tánh không. Tịnh
quán địa cho đến Như Lai địa đều bản tánh không. Cực hỷ địa cho đến Pháp
vân địa đều bản tánh không. Đà la ni môn, tam ma địa môn đều bản tánh
không. Năm nhãn, sáu thần thông đều bản tánh không. Như Lai mười lực cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng đều bản tánh không. Đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả đều bản tánh không. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả đều bản
tánh không. Nhất
thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí đều bản tánh không. Ba mươi
hai tướng, tám mươi tùy hảo đều bản tánh không. Quả Dự lưu cho đến Độc
giác Bồ đề đều bản tánh không. Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát đều bản tánh
không. Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đều bản tánh không. Dứt hẳn tất
cả phiền não tập khí sở tri nối nhau đều bản tánh không. Nhất thiết trí
trí đều bản tánh không. Các Bồ
tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thật biết rõ sắc
thảy năm uẩn, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí bản tánh không rồi, trụ
bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như thế. Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu tánh nội không bản tánh chẳng không, cho đến tánh vô tánh
tự tánh không bản tánh chẳng không, thời các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát
nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng ưng vì các hữu tình thuyết tất cả pháp bản
tánh đều không. Nếu khởi thuyết này bèn làm hoại bản tánh không. Nhưng lý
bản tánh không chẳng thể hoại, chẳng thường chẳng đoạn. Sở dĩ vì sao? Lý
bản tánh không không phương không xứ, không từ đâu đến, cũng không đi đâu.
Không lý như thế cũng gọi pháp trụ. Trong đây không pháp không tụ không
tán, không giảm không tăng, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh,
là tánh bản sở trụ tất cả pháp. Các Bồ
tát Ma ha tát an trụ trong ấy cầu mau chứng được Nhất thiết trí trí. Chẳng
thấy có pháp có sở cầu chứng, chẳng thấy có pháp không sở cầu chứng, vì
tất cả pháp đều vô sở trụ, nên gọi pháp trụ. Các Bồ tát Ma ha tát an trụ
trong đây hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thấy tất cả pháp bản tánh
không rồi, định đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui. Sở dĩ
vì sao? Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy có pháp năng làm chướng ngại. Vì
thấy tất cả pháp không chướng ngại, bèn đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
chẳng sanh nghi ngờ, nên chẳng quay lui. Lại nữa,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát trụ trong tất cả pháp bản tánh không,
quán bản tánh không đều vô sở đắc. Nghĩa là ngã, hữu tình, nói rộng cho
đến tri giả, kiến giả và thi thiết kia đều bất khả đắc. Sắc cho đến thức
và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ và thi thiết kia
cũng bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ và thi thiết kia cũng bất khả
đắc. Nhãn giới cho đến ý giới và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Sắc giới
cho đến pháp giới và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nhãn thức giới cho
đến ý thức giới và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc
và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho
đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Địa giới
cho đến thức giới và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nhân duyên cho đến
tăng thượng duyên và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Các pháp theo duyên
sanh ra và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử và thi
thiết kia cũng bất khả đắc. Bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa và thi
thiết kia cũng bất khả đắc. Nội
không cho đến vô tánh tự tánh không và thi thiết kia cũng bất khả đắc.
Chơn như cho đến bất tư nghì giới và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Khổ
tập diệt đạo thánh đế và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho
đến tám thánh đạo chi và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Bốn tĩnh lự, bốn
vô lượng, bốn vô sắc định và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Không vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Tám
giải thoát cho đến mười biến xứ và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Tịnh
quán địa cho đến Như Lai địa và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Cực hỷ địa
cho đến Pháp vân địa và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Đà la ni môn, tam
ma địa môn và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Năm nhãn, sáu thần thông và
thi thiết kia cũng bất khả đắc. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ
xả và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nhất
thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí và thi thiết kia cũng bất
khả đắc. Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề và thi thiết kia cũng bất khả
đắc. Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề và
thi thiết kia cũng bất khả đắc. Pháp hữu lậu, vô lậu và thi thiết kia cũng
bất khả đắc. Pháp thế gian, xuất thế gian và thi thiết kia cũng bất khả
đắc. Pháp hữu vi, vô vi và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Ba mươi hai
tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Thiện
Hiện phải biết: Như có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm bốn chúng là Bí
sô, Bí sô ni, cận sự nam, cận sự nữ. Giả sử Hóa Phật sống lâu một kiếp
hoặc một kiếp hơn, vì bốn chúng hóa tuyên nói Chánh pháp. Nơi ấy hiểu sao?
Hoá chúng như thế vả có năng được hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc
quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc quả Độc giác Bồ đề, hoặc được ký
bất thối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chăng? Thiện
Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Sở dĩ vì sao? Vì các hóa chúng
này đều không thật sự. Chẳng phải pháp không thật có thể được ký Bất thối
chuyển. Phật
bảo: Thiện Hiện! Các pháp cũng vậy, đều bản tánh không, trọn không thật
sự. Với trong, những Bồ tát Ma ha tát nào, vì những hữu tình nào, thuyết
những pháp gì khá khiến chứng được hoặc quả Dự lưu cho đến hoặc được ký
Bất thối chuyển? Thiện
Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát mặc dù vì hữu tình tuyên nói không
pháp mà các hữu tình thật bất khả đắc. Vì thương xót kia đọa pháp điên đảo
nên cứu vớt khiến trụ pháp không điên đảo. Pháp không điên đảo ấy là không
phân biệt, không phân biệt ấy không điên đảo vậy. Nếu có phân biệt thời có
điên đảo, vì đẳng lưu kia vậy. Thiện
Hiện phải biết: Điên đảo tức là pháp không điên đảo. Trong không điên đảo,
không ngã hữu tình nói rộng cho đến tri giả kiến giả. Cũng không sắc uẩn
cho đến thức uẩn. Cho đến cũng không ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo. Thiện
Hiện phải biết: Vô sở hữu đây tức bản tánh không. Các Bồ tát Ma ha tát khi
hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm an trụ trong đây thấy các hữu tình đọa
tưởng điên đảo, phương tiện khéo léo khiến được giải thoát, là khiến giải
thoát không ngã tưởng ngã, nói rộng cho đến không kẻ tri kiến tưởng kẻ tri
kiến. Cũng khiến giải thoát không sắc tưởng sắc, nói rộng cho đến không
tám mươi tùy hảo tưởng tám mươi tùy hảo. Cũng khiến giải thoát năm thủ uẩn
thảy các pháp hữu lậu. Cũng khiến giải thoát bốn niệm trụ thảy các pháp vô
lậu. Sở dĩ vì sao? Vì bốn niệm trụ thảy các pháp vô lậu chẳng như thắng
nghĩa không sanh không diệt, không tướng không vi, không hý luận, không
phân biệt, vậy nên cũng phải giải thoát pháp kia. Chơn thắng nghĩa ấy tức
bản tánh không. Bản tánh không đây tức Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chư Phật
đã chứng. Thiện
Hiện phải biết: Trong đây không ngã cho đến kiến giả khá được. Cũng không
sắc uẩn cho đến thức uẩn khá được. Cũng không nhãn xứ cho đến ý xứ khá
được. Cũng không sắc xứ cho đến pháp xứ khá được. Cũng không nhãn giới cho
đến ý giới khá được. Cũng không sắc giới cho đến pháp giới khá được. Cũng
không nhãn thức giới cho đến ý thức giới khá được. Cũng không nhãn xúc cho
đến ý xúc khá được. Cũng không nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến
ý xúc làm duyên sanh ra các thọ khá được. Cũng
không địa giới cho đến thức giới khá được. Cũng không nhân duyên cho đến
tăng thượng duyên khá được. Cũng không các pháp theo duyên sanh ra khá
được. Cũng không vô minh cho đến lão tử khá được. Cũng không bố thí cho
đến bát nhã Ba la mật đa khá được. Cũng không nội không cho đến vô tánh tự
tánh không khá được. Cũng không chơn như cho đến bất tư nghì giới khá
được. Cũng không khổ tập diệt đạo thánh đế khá được. Cũng không bốn niệm
trụ cho đến tám thánh đạo chi khá được. Cũng không bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn vô sắc định khá được. Cũng không không, vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn khá được. Cũng không tám giải thoát cho đến mười biến xứ
khá được. Cũng
không Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa khá được. Cũng không Cực hỷ địa
cho đến Pháp vân địa khá được. Cũng không đà la ni môn, tam ma địa môn khá
được. Cũng không năm nhãn, sáu thần thông khá được. Cũng không Như Lai
mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng khá được. Cũng không đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả khá được. Cũng không pháp vô vong thất, tánh hằng
trụ xả khá được. Cũng
không nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí khá được. Cũng
không quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề khá được. Cũng không các hạnh Bồ
tát Ma ha tát, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khá được. Cũng không ba
mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo khá được. Thiện
Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát chẳng vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề nên cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mà chỉ vì các pháp bản tánh
không, nên cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bản tánh không này thời
trước giữa sau thường bản tánh không, chưa lúc nào chẳng không. Các Bồ tát
Ma ha tát trụ bản tánh không Ba la mật đa, vì muốn giải thoát các loại hữu
tình chấp tưởng hữu tình và tưởng pháp, nên hành đạo tướng trí. Bồ tát Ma
ha tát này khi hành đạo tướng trí tức hành tất cả đạo là đạo Thanh văn
hoặc đạo Độc giác, hoặc đạo Bồ tát, hoặc đạo Như Lai. Thiện
Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả đạo được viên mãn rồi,
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, lưu lại các hạnh sống lâu, tới
chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,
năng khiến mắt Phật thường chẳng đứt hoại. Mắt Phật là gì? Là bản tánh
không. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trụ mười phương cõi, vì các hữu
tình tuyên nói Chánh pháp, không chẳng đều dùng bản tánh không đây mà làm
mắt Phật. Thiện
Hiện phải biết: Tất không chư Phật lìa bản tánh không mà ra đời được. Chư
Phật ra đời không chẳng đều thuyết nghĩa bản tánh không. Hữu tình được hóa
cần nghe Phật thuyết nghĩa bản tánh không, mới vào Thánh đạo được quả
Thánh đạo. Nếu lìa bản tánh không, không riêng có phương tiện nào khác. Vậy nên,
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát muốn mau chứng được Nhất thiết trí trí,
nên chính an trụ lý bản tánh không, tu hành sáu thứ Ba la mật đa và các
hạnh Bồ tát Ma ha tát. Nếu chính an trụ bản tánh không tu hành sáu thứ Ba
la mật đa và các hạnh Bồ tát Ma ha tát, quyết chẳng lui mất Nhất thiết trí
trí, thường năng nhiêu ích tất cả hữu tình. Cụ thọ
Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát rất lạ hiếm có, mặc dù
hành tất cả pháp bản tánh đều không, mà đối bản tánh không thường không
mất hoại. Nghĩa chẳng chấp sắc thọ tưởng hành thức khác bản tánh không,
cho đến chẳng chấp chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khác bản tánh
không. Bạch Thế
Tôn! Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Cho đến chư
Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tức là bản tánh không, bản tánh không tức
là chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Phật
bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Các Bồ tát Ma ha tát
rất lạ hiếm có, mặc dù hành tất cả pháp đều bản tánh không, mà đối bản
tánh không thường không mất hoại. Thiện
Hiện phải biết: Sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác
sắc. Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Cho đến chư
Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng khác bản tánh không, bản tánh không
chẳng khác chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề tức là bản tánh không, bản tánh không tức là chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Thiện
Hiện phải biết: Nếu sắc khác bản tánh không, bản tánh không khác sắc; sắc
chẳng bản tánh không, bản tánh không chẳng sắc. Cho đến chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề khác bản tánh không, bản tánh không khác chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề; chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bản
tánh không, bản tánh không chẳng chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ấy,
thời các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng nên
quán tất cả pháp đều bản tánh không, cũng chẳng nên năng chứng được Nhất
thiết trí trí. Thiện
Hiện phải biết: Vì sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng
khác sắc. Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Cho đến
chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng khác bản tánh không, bản tánh
không chẳng khác chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề tức là bản tánh không, bản tánh không tức là chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nên các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật đa sâu thẳm, quán tất cả pháp đều bản tánh không mà năng chứng được
Nhất thiết trí trí. Sở dĩ vì sao? Vì lìa bản tánh không, không có một pháp
là thật là thường, khá hoại khá đoạn. Trong bản tánh không, cũng không một
pháp là thật là thường, khá hoại khá đoạn. Chỉ bởi các đứa ngu mê lầm điên
đảo khởi tưởng riêng khác, nghĩa là phân biệt sắc khác bản tánh không, cho
đến phân biệt chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khác bản tánh không. Vì
các đứa ngu này phân biệt các pháp cùng bản tánh không có sai khác, nên
chẳng như thật biết sắc, chẳng như thật biết thọ tưởng hành thức. Bởi
chẳng biết nên bèn chấp trước sắc, chấp trước thọ tưởng hành thức. Bởi
chấp trước nên mới đối sắc chấp ngã ngã sở, đối thọ tưởng hành thức chấp
ngã ngã sở. Bởi vọng chấp nên mắc vật trong ngoài, thọ thân sau sắc thọ
tưởng hành thức. Do đây chẳng năng giải thoát được các thú sanh lão bệnh
tử rầu buồn khổ não, qua lại ba cõi xoay quanh không cùng. Bởi nhân duyên
đây, các Bồ tát Ma ha tát trụ bản tánh không Ba la mật đa, hành Bát nhã Ba
la mật đa sâu thẳm, chẳng chấp thọ sắc, cũng chẳng hoại sắc hoặc không
hoặc chẳng không. Cho đến chẳng chấp thọ chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề, cũng chẳng hoại chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc không hoặc
chẳng không. Sở dĩ vì sao? Sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc,
rằng đây là sắc đây là không. Cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
chẳng hoại không, không chẳng hoại chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,
rằng đây là chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đây là không. Ví như
hư không chẳng hoại hư không. Cõi hư không trong chẳng hoại cõi hư không
ngoài, cõi hư không ngoài chẳng hoại cõi hư không trong. Như vậy, Thiện
Hiện! Sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc. Cho đến chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng hoại không, không chẳng hoại chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì sao? Vì các pháp như thế đều vô tự tánh,
chẳng thể phân biệt rằng đây là không, đây là chẳng không, vì tất cả pháp
đều bản tánh không. Trong bản tánh không, không có phân biệt vậy.
Nguồn: www.quangduc.com