Thiện hiện! Bồ Tát Ma ha tát
này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi trụ nội không, trụ tâm vô lậu
mà trụ nội không. Nếu khi trụ ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không,
vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tư tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tánh không, vô tánh tự tánh không; trụ tâm vô lậu mà trụ ngoại không
cho đến vô tự tánh không. Vậy nên, tuy trụ nội không cho đến vô tánh tự
tánh không mà không hai tưởng. Thiện hiện! Bồ tát Ma ha tát
này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi trụ chơn như, trụ tâm vô lậu
mà trụ chơn như. Nế khi trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất hư
vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Vậy nên, tuy trụ chơn như
cho đến bất tư nghì giới mà không hai tưởng. Thiện Hiện! Bồ tát ma ha tát
này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu năm nhãn, trụ tâm vô lậu
mà tu năm nhãn. Nếu khi tu sáu thần thông, trụ tâm vô lậu mà tu sáu thần
thông mà không hai tưởng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu Phật mười lực, trụ tâm vô
lậu mà tu Phật mười lực. Nếu khi tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười
tám pháp Phật bất cộng; trụ tâm vô lậu mà tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, mười tám pháp Phật bất cộng mà không hai tưởng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này vì tu hành bát nhã ba la mật đa, nếu khi tu đại từ, trụ tâm vô lậu mà
tu đại bi, đại hỷ, đại xả. Vậy nên, tuy tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả
mà không hai tưởng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu nhất thiết trí, trụ tâm vô
lậu mà tu nhất thiết trí; trụ tâm vô lậu mà tu đạo tướng trí, nhất thiết
tướng trí. Vậy nên, tuy tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí mà không hai tưởng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu nhất thiết trí, trụ tâm vô
lậu mà tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí mà không hai tưởng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát
này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ.
Nếu khi dẫn tám mươi tùy hảo. Vậy nên, tuy dẫn ba mươi tùy hảo mà không
hai tưởng. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật
đa, khi hành bố thí Ba la mật đa, trụ tâm vô lậu mà hành bố thí Ba la mật
đa. Khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa,
trụ tâm vô lậu mà hành tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu bốn tĩnh lự, trụ tâm vô lậu
mà tu bốn tĩnh lư. Khi tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu bốn niệm trụ, trụ tâm vô
lậu mà tu bốn niệm trụ. Khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; trụ tâm vô lậu mà tu bốn chánh
đoạn cho đến tám thánh đạo chi? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu không giải thoát môn. Khi
tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; trụ tâm vô lậu mà tu vô tướng, vô
nguyện giải thoát môn? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ khổ thánh đế, trụ tâm vô
lậu mà trụ khổ thánh đế. Khi trụ tập diệt đạo thánh đế, trụ tâm vô lậu mà
trụ tập diệt đạo thánh đế? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu tám giải thoát, trụ tâm vô
lậu mà tu tám giải thoát. Khi tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu tất cả tam ma địa môn. Khi
tu tất cả đà la ni môn, trụ tâm vô lậu mà tu tất cả đà la ni môn? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ nội không, trụ tâm vô lậu
mà tu tất cả tam ma địa môn. Khi tu tất cả đà la ni môn, trụ tâm vô lậu mà
tu tất cả đà la ni môn? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ nội không, trụ tâm vô lậu
mà trụ nội không. Khi trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tư tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không; trụ tâm vô lậu mà trụ ngoại không cho
đến vô tánh tự tánh không? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ chơn như, trụ tâm vô lậu
mà trụ chơn như. Khi trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến
dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư
không giới, bất tư nghì giới; trụ tâm vô lậu mà trụ pháp giới cho đến bất
tư nghì giới? Bạch Thế Tôn! Sao la Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu năm nhãn, trụ tâm vô lậu mà
tu năm nhãn. Khi tu sáu thần thông, trụ tâm vô lậu mà tu sáu thần thông? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu Phật mười lực, trụ tâm vo
lậu mà tu Phật mười lực. Khi tu bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám
pháp Phật bất cộng? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu đại từ, trụ tâm vô lậu mà
tu đại từ. Khi tu đại bi, đại hỷ, đại xả; trụ tâm vô lậu mà tu đại bi, đại
hỷ, đại xả? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã ba la mật đa, khi tu pháp vô vong thất, trụ tâm
vô lậu mà tu pháp vô vong thất. Khi tu tánh hằng trụ xả, trụ tâm vô lậu mà
tu tánh hằng trụ xả? Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu nhất thiết trí, trụ tâm vô
lậu mà tu nhất thiết trí. Khi tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; trụ
tâm vô lậu mà tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí? Bạch Thế tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ,
trụ tâm vô lậu mà dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ. Khi dẫn tám mươi tùy hảo,
trụ tâm vô lậu mà dẫn tám mươi tùy hảo? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ
tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành
bố thí Ba la mật đa; chỗ gọi chẳng thấy ta năng hành thí, ta năng xả đây,
đối đây hành thí, do đây nên thí, vì đây nên thí. Hành thí như thế, trụ
trong tâm ly tướng vô lậu này, lìa ái lìa xan mà hành bố thí Ba la mật đa.
Bấy giờ, chẳng thấy sở hành bố thí, cũng lại chẳng thấy tất cả Phật pháp.
Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà hành bố thí Ba la mật đa. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành tịnh giới
Ba la mật đa; chỗ gọi chẳng thấy ta năng trì giới, ta năng xả đây, đối đây
tu trì, do đây trì giới, vì đây trì giới. Trì giới như thế, trụ trong tâm
ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà hành tịnh giới, cũng lại
chẳng thấy sở hành tịnh giới, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến
chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà
hành tịnh giới Ba la mật đa. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành bốn tĩnh
lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì
đây. Tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định như thế, trụ trong tâm
ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn vô sắc định. Bấy giờ, chẳng thấy sở tu bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn vo sắc định, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng
thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu bốn
tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu
bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, ta năng xả đây, đối đây, do đây,
vì đây. Tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi như thế, trụ trong tâm
ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu bốn niệm trụ cho đến tám
thánh đạo chi, cũng lại chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha
tát trụ tâm vô lậu mà tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành không, vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu không, vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây.
Tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn như thế, trụ trong tâm ly
tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà trụ khồ tập diệt đạo thánh đế,
cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp.
Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành Bát nhã Ba
la mật đa, đem tâm ly tướng tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu tám giải thoát, tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, ta năng xả đây, đối đây, do đây,
vì đây. Tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu
tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Bấy giờ,
chẳng thấy sở tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật
pháp. Như vậy, Bo tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu tám giải thoát, tám
thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu tất cả tam ma
địa môn, đà la ni môn. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu tất cả tam ma địa
môn, đạ la ni môn, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu tất cả tam
ma địa môn, đà la ni môn như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu đây, cho
đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Nhủ vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu
mà tu tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng trụ nội không,
ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không,
hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến
dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết
pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự
không. Chỗ gọi chảng thấy ta năng trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh
không, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Trụ nội không cho đến vô
tánh tự tánh không như thế, trong tâm ly tướng vô lậu này không nhiễm
không đắm mà trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Bây giờ, chẳng
thấy sở trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng lại chẳng thấy
tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha
tát trụ tâm vô lậu mà trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha ta
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng trụ chơn như, pháp
giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư
nghì giới. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng trụ chơn như cho đến bất tư nghì
giới , ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Trụ chơn như cho đến bất
tư nghì giới như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không
đắm mà tu năm nhãn, sáu thần thông, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì
đây. Tu năm nhãn, sáu thần thông như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu
không nhiễm không đắm mà tu năm nhãn, sáu thần thông. Bấy giờ, chẳng thấy
sở tu năm nhãn, sáu thần thông, cũng lại chẵng thấy tâm vô lậu đây, cho
đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu
mà tu năm nhãn, sáu thần thông. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu Phật mười lực,
bốn vô sở úy, bốn vô nhại giải, mười tám pháp Phật bất công. Chỗ gọi chẳng
thấy ta năng tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám
pháp Phật bất cộng, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu Phật mười
lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng như thế,
trụ trong tâm ly tướng vô lu này, không nhiễm không đắm, mả tu Phật mười
lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Bấy giờ,
chẳng thấy sở tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám
pháp Phật bất cộng, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy
tấ cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu Phật pháp.
Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu Phật mười lực, bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất công. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa , đem tâm ly tướng tu đại từ , đại
bi, đại hỷ, đại xả. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, ta năng xả đây, do đây, vì đây. Tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
như thế, trụ tâm trong ly tướng vô lậu này, không nhiễm, không đắm mà tu
đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, . Bấy giờ, chẳng thấy sở tu đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, , cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng
thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu ma tu đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa , đem tâm ly tướng tu pháp vô vong
thất, tánh hằng trụ xả. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu pháp vô vong thất,
tánh hằng trụ xả. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu pháp vô vong thất, tánh
hằng trụ xả, ta năng xả đây, đối đây, vì đây. Tu pháp vô vong thất, tánh
hằng trụ xả như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không
đắm mà tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xa. Bấy giờ, chẳng thấy sổ tu
pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả , cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây,
cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô
lậu mà tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa , đem tâm ly tướng tu pháp vô song
thất, tánh hằng trụ xả nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất
thiết tướng trí như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm
không đắm mà tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bấy giờ, chẳng thấy sở tu pháp vô song
thất, tánh hằng trụ xả nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng
trí, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật
pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết tướng trí. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha
tát khi tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả hành Bát nhã Ba la mật đa ,
đem tâm ly tướng dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Chỗ gọi
chẳng thấy ta năng dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo, ta năng
xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi
tùy hảo, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả
Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà dẫn ba mươi hai
tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa
thẳm sâu, đố trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không
bóng, không tác, làm sao năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa? Làm sao năng viên mãn bốn niệm trụ,
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám
thánh đạo chi? Làm sao năng viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn? Làm sao năng viên mãn nội
không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không,
vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất
thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, vô tánh tự tánh không? Làm sao năng viên mãn chơn như,
pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình dẳng tánh,
lý sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì
giới? Lam sao năng viên mãn khổ tập diệt đạo thánh đế? Làm sao năng viên mãn bốn tĩnh
lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định? Làm sao năng viên mãn tám giải thoát,
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ? Làm sao năng viên mãn tất cả
tam ma địa môn, đà la ni môn? Làm sao năng viên mãn năm nhãn, sáu thần
thông? Làm sao năng viên mãn Phật mười
lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám Phật bất cộng? Làm sao năng
viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả? Làm sao năng viên mãn pháp vô
vong thất, tánh hằng trụ xả? Làm sao năng viên mãn nhất thiết trí, đạo
tướng trí, nhất thiết trí, đạo tứơng trí, nhất thiết tướng trí? Làm sao
năng viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo? Phật bảo: Thiện Hiện! Khi Bồ
tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô
lậu mà hành bố thí. Nếu các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần
mặc cho mặc, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần xe cưỡi cho xe cưỡi, cần tôi tớ
cho tôi tớ, cần ngọc báu cho ngọc báu, cần của lúa cho của lúa, cần hương
hoa cho hương hoa, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần đồ trang nghiêm cho đồ
trang nghiêm, cho đến tùy kia cần dùng thứ gì thảy đều cho thứ nấy. Nếu có
cần nội vật: đầu, mắt, tủy, não, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, , thịt,
lóng đốt, gân cốt, thân mạng, cũng đều thí cho. Nếu có cần ngoại vật: quốc
thành, thê tử, sở ái thân thuộc, các món trang nghiêm vui mừng thí cho.
Khi thí như thế, nếu có người đến trước mặt mắng nhiếc, hủy báng: "Khốn
thay, Đại sĩ! Dùng chi hạnh này ra làm vô ích, kẻ thí như vậy đời này đời
sau nhiều thứ khổ não". Bồ tát Ma ha tát này vì hành Bát nhã Ba la mật đa
thẳm sâu, nên dù nghe lời kia mà chẳng thối tâm, chỉ nghĩ rằng: " Người
kia dù có đến mắng nhiếc hủy báng ta, ta chẳng nên sanh lòng buồn bực ăn
năn, ta phải mạnh mẽ thí các hữu tình của vật cần dùng mà thân tâm không
mệt mỏi. Bồ tát Ma ha tát này đem phước thí này cùng các hữu tình bình
đẳng chung có, hồi hướng Vo thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi Bố thí và hồi
hướng như thế chẳng thấy tướng được thí. Chỗ gọi chẳng thấy ai thí cho ai,
vật gì đã thí, đối ai mả thí, do đâu mà thí, vì ai nên thí, vì sao hành
thí. Cũng lại chẳng thấy ai năng hồi hướng, hồi hướng chỗ nào, đố ai hồi
hướng, do đâu hồi hướng, hồi hướng làm gì, vì sao hồi hướng. Đối với tất
cả sự vật như thế thảy, thảy đều chẳng thấy. Vì cớ sao? Vì các pháp như
thế hoặc do nội không nên không, hoặc do ngoại không nên không, hoặc do
nội ngoạikhông nên không, hoặc do không không nên không, hoặc do đại không
nên không, hoặc do thắng nghĩa không nên không, hoặc do hữu vi không nên
không, hoặc do vô vi không nên không, hoặc do tất cánh không nên không,
hoặc do vô tế không nên không, hoặc do tán không nên không, hoặc do tự
tướngkhông nên không, hoặc do cộng tướng không nên không, hoặc do nhất
thiết pháp không nên không, hoặc do bất khả đắc không nên không, hoặc do
vô tánh không nên không, hoặc do vô tánh tự tánh không nên không. Bồ tát
Ma ha tát này quán tất cả pháp, không có pháp nào chẳng không, rồi lại
khởi nghĩ rằng: Ai năng hồi hướng? Hồi hướng chỗ nào? Đối ai hồi hướng? Do
đâu hồi hướng? Hồi hướng làm gì? Vì sao hồi hướng? Các pháp như thế đều
chẳng khá được. Bồ tát Ma ha tát do quán như thế và nghĩ như thế, nên sở
tác hồi hướng gọi khéo hồi hướng, lìa độc hồi hướng, cũng gọi ngộ nhập
pháp giới hồi hướng. Do đây gọi là năng nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục
hữu tình. Cũng năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, bát nhã Bát nhã Ba la mật đa . Cũng năng viên mãn bốn niệm trụ, bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi. Cũng năng viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Cũng năng viên mãn không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế
không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự
tánh không, vô tánh tự tánh không. Cũng năng viên mãn chơn như, pháp giới,
pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh
tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Cũng
năng viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ. Cũng năng viên mãn tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn. Cũng năng viên
mãn, sáu thần thông. Cũng năng viên mãn Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng năng viên mãn đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả. Cũng năng viên mãn vô vong thất, tánh hằng trụ xả.
Cũng năng viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Cũng năng viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Bồ tát Ma
ha tát này tuy năng viên mãn bố thí Bát nhã Ba la mật đa la như thế, mà
chẳng thọ nhận thí quả dị thục. Tuy chẳng thọ nhận quả dị thục mả do bố
thí Bát nhã Ba la mật đa thiện thanh tịnh nen tùy ý năng hiện tất cả của
vật, ví như các trời Tha hóa tự tại, tất cả cần dùng tùy ý đều hiện. Bồ
tát Ma ha tát này cũng lại như thế, các thứ cần dùng tùy ý năng hiện. Do
thế lực bố thí tăng thượng đây, mới đem món món đồ dùng thượng diệu, cúng
dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Đức Phật Thế Tôn. Cũng năng đầy
đủ đồ sở dục tư cụ cho thế gian trời, người, a tố lạc thảy. Bồ tát Ma ha
tát nầy do bố thí Ba la mật đa đây nhiếp các hữu tình, phương tiện khéo
léo đem pháp Tam thừa mà an lập đó, tùy ýsở nghi đều được lợi vui. Như
vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thảm sâu,
do tâm lực vô lậu lìa các tướng, nên năng đối trong tất cả pháp không
tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn bố thí Ba la
mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác nữa. Lại nữa, Thiện Hiện! Sao là khi
Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đối trong tất cả
pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn
tịnh giới Ba la mật đa? Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha
tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô lậu thọ
trị tịnh giới, nghĩa la được nhiếp trong pháp Thánh đạo vô lậu. Bấy giờ,
được thiện thanh tịnh, giới thanh tịnh như thế, không khuyết không hở,
không vết không uế, không bị lấy đắm, đáng thọ cúng dượng, được kẻ trí
khen ngợi, giỏi khéo thọ trì, giỏi khéo rốt ráo, tùy thuận thắng định,
khác chẳng khuất phục. Do tịnh giới đây, đối tất cả pháp không bị lấy đắm.
Nghĩa là chẳng lấy đắm sắc, cũng chẳng lấy đắm thọ tưởng hành thức. Chảng
lấy đắm nhãn giới, cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chẳng lấy
đắm sắc xứ, cũng chẳng lấy đắm thanh hương vị xúc pháp xứ. Chẳng lấy đắm
nhãn giới, cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Chẳng lấy đắm
ba mươi hai tướng đại sĩ, cũng chẳng lấy đắm tám mươi tùy hảo. Chẳng lấy
đắm đại tộc Sát đế lợi; cũng chẳng lấy đắm đại tộc Bà la môn, đại tộc Cư
sĩ, đại tộc Trưởng giả. Chẳng lấy đắm trời Bốn đại vương chúng; cũng chẳng
lấy đắm trời Bát nhã Ba la mật đa mươi ba, trời Đổ sứ đa, trời Lạc biến
hóa, trời Tha hóa tự tại. Chẳng lấy đắm trời Phạm chúng; cũng chẳng lấy
đắm trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm. Chẳng lấy đắm trời Quang;
cũng chẳng lấy đắm trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang
tịnh. Chẳng lấy đắm trời Tịnh; cũng chẳng lấy đắm trời Thiểu tịnh, trời Vô
lượng tịnh, trời Biến tịnh. Chẳng lấy đắm trời Quảng; cũng chẳng lấy đắm
trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả và trời Vô tưởng.
Chẳng lấy đắm trời Vô phiền; cũng chẳng lấy đắm trời Vô nhiệt, trời Thiện
Hiện, trời Thiện Kiến, trời Sắc cứu cánh. Chẳng lấy đắm trời Không vô biên
xứ; cũng chẳng lấy đắm trời Thức vô biên xư, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi
phi tưởng xứ. Chẳng lấy đắm quả Dự lưu; cũng chẳng lấy đắm quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Chẳng lấy đắm ngôi vua Chuyển luân,
cũng chẳng lấy đắm các ngôi vua khác và các tể quan giàu sang tự tại. Chỉ
đem sở hộ tịnh giới như thế củng các hữu tình bình đẳng Bồ đề. Đem vô
tướng, không đắc, không hai làm phương tiện mà có hồi hướng; chẳng phải có
tướng có đắc, có hai làm phương tiện. Vì thế tục vậy mà có hồi hứơng,
chẳng phải thắng nghiã vậy. Do nhân duyên đây, tất cả Phật pháp không thứ
nào mà chẳng viên mãn. Bồ tát Ma ha tát này do tịnh giới Bát nhã Ba la mật
đa đây viên mãn thanh tịnh, phương tiện khéo léo khởi bốn phần tĩnh lự
thắng tiến, không say đắm làm phương tiện nên phát sanh các thứ thần
thông. Bồ tát Ma ha tát này dùng thanh
tịnh thiên nhãn dị thục sanh, hằng thấy các Đức Phật hiện tại mười phương
vô biên thế giới yên ổn trụ trì, vì các hữu tình duyên nói chánh pháp.
Thấy rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng hề quên mất. Bồ tát Ma ha tát này dùng thanh
tịnh thiên nhĩ vượt xa hơn người, hằng nghe các Đức Phật mười phương
thuyết pháp. Nghe rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng
hề quên mất. Bồ tát Ma ha tát này dùng thanh
tịnh thiên nhĩ vượt xa hơn người, hằng nghe các Đức Phật mười phương
thuyết pháp. Nghe rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng
hề quên mất. Tùy pháp đã nghe, năng làm các việc lợi vui mình người, không
bỏ luống qua. Bồ tát Ma ha tát này dùng sai
biệt trí tha tâm, biết Phật mười phương và pháp tâm, tâm sở cuả hữu tình.
Biết rồi năng khởi các việc lợi vui tất cả hữu tình. Bồ tát Ma ha tát này dùng trí
túc trụ tùy nhớ biết những nghiệp mình tạo ra đời trước của các hữu tình.
Do sở tạo nghiệp chẳng hoại mất nên sanh chỗ kia, thọ các thứ khổ vui,
biết rồi nói việc bổn nghiệp nhân duyên khiến các chúng sanh ấy nhớ lại
kiếp trước, làm các việc lợi ích. Bồ tát Ma ha tát này dùng trí
lậu tận an lập hữu tình, hoặc khiến họ trụ quả Dự lưu, hoặc khiến trụ quả
Nhất lai, hoặc khiến trụ quả Bất hoàn, hoặc khiến trụ quả A la hán, hoặc
khiến trụ Độc giác Bồ đề, hoặc khiến trụ ngôi Bồ tát Ma ha tát , Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề. Tóm lại mà nói, Bồ tát Ma ha
tát này hoặc các nơi nào tùy các hữu tình thọ lãnh những việc sai khác,
phương tiện khéo léo khiến các chúng sanh ấy an trụ trong các pháp lành.
Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm
sâu, do tâm lực vô lậu lìa các tướng, hay đổi với trong tất cả các pháp
không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn tịnh
giới Bát nhã Ba la mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác nữa. Lại nữa, Thiện Hiện! Sao là khi
Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đối trong tất cả
các pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên
mãn an nhẫn Bát nhã Ba la mật đa ? Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha
tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô lậu mà tu
an nhẫn. Bồ tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên nơi tòa vi
diệu Bồ đề. Trong khoảng thời gian ở giữa đó, giả sử các loại hữu tình đều
cầm các thứ ngói đá dao gậy đua nhau đến gia hại, Bồ tát Ma ha tát này
chẳng khởi lên một niệm tức giận. Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát nên tu hai
nhẫn. Những gì là hại? Một là nên chịu tất cả hữu tình mạ nhục gia hại
chẳng sanh tức giận, đó là Phục sân nhuế nhẫn. Hai là nên khởi Vô sanh
pháp nhẫn. Bồ tát Ma ha tát này nếu bị các thứ ác ngôn mạ nhục, hoặc bị
các thứ dao gậy gia hại, nên suy nghĩ kỹ, lo lường quan sát: Ai năng mạ
nhục, ai năng gia hại, ai chịu mạ nhục, ai chịu gia hại, ai khởi tức giận,
ai nên nhẫn chịu? Lại nên quan sát hết thảy pháp tánh rốt ráo đều không,
pháp đã chẳng có, huống là pháp tánh. Đã không có pháp tánh, huống lại có
hữu tình. Khi quan sát như thế hoặc năng mạ nhục, hoặc sở mạ nhục, hoặc
năng gia hại, hoặc sở gia hại, đều chẳng thấy có. Cho đến mổ xẻ cắt chia
thân thể từng phần, nơi tâm an nhẫn đều không có niệm gì khác. Đối với các
pháp tánh quán sát như thật, lại năng chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Vì sao
gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Nghĩa là khiến cho các phiền não chẳng sanh và
quán các pháp rốt ráo chẳng khởi, vi diệu trí huệ thường không gián đoạn.
Vì vậy gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Bồ tát Ma ha tát này an trụ trong hai thứ
nhẫn như thế, mau năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa. Cũng năng viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh
đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo
chi. Cũng năng viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng
năng viên mãn nội ngoại không, ngoại không, nội ngoại không, không không,
đại không, thắng nghĩa không, hữ vi không, vô vi không, tất cánh không, vô
tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không,
cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không,
tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc
không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự không. Cũng năng viên mãn
chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không, giới, bất
tư nghì giới. Cũng năng viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc
định. Cũng năng viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định,
mười biến xứ. Cũng năng viên mãn khổ tập diệt đạo thánh đế. Cũng năng viên
mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng năng viên mãn tám
giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng năng viên
mãn tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn. Cũng năng viên mãn năm nhãn, sáu
thần thông. Cũng năng viên mãn Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng năng viên mãn đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả. Cũng năng viên mãn vô song thất, tánh hằng trụ xả. Cũng năng
viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng năng
viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Bồ tát Ma ha tát này
an trụ các Phật pháp như thế rồi, đồi thần thông thánh vô lậu xuất thế
chẳng chung tất cả Thanh văn, Độc giác, đều được tự tại. An trụ thắng thần
thông như thế rồi, Bồ tát Ma ha tát này dùng tịnh thiên nhãn hằng thấy các
Đức Phật hiện tại mười phương vô biên thế giới yên ổn trụ trì, vì các hữu
tình tuyên nói chánh pháp. Thầy rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề, khởi Phật tùy niệm thường không gián đoạn. Bồ tát Ma ha tát
này dùng tịnh thiên nhĩ, hằng nghe Đức Phật thường tuyên nói pháp. Nghe
rồi thọ trì thường chẳng quên mất, vì các hữu tình như thật tuyên nói. Bồ
tát Ma ha tát này dùng tha tâm trí thanh tịnh, năng chánh so lường pháp
tâm, tâm sở các Đức Phật mười phương, cũng năng chánh biết pháp tâm, tâm
sở tất cả Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, cũng năng chánh biết pháp tâm, tâm
sở tất cả Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, cũng năng chánh biết pháp tâm, tâm
sở tất cả hữu tình, tùy kia sở ưng mà thuyết chánh pháp. Bồ tát Ma ha tát
này dùng trí túc trụ tùy niệm, biết các hữu tình trồng các căn lành đời
trước nhiều thứ sai khác. Biết rồi phương tiện chỉ vẽ, khuyên dẫn, khen
gắng vui mừng, khiến được lợi ích an vui thù thắng. Bồ tát Ma ha tát này
dùng trí lậu tận tùy sở nghi kia an lập hữu tình nói pháp Tam thừa. Bồ tát
Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa, phương tiện khéo léo thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau được đầy đủ Nhất thiết tướng trí,
chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng
sanh. Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật
đa thẳm sâu, do tâm lực vô lậu lìa các tướng, năng đối trong tất cả pháp
không tướng, không giác, không đẳng, không bóng, không tác, viên mãn an
nhẫn Bát nhã Ba la mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác nữa.